Tác giả / Nguồn: Blog Trần Vinh Dự
Trên góc độ thực nghiệm, nghiên cứu thú vị nhất cho đến giờ có lẽ
là của Steven D. Levitt và Sudhir Alladi Venkatesh có tựa đề “ nghiên cứu định lượng về gái bán dâm đường phố” (An Empirical Analysis of Street-Level Prostitution).
Trong nghiên cứu này, Levitt và Venkatesh đã thực hiện thu thập số liệu
về mại dâm đường phố trực tiếp từ việc quan sát các giao dịch diễn ra
giữa gái mại dâm và khách hàng, và số liệu từ Sở Cảnh sát Thành phố
Chicago. Nghiên cứu của hai ông đem lại nhiều kết quả rất đáng quan tâm:
Thứ nhất, dựa vào số liệu thu thập được từ sở cảnh sát Chicago, hai ông chỉ ra khoảng 50% các vụ bắt bớ của cảnh sát với loại tội phạm này diễn ra trong một diện tích rất bé của thành phố (khoảng 0.33% diện tích thành phố). Vì mại dâm đường phố là một loại tội phạm dựa trên thị trường (có người mua người bán), nên nó khá giống với loại tội phạm liên quan đến chất gây nghiện (cũng dựa trên thị trường) và khác xa với các loại tội phạm không dựa trên thị trường (cướp giật, trộm cắp…) ở chỗ nó tập trung vào một số địa điểm tương đối cố định mặc dù điều đó có nghĩa cảnh sát cũng dễ tìm ra và thực hiện các vụ bắt bớ. Lý do là những người cung cấp dịch vụ mại dâm đường phố cần khách hàng của họ tìm ra mình, vì vậy họ cần tập trung ở một số địa điểm tương đối cố định.
Cũng liên quan đến tính tập trung về không gian của thị trường này, Levitt và Venkatesh còn tìm thấy các mối quan hệ về mặt thống kê rất rõ ràng. Thí dụ ở những khu vực gần các địa điểm sinh hoạt công cộng (bến tàu, nhà ga) hoặc các khu thu nhập thấp thường có tỷ lệ các vụ bắt bớ cao hơn (đồng nghĩa với việc hoạt động mại dâm năng động hơn). Trong tương quan với các loại tội phạm khác, ở những khu người da đen sinh sống thì tỷ lệ các loại tội phạm khác cao hơn trong khi đối với mại dâm thì lại thấp hơn. Tương tự như thế, tỷ lệ các loại tội phạm khác cao hơn trong những khu dân cư mà phụ nữ làm chủ gia đình nhưng hoạt động mại dâm thì lại thấp hơn ở các khu vực này.
Thứ hai, về mặt giá cả và thu nhập, Levitt và Venkatesh thu thập số liệu về giá cả của các giao dịch và thống kê rằng thu nhập cho mỗi giờ làm việc của gái mại dâm đường phố ở Chicago năm 2007 là US$27, gấp khoảng 4 lần mức thu nhập theo giờ mà những người phụ nữ này nhận được nếu làm các ngành nghề khác (trung bình khoảng US$7/giờ). Tuy nhiên, để đánh đổi lấy mức thu nhập cao hơn khoảng gấp 04 lần, những người phụ nữ này phải chịu đựng một rủi ro rất lớn về an toàn. Levitt và Venkatesh ước tính rằng trung bình mỗi năm mỗi cô gái làm nghề mại dâm đường phố ở Chicago bị đánh đập khoảng một vài chục lần và phải thực hiện khoảng 300 dịch vụ mại dâm không an toàn.
Số liệu của Levitt và Venkatesh cũng cho thấy nhiều điểm thú vị về giá cả và mặc cả. Giá cả cho dịch vụ này thay đổi rất lớn phụ thuộc vào khách hàng thuộc nhóm sắc tộc nào và loại dịch vụ được cung cấp (xem bảng đính kèm). Khách hàng da đen thường phải trả ít tiền hơn so với người da trắng hoặc người Hispanic. Điểm kỳ dị giữa các nhóm người này là một khách quen người Mỹ đen thì thường được giảm giá đáng kể (khoảng 8%), trong khi một khách quen người Mỹ trắng thì lại phải trả giá cao hơn (hơn 30%) và khách quen người Hispanic cũng vậy (hơn 20%). Giá cả cũng tăng lên nhiều nếu khách hàng muốn quan hệ tình dục không an toàn. Levitt và Venkatesh thống kê được tỷ lệ các lần quan hệ không an toàn trong khảo sát của các ông rất cao, lên tới 75%.
Phát hiện thứ 3, tương đối gây shock, là số người lao động trên thị trường này tăng rất nhanh theo giá cả và thời điểm. Trong kỳ nghỉ Quốc khánh Mỹ, hai ông tính được số lượng giao dịch tăng đột biến tới 60% so với ngày thường và giá cả tăng lên khoảng 30%. Hai ông tính được rằng có rất nhiều phụ nữ bình thường không tham gia hoạt động mại dâm đã tham gia thị trường này để phục vụ nhu cầu tăng lên và hưởng giá dịch vụ cao hơn.
Phát hiện tiếp theo là về cách tổ chức thị trường. Trong nghiên cứu của các ông, thành phố Chicago có hai khu vực thị trường ở tương đối gần nhau là Roseland và Pullman nhưng cách thức vận hành thị trường lại khác hẳn. Nếu như ở Roseland, gái mại dâm đường phố tìm khách trực tiếp mà không qua môi giới thì ở Pullman phần lớn các gái mại dâm đường phố lại sử dụng má mì để tìm khách. Điểm độc đáo là ở chỗ gái mại dâm kiếm khách qua dịch vụ môi giới phải làm ít giờ hơn, thu nhập cao hơn, và ít bị bắt bớ hơn so với những người không sử dụng dịch vụ này (xem bảng đính kèm). Chính vì điều này, trong các khảo sát của Levitt và Venkatesh, gái mại dâm thường muốn sử dụng dịch vụ môi giới hơn là hoạt động độc lập, tuy nhiên, số lượng những người làm nghề môi giới này có hạn nên việc tìm được người môi giới đại diện cho họ không dễ.
Phát hiện cuối cùng, tương đối hài hước, là về sự tương tác giữa cảnh sát và gái mại dâm. Levitt và Venkatesh phát hiện ra rằng khác với các loại tội phạm khác, hoạt động mại dâm không giảm đi bao nhiêu ngay cả khi số các vụ bắt bớ tăng lên. Lý do là phần lớn các vụ bắt bớ này không dẫn tới việc giam giữ dài hạn. Trung bình, mỗi gái mại dâm đường phố bị bắt khoảng 1 lần trong một tháng (tương đương khoảng 1 lần bị bắt cho 450 lần cung cấp dịch vụ cho khách hàng), và trong khoảng 10 vụ bắt bớ thì chỉ có 1 vụ dẫn tới án tù. Trung bình nếu bị án tù thì gái mại dâm sẽ phải ngồi tù khoảng 1,2 năm. Đối với các khách làng chơi vì tỷ lệ bị bắt còn ít hơn và hình phạt nặng nhất cho họ là việc bị đăng ảnh lên trang web của Sở Cảnh sát Chicago.
Hai ông cũng phát hiện ra rằng có rất nhiều cảnh sát đã đòi được quan hệ tình dục miễn phí với gái mại dâm để đổi chác về việc không bị bắt về đồn. Với những gái mại dâm không sử dụng dịch vụ môi giới, trung bình cứ 100 lần quan hệ với khách hàng thì có 3 lần là quan hệ với cảnh sát để tránh bị bắt.
Đó là câu chuyện về các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm trong kinh tế học về thị trường mại dâm. Quay lại câu chuyện mại dâm ở Việt Nam, các hiện tượng mà xã hội đang quan tâm có ít nhiều trùng khớp với các nghiên cứu hàn lâm?(còn tiếp)
Thứ nhất, dựa vào số liệu thu thập được từ sở cảnh sát Chicago, hai ông chỉ ra khoảng 50% các vụ bắt bớ của cảnh sát với loại tội phạm này diễn ra trong một diện tích rất bé của thành phố (khoảng 0.33% diện tích thành phố). Vì mại dâm đường phố là một loại tội phạm dựa trên thị trường (có người mua người bán), nên nó khá giống với loại tội phạm liên quan đến chất gây nghiện (cũng dựa trên thị trường) và khác xa với các loại tội phạm không dựa trên thị trường (cướp giật, trộm cắp…) ở chỗ nó tập trung vào một số địa điểm tương đối cố định mặc dù điều đó có nghĩa cảnh sát cũng dễ tìm ra và thực hiện các vụ bắt bớ. Lý do là những người cung cấp dịch vụ mại dâm đường phố cần khách hàng của họ tìm ra mình, vì vậy họ cần tập trung ở một số địa điểm tương đối cố định.
Cũng liên quan đến tính tập trung về không gian của thị trường này, Levitt và Venkatesh còn tìm thấy các mối quan hệ về mặt thống kê rất rõ ràng. Thí dụ ở những khu vực gần các địa điểm sinh hoạt công cộng (bến tàu, nhà ga) hoặc các khu thu nhập thấp thường có tỷ lệ các vụ bắt bớ cao hơn (đồng nghĩa với việc hoạt động mại dâm năng động hơn). Trong tương quan với các loại tội phạm khác, ở những khu người da đen sinh sống thì tỷ lệ các loại tội phạm khác cao hơn trong khi đối với mại dâm thì lại thấp hơn. Tương tự như thế, tỷ lệ các loại tội phạm khác cao hơn trong những khu dân cư mà phụ nữ làm chủ gia đình nhưng hoạt động mại dâm thì lại thấp hơn ở các khu vực này.
Thứ hai, về mặt giá cả và thu nhập, Levitt và Venkatesh thu thập số liệu về giá cả của các giao dịch và thống kê rằng thu nhập cho mỗi giờ làm việc của gái mại dâm đường phố ở Chicago năm 2007 là US$27, gấp khoảng 4 lần mức thu nhập theo giờ mà những người phụ nữ này nhận được nếu làm các ngành nghề khác (trung bình khoảng US$7/giờ). Tuy nhiên, để đánh đổi lấy mức thu nhập cao hơn khoảng gấp 04 lần, những người phụ nữ này phải chịu đựng một rủi ro rất lớn về an toàn. Levitt và Venkatesh ước tính rằng trung bình mỗi năm mỗi cô gái làm nghề mại dâm đường phố ở Chicago bị đánh đập khoảng một vài chục lần và phải thực hiện khoảng 300 dịch vụ mại dâm không an toàn.
Số liệu của Levitt và Venkatesh cũng cho thấy nhiều điểm thú vị về giá cả và mặc cả. Giá cả cho dịch vụ này thay đổi rất lớn phụ thuộc vào khách hàng thuộc nhóm sắc tộc nào và loại dịch vụ được cung cấp (xem bảng đính kèm). Khách hàng da đen thường phải trả ít tiền hơn so với người da trắng hoặc người Hispanic. Điểm kỳ dị giữa các nhóm người này là một khách quen người Mỹ đen thì thường được giảm giá đáng kể (khoảng 8%), trong khi một khách quen người Mỹ trắng thì lại phải trả giá cao hơn (hơn 30%) và khách quen người Hispanic cũng vậy (hơn 20%). Giá cả cũng tăng lên nhiều nếu khách hàng muốn quan hệ tình dục không an toàn. Levitt và Venkatesh thống kê được tỷ lệ các lần quan hệ không an toàn trong khảo sát của các ông rất cao, lên tới 75%.
Phát hiện thứ 3, tương đối gây shock, là số người lao động trên thị trường này tăng rất nhanh theo giá cả và thời điểm. Trong kỳ nghỉ Quốc khánh Mỹ, hai ông tính được số lượng giao dịch tăng đột biến tới 60% so với ngày thường và giá cả tăng lên khoảng 30%. Hai ông tính được rằng có rất nhiều phụ nữ bình thường không tham gia hoạt động mại dâm đã tham gia thị trường này để phục vụ nhu cầu tăng lên và hưởng giá dịch vụ cao hơn.
Phát hiện tiếp theo là về cách tổ chức thị trường. Trong nghiên cứu của các ông, thành phố Chicago có hai khu vực thị trường ở tương đối gần nhau là Roseland và Pullman nhưng cách thức vận hành thị trường lại khác hẳn. Nếu như ở Roseland, gái mại dâm đường phố tìm khách trực tiếp mà không qua môi giới thì ở Pullman phần lớn các gái mại dâm đường phố lại sử dụng má mì để tìm khách. Điểm độc đáo là ở chỗ gái mại dâm kiếm khách qua dịch vụ môi giới phải làm ít giờ hơn, thu nhập cao hơn, và ít bị bắt bớ hơn so với những người không sử dụng dịch vụ này (xem bảng đính kèm). Chính vì điều này, trong các khảo sát của Levitt và Venkatesh, gái mại dâm thường muốn sử dụng dịch vụ môi giới hơn là hoạt động độc lập, tuy nhiên, số lượng những người làm nghề môi giới này có hạn nên việc tìm được người môi giới đại diện cho họ không dễ.
Phát hiện cuối cùng, tương đối hài hước, là về sự tương tác giữa cảnh sát và gái mại dâm. Levitt và Venkatesh phát hiện ra rằng khác với các loại tội phạm khác, hoạt động mại dâm không giảm đi bao nhiêu ngay cả khi số các vụ bắt bớ tăng lên. Lý do là phần lớn các vụ bắt bớ này không dẫn tới việc giam giữ dài hạn. Trung bình, mỗi gái mại dâm đường phố bị bắt khoảng 1 lần trong một tháng (tương đương khoảng 1 lần bị bắt cho 450 lần cung cấp dịch vụ cho khách hàng), và trong khoảng 10 vụ bắt bớ thì chỉ có 1 vụ dẫn tới án tù. Trung bình nếu bị án tù thì gái mại dâm sẽ phải ngồi tù khoảng 1,2 năm. Đối với các khách làng chơi vì tỷ lệ bị bắt còn ít hơn và hình phạt nặng nhất cho họ là việc bị đăng ảnh lên trang web của Sở Cảnh sát Chicago.
Hai ông cũng phát hiện ra rằng có rất nhiều cảnh sát đã đòi được quan hệ tình dục miễn phí với gái mại dâm để đổi chác về việc không bị bắt về đồn. Với những gái mại dâm không sử dụng dịch vụ môi giới, trung bình cứ 100 lần quan hệ với khách hàng thì có 3 lần là quan hệ với cảnh sát để tránh bị bắt.
Đó là câu chuyện về các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm trong kinh tế học về thị trường mại dâm. Quay lại câu chuyện mại dâm ở Việt Nam, các hiện tượng mà xã hội đang quan tâm có ít nhiều trùng khớp với các nghiên cứu hàn lâm?(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét