Thứ Hai, 18 tháng 6, 2012

Phong tục cưới của người Dao Đỏ ở Tả Phìn, Sa Pa

Tiểu Phong
CTV Phía Trước
Mùa xuân là mùa của trăm hoa đua nở, mùa của hạnh phúc lứa đôi. Theo phong tục Á Đông, mùa xuân cũng là mùa cưới. Từ Bắc chí Nam, từ miền ngược đến miền xuôi, đâu đâu cũng bắt gặp không khí rộn ràng của đám cưới, những nụ cười rạng ngời của cả hôn chủ và khách khứa gần xa. Trong bài viết này, chúng ta hãy đến xã Tả Phìn, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai để cùng tìm hiểu về đám cưới của người Dao Đỏ với những tập tục và nghi thức độc đáo.

Thiếu nữ Dao Đỏ
Xã Tả Phìn cách thị trấn Sa Pa 12 km về hướng đông bắc, nằm trong tuyến du lịch Sa Pa – Tả Phìn, một trong 4 tuyến du lịch trọng điểm của huyện Sa Pa[1]. Dân cư trong xã chủ yếu là người Mông và người Dao (nhóm Dao Đỏ), trong đó, người Dao cư trú ở 04/06 thôn với 1.047 nhân khẩu, chiếm 68,3% dân số toàn xã[2]. Cộng đồng dân cư nơi đây hiện còn bảo lưu được nhiều sắc thái văn hoá cổ truyền, trong đó có phong tục cưới của người Dao Đỏ.

Những nguyên tắc hôn nhân
Người Dao Đỏ quan niệm hôn nhân là đại sự hệ trọng của cả đời người. Vì vậy, những gia đình có con trai phải lựa chọn những cô gái tốt mới lấy về làm dâu. Hầu hết các cặp uyên ương của người Dao Đỏ đều do cha mẹ ghép đôi theo nguyên tắc ngoại hôn dòng họ, nếu cùng họ phải cách 9 đời. Và đặc biệt người Dao Đỏ coi trọng nguyên tắc hợp tuổi của đôi lứa. Vì vậy, cha mẹ chàng trai phải nhờ thầy bói làm giúp lễ so tuổi (Mai neng). Tuổi hôn nhân được các thầy bói người Dao so trong sách Hợp hôn (Hợp huân sâu) theo nguyên tắc kết hợp thiên can – địa chi với thuyết âm dương ngũ hành, chú trọng tam hợp, lục hợp, tránh xung khắc. Hôn lễ chỉ được tổ chức cho những cặp trai gái hợp tuổi. Các đôi nam nữ yêu nhau nhưng không hợp tuổi sẽ không được phép kết hôn.
Diễn trình nghi lễ cưới
Đám cưới cổ truyền của người Dao Đỏ trải qua các nghi lễ: dạm hỏi (Gia tịnh pía sung), cưới (Hớp tiu) và lại mặt (Dịa lẩy). Hoặc phân loại theo tiến trình lễ cưới: trước lễ cưới, lễ cưới, sau lễ cưới.
Lễ dạm hỏi
Lễ dạm hỏi thường được người Dao Đỏ tổ chức vào tháng hai, tháng ba âm lịch. Nghi lễ được tổ chức gọn nhẹ nhưng trang trọng. Nhà trai chọn ngày lành mang lễ sang nhà gái gồm một con lợn 20 – 25 kg, 5 con gà (≈ 1 kg/con), 10 lít rượu trắng cùng vải thêu tơ tằm để cô dâu may đồ cưới. Mỗi bên gia đình cử ra một người khéo ăn nói để cùng ấn định lễ vật dẫn cưới và ngày giờ tổ chức rồi ghi vào vào hai bản giấy đỏ gọi là “lộc mệnh”, mỗi bên giữ một bản để làm tin. Lễ dạm hỏi thành công, nhà trai trao cho nhà gái đôi vòng tay bạc đính ước để cha mẹ cô gái đeo cho con. Với đôi vòng bạc trên tay, cô gái đã là người “có nơi có chốn”. Sau lễ dạm hỏi, cô dâu phải chuẩn bị quần áo mới cho mình và chú rể, nhà trai lo chuẩn bị lễ vật dẫn cưới và rượu, thịt cho hôn lễ.
Lễ cưới
Người Dao Đỏ thường tổ chức đám cưới trong khoảng thời gian từ tháng mười đến tháng chạp. Đám cưới diễn ra trong ba ngày ba đêm. Ngày thứ ba là ngày cưới chính bao giờ cũng phải là một trong các ngày Dần, Mão, Ngọ, Mùi – những ngày tốt theo quan niệm của người Dao Đỏ. Toàn bộ nội dung và cách thức tổ chức đám cưới được ghi trong sách Cắp huôn sâu (Sách kết hôn):
Ngày thứ nhất: Hai bên gia đình làm lễ trình báo tổ tiên. Nhà trai cắt giấy màu, ghi câu đối, trang hoàng nhà cửa, dựng buồng tạm ở ngoài hiên để chuẩn bị đón dâu, lại cử 2 người mang đồ dẫn cưới sang nhà gái gồm rượu, thịt để nhà gái tổ chức tiệc rượu liên hoan.

Đoàn đưa dâu
Ngày thứ hai: Nhà gái đưa dâu sang nhà trai. Nhà trai lập đội nhạc 4 người: thổi kèn (suy tí), đánh trống (dủ), đánh thanh la (xạ chấy) và đánh chiêng (thùng lò) do ông thổi kèn làm đội trưởng. Đội nhạc thay mặt nhà trai đón đoàn nhà gái ở ngang đường (ngoài làng). Đêm hôm ấy, ông bà mối, phù dâu, cô dâu cùng bố mẹ cô dâu nghỉ tại gian buồng tạm ngoài hiên. Khách khứa nhà gái vào nhà trai bằng lối cửa phụ.
Ngày thứ ba: Tổ chức đón dâu, trao dâu, bái đường và liên hoan tiệc cưới.
Theo quan niệm của người Dao Đỏ, giờ đẹp để đón dâu ở trong khoảng thời gian từ giờ mão đến chính ngọ (tức từ 4 giờ sáng đến 12 giờ trưa). Trong khoảng thời gian ấy, người ta chọn một khung giờ hợp với tuổi của cô dâu mới tổ chức đón dâu vào nhà.
Trước khi đón dâu diễn ra nghi thức nhập khẩu cho cô dâu, tiếng Dao Đỏ gọi là Thim tinh, thường được thực hiện vào một trong các giờ Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ. Một mâm lễ đặt trước ban thờ tổ tiên. Thầy cúng khấn trình bày về quá trình vất vả đi tìm con dâu của gia đình nhà trai. Mong tổ tiên chấp nhận và nhập thêm khẩu vào gia đình, phù hộ vợ chồng khỏe mạnh, không ốm đau bệnh tật, sinh được nhiều con cái thông minh, tài giỏi, làm ăn giàu sang phú quý…
 Tiếp sau lễ nhập khẩu cho cô dâu là lễ đặt tên cho chú rể – một trong ba cái tên bắt buộc phải có trong một đời người đàn ông Dao Đỏ. Lễ này, tiếng Dao Đỏ gọi là Sất giềm bủa[3]. Để đặt được tên, thầy cúng sẽ thống nhất với bố mẹ chú rể về tên gọi. Tên được đặt trong lễ cưới chỉ dùng khi cúng và chết mà không được dùng gọi hằng ngày. Chú rể quỳ trước ban thờ. Thầy cúng khấn báo cho tổ tiên biết gia đình có con trai đã lớn khôn, đã xác định được tên gọi, từ nay đã xây dựng gia đình, xin thông báo cho tổ tiên biết và phù hộ cho vợ chồng hạnh phúc, làm ăn phát đạt, sinh nhiều con cái thông minh…
Tiếp theo là nghi thức mở cửa lớn (Tải khai mần). Cả đội nhạc ùa vào giữa nhà múa lễ: ông thổi kèn đi trước, vừa đi vừa thổi, tiếp theo là ông đánh trống, ông đánh thanh la, ông đánh chiêng. Ông thổi kèn chạy ra ngoài cửa hướng kèn lên trời thổi mời tổ tiên về dự lễ cưới; lại quay 4 phuơng mời thần linh. Đội nhạc vừa thổi vừa múa các động tác sôi động, rộn ràng.
Trong lúc ấy, ở buồng tạm, nhà gái trang điểm lại cho cô dâu trước khi bước vào nhà chồng. Cô dâu mặc 3 – 4 bộ quần áo để mong sung túc về sau rồi lại đeo yếm ngực, quấn thắt lưng vào hông, đeo khăn địu vào lưng, cuốn xà cạp vào bắp chân, đi hài vải đen mũi cong, vấn lại tóc rồi đội mũ gỗ, trùm một vuông vải đỏ che kín đầu, quàng chéo ngực một băng vải đỏ, chính giữa ngực có điểm hoa bằng bạc trắng.

Cô dâu chú rể trong tiệc cưới
Trang điểm xong, phù dâu đưa cô dâu ra giữa sân. Lúc này, đám cưới diễn ra nghi thức phá trận dành (cô) dâu, tiếng Dao gọi là Hinh dìn tra (có nghĩa là Gỡ thông gia). Nhà gái lập trận bằng cách bố trí 8 đôi nam nữ đứng quanh cô dâu và phù dâu theo sơ đồ bát cung: Càn – Khôn – Ly – Khảm – Cấn – Chấn – Đoài – Tốn. Đội nhạc vừa tấu nhạc vừa đi theo hình bát quái: đi quanh họ nhà gái hai vòng (tượng trưng cho thái âm, thái dương) rồi lại đi hai vòng quanh cô dâu và phù dâu (tượng trưng cho thiếu âm, thiếu dương). Sau đó, Đội nhạc đến lạy hai lạy trước ông bà mối và bố mẹ cô dâu xin phép gỡ vòng rồi đi ngược lại những vòng đã đi. Cuối cùng, đội nhạc đến lạy ba lạy trước mặt ông bà mối và bố mẹ cô dâu và xin phép đã đến giờ tốt được đón cô dâu vào nhà. Đoàn nhà gái tiến đến trước cửa chính, dừng ở ngưỡng cửa.
Trước khi đón dâu vào nhà diễn ra nghi thức đuổi ma tà. Người ta đặt trước ngưỡng cửa chính một chậu nước, trên miệng chậu gác chéo 2 con dao trừ tà (biểu tượng hình chữ VẠN -   ). Một thầy cúng cao tay được mời về thực hiện nghi thức đuổi ma. Một tay thầy cúng cầm bát nước, một tay cầm que sắt miệng lầm rầm niệm phép, đọc thần chú, đi xung quanh nhà, vừa đi vừa ngậm nước phép phun ra xung quanh, hết một vòng nhà lại cầm một con gà con vung ra tứ phía; sau đó dùng kiếm phép chặt đứt đầu gà, ném ra ngoài cửa, em gái chú rể từ trong nhà bước ra dắt tay cô dâu bước qua chậu nước phép vào nhà.
Lễ bái đường (Pái toòng) của người Dao Đỏ cũng có những sắc thái riêng. Cô dâu được đưa đến đứng trên chiếu hoa trải trước ban thờ. Chú rể mặc quần áo mới do cô dâu may, vấn khăn đen, đi hài vải mũi cong được phù rể dắt từ trong buồng ra đứng cạnh cô dâu. Thầy cúng làm phép thu vía cô dâu chú rể vào hai cái chén rồi rót rượu ban cho cô dâu chú rể – mỗi người phải uống cạn ba chén. Cặp chén sau đó được úp vào nhau, đặt lên ban thờ. Kể từ đây, cô dâu chú rể đã chính thức thành một cặp trước sự chứng kiến của tổ tiên. Cô dâu chú rể cùng vái tổ tiên 3 lần: lần thứ nhất – vái ba vái tổ tiên 9 đời của dòng họ; lần thứ hai – vái ba vái Bàn Vương, lục tướng, ngũ kỳ binh mã và 12 ông tổ của 12 dòng họ người Dao đã dẫn dắt con cháu vượt biển đông xuôi về phương nam; lần thứ ba – vái ba vái ông Trù Chông – thuỷ tổ người Dao. Sau đó, song thân phụ mẫu đến ngồi trên ghế đặt trước ban thờ nhận của cô dâu chú rể ba vái (chú rể vái gập lưng, cô dâu chỉ nhún gối).
Nhà trai sắp mâm bày tiệc rượu để quan khách hai họ cùng chung vui. Đội nhạc tấu nhạc mua vui trong suốt thời gian tiệc rượu. Cô dâu, chú rể đến từng mâm chúc rượu cảm ơn. Khách khứa nhận rượu rồi trao quà mừng, thường bằng tiền mặt (xưa dùng bạc trắng, nay dùng tiền giấy hiện hành) cùng những lời chúc tốt lành: phú quí giàu sang, sớm sinh quí tử…
Lễ lại mặt
Một tháng sau ngày cưới, nhà trai (gồm ông bà mối, bố mẹ chú rể và cô dâu, chú rể) mang lễ vật gồm một con lợn 10 – 20 kg, 1 đôi gà, 10 lít rượu sang nhà gái làm lễ lại mặt. Nhà gái làm cơm cúng báo tổ tiên rồi bầy mâm rượu đón tiếp nhà trai. Hai bên gia đình cùng vui vầy bên chén rượu ấm cúng, báo với nhau việc làm ăn trong thời gian qua và kế hoạch làm ăn trong thời gian tới.
T.P.

[1]. Bốn tuyến du lịch trọng điểm của huyện Sa Pa là: Sa Pa – Tả Phìn, Sa Pa – Tả Van – Bản Dền – Suối Thầu và Sa Pa – Nậm Sài – Nậm Cang, Sa Pa – Bản Khoang – Tả Giàng Phình, mỗi năm đón gần 50 vạn lượt du khách, trong đó có gần 25 vạn là du khách quốc tế bao gồm 85 quốc tịch và vùng lãnh thổ khác nhau.
[2]. Số liệu tổng điều tra dân số năm 2009 [Nguồn: UBND huyện Sa Pa cung cấp]
[3]. Theo phong tục truyền thống của người Dao Đỏ, một người đàn ông từ khi sinh ra cho đến khi lấy vợ phải có đủ 3 tên gọi gồm: tên đặt khi mới lọt lòng, tên đặt khi lấy vợ và tên đặt khi làm lễ cấp sắc.
_______
Chú thích ảnh:
1. Thiếu nữ Dao Đỏ (Nguồn ảnh: Sở VHTT-DL Lào Cai)
2. Đoàn đưa dâu (Nguồn ảnh: Sở VHTT-DL Lào Cai)
3. Cô dâu chú rể trong tiệc cưới (Nguồn ảnh: Sở VHTT-DL Lào Cai)
© Tạp Chí Phía Trước 2012

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét