Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

(1) Quốc hội thảo luận kinh tế-xã hội năm 2012 và 2013

Quốc hội thảo luận kinh tế-xã hội năm 2012 và 2013
BẢN TỔNG HỢP THẢO LUẬN TẠI HỘI TRƯỜNG
  (Ghi theo băng ghi âm)
 Buổi sáng ngày 30/10/2012
Nội dung:
Thảo luận ở hội trường về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2012, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2013.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng chủ trì
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân chủ trì điều khiển nội dung

Nguyễn Thị Kim Ngân - Phó chủ tịch Quốc hội
Kính thưa các vị đại biểu khách quý.
Kính thưa Quốc hội.
Theo chương trình làm việc của Quốc hội, trong cả ngày hôm nay và sáng ngày mai Quốc hội sẽ thảo luận ở Hội trường về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 2012, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013.
Các báo cáo về kinh tế - xã hội đã được Thủ tướng Chính phủ trình bày trước Quốc hội vào ngày đầu tiên của kỳ họp. Quốc hội đã có thời gian một ngày thảo luận ở Hội trường về các nội dung trên. Đoàn thư ký kỳ họp đã tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội gửi tới các vị đại biểu Quốc hội để nghiên cứu.

Phiên thảo luận Hội trường về kinh tế - xã hội luôn luôn nhận được sự quan tâm theo dõi của đông đảo cử tri cả nước và phiên họp sẽ được phát thanh và truyền hình trực tiếp. Để phiên thảo luận ở Hội trường có không khí sôi nổi, có nhiều đại biểu Quốc hội phát biểu nhiều nội dung phong phú, đa dạng, toàn diện trên tất cả các vấn đề của lĩnh vực đời sống kinh tế, xã hội trên phạm vi cả nước.
Đề nghị các vị đại biểu Quốc hội chú ý về thời gian và nội dung phát biểu không quá dài mà vẫn đủ ý để diễn đạt vấn đề mà đại biểu Quốc hội và cử tri quan tâm, không trùng với ý kiến đã phát biểu trước nhưng có thể cùng một vấn đề có thể phân tích sâu sắc thêm để làm rõ bản chất của vấn đề mà đại biểu quan tâm.
Sau đây kính mời các đại biểu Quốc hội bắt đầu thảo luận. Hiện nay trên màn hình của Đoàn Chủ tịch đã kín hết tất cả danh sách đăng ký và chắc chắn sẽ còn rất nhiều đại biểu Quốc hội đăng ký để phát biểu về kinh tế, xã hội.
Mở đầu phiên thảo luận, xin mời đại biểu Cao Sỹ Kiêm tỉnh Thái Bình phát biểu.

Cao Sĩ Kiêm - Thái Bình
Thưa Quốc hội.
Tôi xin bổ sung phân tích làm rõ một số nguyên nhân cụ thể trong báo cáo của Chính phủ kể cả kết quả và tồn tại. Trong điều kiện khó khăn như năm 2012, kết quả có được trong báo cáo có những nguyên nhân cụ thể như sau:
Thứ nhất, chúng ta đã tập trung kiềm chế lạm phát bằng các biện pháp mạnh và khá đồng bộ dù là giải pháp này nó cũng để lại một số hậu quả mà chúng ta đang phải gánh.
Thứ hai, chúng ta đã có sự linh hoạt trong điều hành, nhất là khi kiểm điểm 6 tháng có những vấn đề mới, chúng ta đã nới lỏng một số chính sách và kết hợp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cho các vướng mắc của nền kinh tế xã hội.
Thứ ba, trong điều kiện khó khăn như thế nhưng chúng ta đã bắt đầu triển khai đổi mới cơ cấu kinh tế gắn với 10 tăng trưởng ở một số lĩnh vực theo hướng thiết lập sự ổn định vĩ mô ngày càng vững chắc hơn như vấn đề tài chính, ngân hàng, thương mại, đầu tư.
Kết quả trên nó đã làm cho chúng ta giữ được trạng thái ổn định nền kinh tế trong điều kiện hết sức khó khăn. Chúng ta đã được các tổ chức quốc tế, nhất là các tổ chức tài chính đánh giá đi đúng hướng và đang khuyến khích kiến nghị chúng ta làm nhanh, làm mạnh và làm kiên quyết hơn. Những tồn tại nêu trong báo cáo của Chính phủ cũng như nhìn nhận lỗi của Thủ tướng có những nguyên nhân cụ thể như sau:
Thứ nhất, chúng ta chưa đánh giá và chưa kiểm soát được tình hình một cách chặt chẽ, một cách kịp thời, một cách sát đúng trên một số lĩnh vực với số liệu chưa tin cậy, thiếu thống nhất.
Thứ hai là một số chính sách giải pháp của chúng ta còn có tính chất nửa vời, hay thay đổi, thiếu sự phối hợp thống nhất để đảm bảo huy động sức mạnh tổng hợp. Nó biểu hiện rất rõ trên dư luận, trên báo chí và trên các báo cáo của các ngành, các cấp trong thời gian thực hiện vừa qua.
Thứ ba là trong những khó khăn ấy và những khuyết điểm ấy chúng ta đã làm mất đi hoặc thiếu đi những động lực phấn đấu, những ý chí phấn đấu, một số đã có hiện tượng nghi ngờ với các chính sách, giải pháp của chúng ta, cho nên sự thực hiện có phần hạn chế kể cả trong doanh nghiệp, trong dân, nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì thế cho nên xếp hạng của chúng ta đã bị các tổ chức quốc tế luôn luôn đánh tụt hạng và vừa qua đã sụt mất 10 bậc. Một số doanh nghiệp do khó khăn bế tắc không thoát ra được cho nên đang có tư tưởng trông chờ, ỷ lại và chờ thời. Một số nhà đầu tư nước ngoài đã có hiện tượng rời khỏi thị trường Việt Nam. Đấy là những nguyên nhân khuyết điểm cụ thể trong quản lý điều hành, trong thực hiện nhiệm vụ của chúng ta kể cả trong lãnh đạo chỉ đạo, trong giám sát và trong tổ chức điều hành.
Với năm 2013 rõ ràng rằng rất khó khăn kể cả trong nước và quốc tế chúng ta  đã dự báo được. Các mục tiêu đề ra trong năm 2013 là rất nặng nề và khả năng thực thi rất khó. Nhưng nhìn vào hệ thống giải pháp của chúng ta thì mang tính định hướng nhiều và nhiều lần chúng ta đã đề ra chưa thể hiện được những mối đột phá và những vấn đề để đảm bảo cho những khó khăn này chúng ta có thể vượt qua, thoát ra và đi lên. Với tình hình như thế, chúng tôi đề nghị những tháng còn lại của năm 2012 và năm 2013 tập trung làm rõ và làm được 3 vấn đề:
Một là tìm mọi cách và các phương pháp để chúng ta có thể kiểm soát được tình hình, đánh giá thực trạng của vấn đề, nhất là những vấn đề đã được phát hiện, đã được nhận lỗi, đã được kiểm điểm qua các kỳ của Nghị quyết Trung ương 4 bằng các hệ thống tiêu chí rõ ràng, công khai, minh bạch, bằng các số liệu mà phải có địa chỉ cung cấp, phải có trách nhiệm cung cấp và phải có trách nhiệm giải trình và phải có trách nhiệm với những số liệu đã được nêu ra.Chúng ta phải đặt thành vấn đề thường xuyên để kiểm soát những thông tin ấy. Ai đúng, ai sai và chúng ta phải xử lý những thông tin ấy nếu như gây hậu quả và quy trách nhiệm cho những người cung cấp thông tin và địa chỉ cung cấp thông tin. Chỉ có như thế chúng ta mới có thể đánh giá sát thực tình hình, chúng ta có thể kiểm soát tình hình và chúng ta mới có thể đưa ra chính sách sát tình hình;
Thứ hai, chúng ta phải công bố nhanh và làm rõ cụ thể hóa, chính xác những giải pháp mang tính tình thế mà đã được nêu ra như vấn đề giải phóng tồn kho, vấn đề xử lý nợ xấu, vấn đề thủ tục hành chính. Làm thế nào cho những chính sách này có thể bắt nhập được thực tiễn, nó có thể phù hợp với xu thế và thông lệ quốc tế, có khả năng giải quyết dứt điểm các tồn tại của chúng ta trên các lĩnh vực lớn hiện nay như các vấn đề đầu ra cho doanh nghiệp, đời sống một số vùng khó khăn, nợ xấu và nhiều vấn đề bức xúc của an sinh xã hội.
Thứ hai, phải đồng thời công bố ngay lộ trình thích hợp với điều kiện cụ thể để chúng ta có thể chuyển và biến chủ trương đổi mới kinh tế đi đột phá vào khâu thể chế và giải quyết những vấn đề tồn tại trong điều hành quản lý, nhất là quản lý kinh tế, quản lý đời sống, quản lý xã hội.
Thứ ba, trên cơ sở đã được kiểm nghiệm theo Nghị quyết Trung ương 4 có chương trình theo dõi kịp thời sửa của các cấp, các ngành đã được nêu ra để chúng ta góp phần tạo nên những yếu tố, những động lực mới để thực hiện năm 2013 và đây chính là điều kiện, yếu tố để chúng ta tạo dựng lại và tạo nên lòng tin, động lực, chí khí phấn đấu toàn dân và các doanh nghiệp. Xin cảm ơn Quốc hội.

Lê Hữu Đức - Khánh Hòa
Kính thưa Quốc hội,
Trước tiên, tôi đồng ý với Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 và nhiệm vụ năm 2013. Có thể nói tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm 2012 có những chuyển biến tích cực, đúng hướng. Chúng ta đã đạt và vượt 10/15 chỉ tiêu, kế hoạch đề ra, lạm phát được hạn chế, tăng trưởng kinh tế ước cả năm đạt 5,2%. Tôi cho rằng đây là cố gắng rất lớn của Chính phủ, lãi suất ngân hàng giảm, niềm tin vào đồng tiền Việt Nam được củng cố, công tác quốc phòng, an ninh, công tác đối ngoại đạt kết quả tốt, an sinh xã hội được bảo đảm và an toàn giao thông có tiến bộ.
Tình hình biển Đông có những diễn biến phức tạp, nhưng ta vẫn giữ được hòa bình, ổn định và các hoạt động kinh tế của ta trên biển vẫn diễn ra bình thường. Quân đội thường xuyên duy trì khả năng sẵn sàng chiến đấu cao, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, trong đó 9 tháng đầu năm 2012 bộ đội biên phòng, cảnh sát biển đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng công an làm tốt việc kiểm soát, quản lý biên giới trên đất liền, trên biển, ngăn chặn kịp thời các hoạt động vi phạm chủ quyền lãnh thổ và đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả, nhất là tội phạm ma túy, buôn lậu than, khoáng sản, xăng, dầu. Quân đội đã tích cực giúp dân phòng tránh khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, số liệu cụ thể mời các đồng chí xem trong Báo cáo của Chính phủ số 296 ngày 12 tháng 10 năm 2012. Trong Báo cáo của Chính phủ có đề ra các chỉ tiêu và 9 nhóm giải pháp thực hiện từ nay đến cuối năm 2012 và cả năm 2013. Tôi cho rằng đây là quyết tâm rất cao của Chính phủ. Tôi hoàn toàn nhất trí, tôi xin nhấn mạnh một số giải pháp như sau.
Thứ nhất, trong lộ trình tái cơ cấu ngân hàng và doanh nghiệp, tôi đề nghị Chính phủ phải kiên quyết sắp xếp cho dừng hoạt động các ngân hàng nhỏ, ngân hàng yếu kém, nợ xấu cao, nợ quá hạn nhiều, mất khả năng thanh khoản, những ngân hàng này hoạt động sẽ làm rối loạn tình hình lãi suất trên thị trường. Còn đối với các doanh nghiệp yếu kém thường xuyên, không có khả năng khôi phục, nợ xấu nhiều, nợ quá hạn nhiều, không đủ tiêu chí để vay ngân hàng, có cứu thì cũng có tồn tại thì nên sắp xếp lại và cho dừng hoạt động. Tôi cho rằng đây cũng là thời cơ để chúng ta làm lành mạnh lại các doanh nghiệp của đất nước.
Thứ hai, tôi đề nghị Chính phủ tập trung giải quyết nợ xấu và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Tôi đồng ý với quan điểm của Bộ Tài chính, trách nhiệm xử lý nợ xấu trước hết là của các tổ chức tín dụng và ngân hàng. Tôi biết rằng hiện nay nhiều ngân hàng đang tích cực trích lập dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu, đây cũng là tín hiệu tốt cho tình hình kinh tế của đất nước. Tuy nhiên để giải quyết tận gốc vấn đề này tôi ủng hộ chủ trương của Chính phủ thành lập công ty mua bán nợ quốc gia để xử lý nợ xấu, tất nhiên công ty này phải hoạt động công khai minh bạch và đúng pháp luật nhà nước.
Bên cạnh đó đề nghị Chính phủ có giải pháp để giải quyết hàng tồn kho các loại, phải kích cầu tiêu dùng mở rộng thị trường để giải quyết hàng tồn kho. Theo tôi nên phát hành trái phiếu công trình cho một số công trình trọng điểm quốc gia dân sinh, ưu tiên cho hệ thống giao thông vận tải, ví dụ như Đường 1A, từ đó chúng ta mới tiêu thụ được sắt thép, xi măng, vật liệu, hàng tồn kho. Đồng thời các doanh nghiệp cũng phải cố gắng vươn lên tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước để tiêu thụ sản phẩm, thực hiện giảm giá hậu mãi tốt để tiêu thụ được hàng. Bản thân các doanh nghiệp cũng phải tích cực sử dụng sản phẩm của nhau, tích cực tham gia vào cuộc vận động người Việt Nam sử dụng hàng Việt Nam.
Tôi đề nghị Chính phủ hạn chế tối đa việc nhập khẩu các mặt hàng mà Việt Nam đã sản xuất được, ví dụ vừa qua sắt thép Trung Quốc vào chúng ta rất nhiều, giá lại rẻ hơn ảnh hưởng rất nhiều đến doanh nghiệp sản xuất sắt thép của Việt Nam. Với ngân hàng nhà nước tôi đề nghị tiếp tục chỉ đạo quyết liệt việc cơ cấu lại nợ, giãn nợ, giãn hạn nợ đối với các doanh nghiệp có tiềm năng để tiếp tục cho vay sản xuất kinh doanh.
Vấn đề thứ ba, đề nghị Chính phủ tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước nhất là kỷ cương, kỷ luật điều hành, có chế tài xử lý các địa phương chấp hành không nghiêm quy định của Chính phủ. Tôi thấy thời gian vừa qua còn một số địa phương chấp hành chưa nghiêm quy định của Chính phủ. Ví dụ trong xây dựng cơ bản Báo cáo của Chính phủ đánh giá nợ đọng trong xây dựng cơ bản ở các địa phương rất nghiêm trọng, nguyên nhân là không chấp hành nghiêm quy định của Thủ tướng Chính phủ, tức là không có kinh phí nhưng vẫn mở mới công trình dự án dẫn đến nợ xấu rất cao. Không chấp hành quy định của Chính phủ về trồng bồi rừng khi xây dựng nhà máy thủy điện, thống kê cho thấy từ năm 2006 đến nay cả nước có 160 dự án thủy điện ở 29 tỉnh, thành phố với diện tích đất rừng chuyển đổi là 19.492 ha, nhưng đến nay chỉ có 8/29 tỉnh thực hiện trồng rừng bù với 735 ha tương đương 3,7% một tỷ lệ rất thấp.
Tôi thấy còn lãng phí không cần thiết khi làm đường cao tốc, làm cầu như phát biểu của đồng chí Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Đinh La Thăng là trên thế giới không ở đâu có đường cao tốc mà cứ 10 km là có một nút giao thông theo yêu cầu của các địa phương, một nút giao thông là 1200 - 1500 tỷ. Làm cầu dây văng khẩu độ lớn, Bộ Giao thông Vận tải đã chấn chỉnh và cho biết từ cầu dây văng đến cầu không dây văng tiết kiệm cho ngân sách nhà nước khoảng 600 tỷ. Tôi đề nghị các địa phương rút kinh nghiệm để tránh tình trạng chúng ta chỉ biết phê bình Chính phủ mà chưa kiểm tra lại hiệu quả công việc của mình. Xin cảm ơn Quốc hội.

Lê Như Tiến - Quảng Trị
Kính thưa Quốc hội,
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta bên cạnh lực đẩy cũng gặp không ít lực cản ngăn lối chắn đường cất cánh của đất nước đó là quốc nạn tham nhũng, lãng phí. Tham nhũng, lãng phí là anh em sinh đôi, là hai kẻ đồng hành, đồng lõa, đồng phạm cùng hội, cùng thuyền gây nên những thất thoát lớn nguồn lực mà mỗi người dân đổ mồ hôi, sôi nước mắt, một nắng hai sương chắt chiu dành dụm từng ngày. Tham nhũng luôn dùng ma thuật biến tài sản công thành tài sản tư, biến đất công thành đất tư, nhà công vụ thành nhà tư, vụ gây thất thoát lãng phí hàng chục ha đất, hàng triệu mét vuông nhà, hàng trăm nghìn tỷ đồng từ ngân sách nhà nước, hàng triệu tấn tài nguyên khoáng sản. Quốc nạn tham nhũng đục khoét ngân khố quốc gia, khuynh đảo chính sách, thao túng quyền lực, tha hóa con người làm giảm sút lòng tin và suy kiệt nhựa sống xã hội.
Hàng chục tập đoàn, tổng công ty, hàng trăm doanh nghiệp nhà nước do tham nhũng, lãng phí thất thoát, năng lực quản trị doanh nghiệp kém đã dẫn đến hậu quả hoặc đột quỵ, hoặc chết lâm sàng, mất khả năng đề kháng trước những cơn bão khủng hoảng, kéo theo hàng chục vạn lao động lao đao khốn khó. Công ty mất việc về quê thì mất đất, rơi vào cảnh đi vướng núi, về mắc sông, không ít sa vào cạm bẫy trở thành phạm nhân của tội phạm và tệ nạn xã hội. Chưa tính đến tập đoàn, tổng công ty khác, chỉ riêng Vinashin đã làm thất thoát khoảng 107.000 tỷ đồng, trên 40.000 tỷ nợ nước ngoài, hơn 60.000 tỷ nợ trong nước, trong khi suất đầu tư xây dựng một phòng học của chương trình kiên cố hóa trường lớp học khoảng 500 triệu đồng, suất đầu tư xây dựng một nhà văn hóa khoảng 1 tỷ đồng, trạm xá xã khoảng 2 tỷ đồng. Nếu Vinashin không thất thoát nợ đọng thì chúng ta sẽ có thêm 214.000 phòng học hoặc 107.000 nhà văn hóa, 53 nghìn trạm xá xã. Trong khi cả nước có khoảng 11.000 xã, thì mỗi xã, phường có thêm 20 phòng học hoặc 10 nhà văn hóa, 5 trạm xá và chúng ta không phải băn khoăn, trăn trở buộc phải lùi thời hạn tăng lương do không bố trí được nguồn.
Theo báo cáo của Tổng Thanh tra Chính phủ, trong thời gian qua các cấp, các ngành đã tiến hành thanh tra trên 62.000 vụ, song mới phát hiện và chuyển cơ quan điều tra 464 vụ chiếm 0,6% tổng số thanh tra. Đại biểu Quốc hội rất quan tâm hỏi phải chăng có xu hướng hành chính hóa các vụ án hình sự liên quan đến tham nhũng hoặc có sự nắn dòng, bẻ ghi làm chuyển hướng kết quả thanh tra.
Thưa Quốc hội, nếu như tiết kiệm là quốc sách thì lãng phí là quốc nạn. Chúng ta thường lên án gay gắt, mạnh mẽ đối với hành vi tham nhũng, nhưng thất thoát do lãng phí đôi khi còn lớn hơn rất nhiều thì chúng ta lại nương tay, xem nhẹ. Hầu như chưa có vụ án nào xét xử lãng phí, Vì tham nhũng bị coi là tội phạm, còn lãng phí chỉ coi là khuyết điểm.
Một chủ trương đầu tư sai chôn vùi cả trăm triệu đôla, cả ngàn tỷ đồng vào khu công nghiệp, khu chế xuất, sân bay, bến cảng. Không hiệu quả thì chỉ nhắc nhở hoặc rút kinh nghiệm. Lãng phí xảy ra muôn hình, vạn trạng ở khắp nơi, lãng phí trong sử dụng ngân sách, trong quản lý đất đai, trong khai thác tài nguyên, trong đầu tư xây dựng cơ bản, trong mua sắm tài sản, trong các dự án với nước ngoài. Đó là lãng phí hữu hình đo, đếm được, còn những lãng phí vô hình giữa đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực, lãng phí chất xám, hàng chục nghìn luận án tiến sĩ, hàng trăm nghìn đề tài nghiên cứu khoa học từ cấp quốc gia, bộ, ngành, địa phương được đóng bìa cứng, mạ chữ vàng, hoành tráng, xếp ngăn nắp như những vật trang trí cho các thư viện hoặc ở các Viện nghiên cứu, chưa đầy 30% kết quả nghiên cứu khoa học được ứng dụng hoặc ứng dụng một phần vào thực tiễn. Do thiếu quy hoạch, thiếu tầm nhìn xa, thiếu tính dự báo, không cập nhật được nhu cầu thị trường mà hàng triệu tấn thép, hàng triệu tấn xi măng đang nằm dãi dầu ế ẩm trong các kho bãi chờ lưu thông, với 2455 tổ chức được giao, 250.862 ha thu hồi đất sản xuất của dân để hoang hóa từ nhiều năm nay, hàng trăm ngàn tỷ đồng lẽ ra được sinh sôi từ đất lại bị chôn vùi trong đất. Đó là thất thoát, lãng phí ở dưới đất, chúng ta còn để lãng phí, thất thoát cả trên trời.
Thưa Quốc hội, 5.13 phút ngày 6 tháng 5 năm 2012 vệ tinh Vinasat-2 đã được phóng lên quỹ đạo địa tĩnh với tổng số vốn đầu tư 250 triệu đô la, tương đương hơn 5 nghìn tỷ đồng, trong đó 80% là vốn vay thương mại nước ngoài. Với dung lượng truyền dẫn tương đương 13 nghìn kênh thoại internet truyền số liệu khoảng 150 kênh truyền hình từ vệ tinh đến nay Vinasat-2 chưa lấp đầy 1/4 dung lượng băng tần, trong khi đó một nghịch lý là nhiều tổng công ty, tập đoàn viễn thông Nhà nước đang khẩn thiết đề nghị Chính phủ cho phép đầu tư hạ tầng cát trên mặt đất lãng phí hàng nghìn tỷ đồng.
Đúng 60 năm về trước, tháng 3 năm 1952 Hồ Chủ tịch đã có bài phát biểu quan trọng với đội ngũ cán bộ cao cấp về thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, Người nói tham ô, lãng phí là kẻ thù của nhân dân, của Chính phủ, nó không mang gươm, mang súng, nó nằm ngay trong các tổ chức của ta để phá hoại ta. Vì thế chống tham ô, lãng phí cũng quan trọng cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận, 60 năm đã qua, sau bài học chống tham nhũng, lãng phí của Bác Hồ vẫn còn tươi mới, vẫn mang tính thời sự và còn nguyên giá trị thực tiễn. Do tham nhũng, lãng phí thất thoát qua các chi phí phát sinh như chi phí ngoại giao, chi phí bôi trơn, phong bì lót tay, chi phí động thổ, khai trương, khánh thành và những chi phí bất thành văn khác, trăm khâu đổ vào đầu giá thành nên giá sản phẩm của ta cao hơn nhiều so với giá trị và cao hơn so với các sản phẩm giá trị cùng loại. Hệ số ICO đầu tư trên tăng trưởng của ta cao gấp đôi so với các nước trong khu vực, có nghĩa là càng đầu tư, càng thất thoát lãng phí. Chúng tôi xin nhắc lại là 60 năm qua bài học chống tham nhũng của bác Hồ vẫn còn tươi mới và vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn. Xin cảm ơn Quốc hội.

Huỳnh Ngọc Đáng - Bình Dương
Kính thưa Quốc hội,
Tôi xin tham gia phát biểu về các nội dung như sau:
Thứ nhất, về xử lý hàng tồn kho theo tôi trong các giải pháp của Chính phủ chúng ta cần giảm áp lực cạnh tranh của hàng tồn kho với hàng ngoại nhập, nhất là hàng nhập lậu. Tại sao thép của chúng ta tốt hơn đang tồn kho nhiều nhưng ta lại cho nhập thép của Trung Quốc chất lượng kém hơn và tránh được thuế nên có giá thấp hơn làm ngành thép của ta điêu đứng. Ví dụ điển hình này cho thấy Bộ Công thương cần thực sự quan tâm giúp doanh nghiệp Việt Nam nhiều hơn. Tương tự như vậy hàng nhập lậu tràn lan thì trách nhiệm của ngành hải quan ở đâu, nhân đây tôi xin giới thiệu với Quốc hội một văn bản hành chính liên quan cần xem xét điều chỉnh để góp phần giảm hàng tồn kho: Tháng 11 năm 2006 Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định Số 254 về quản lý hoạt động thương mại biên giới với các nước có chung biên giới trong đó có Điều 5 về chính sách thuế ở Mục 2 quy định: riêng hàng hóa do cư dân nước cho chung biên giới sản xuất nhập khẩu vào nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với hình thức mua bán trao đổi của cư dân biên giới được miễn thuế nhập nếu giá trị hàng hóa đó không quá 2 triệu đồng/ người/ ngày. Như vậy, cư dân biên giới 1 ngày sẽ khuân về Việt Nam hàng trăm tấn hàng hóa các loại của nước ngoài, chiến lược hàng có giá rẻ được miễn thuế này làm bóp chết ngành sản xuất Việt Nam đẩy hàng Việt Nam vào kho. Có thể lúc mới ban hành văn bản điều, khoản này là phù hợp giúp cư dân biên giới của ta có công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, nhưng nay tình hình đã khác, điều, khoản này có hại cho nền kinh tế đất nước. Tôi xin kiến nghị Chính phủ xem xét điều chỉnh hoặc thu hồi văn bản này.
Theo tôi khái niệm hàng tồn kho không chỉ là các loại hàng hóa vật tư chưa bán được còn nằm trong kho mà còn bao gồm gần 100 nghìn căn hộ chung cư các hạng đang ế ấm. Mỗi căn hộ đó nếu chỉ tính giá sơ sơ gần 1 tỷ đồng thì đã có gần 100 nghìn tỷ đồng đang phơi mưa, phơi nắng. Vừa qua Bộ xây dựng đã có nhiều nỗ lực và năng động nhằm cải thiện tình hình này, điều đó rất đáng biểu dương, thực tế cho thấy tình hình không phải là không có lối ra.
Vấn đề thứ hai, về xử lý nợ xấu, việc xử lý nợ xấu đang thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Tôi cho rằng xử lý nợ xấu khác với mua bán nợ xấu và xử lý nợ xấu không phải chỉ bằng việc mua bán nợ xấu. Tôi hoan nghênh Chính phủ đã chủ trương không dùng ngân sách nhà nước để trả nợ thay cho doanh nghiệp bằng cách mua lại nợ xấu, đó là một chủ trương sáng suốt. Một tư duy lành mạnh và năng động thì không thể lúc nào cũng chỉ biết dựa vào sự bao cấp của ngân sách nhà nước. Thật ra ngân sách năm tới của ta rất khó khăn, đến tăng lương cơ bản và phụ cấp công vụ theo lộ trình cải cách tiền lương ta còn không có nguồn để bố trí thì sao có thể đem đi mua nợ xấu. Nợ xấu cần được rà soát, phân loại, cơ cấu lại một cách minh bạch như báo cáo của Chính phủ đã nêu, loại nào đáng mua và cần mua thì Ngân hàng nhà nước sử dụng quỹ bảo hiểm rủi ro của hệ thống ngân hàng mà theo các chuyên gia thì quỹ này cũng được hơn 60.000 tỷ đồng và các loại quỹ khác của ngân hàng để mua lại nợ xấu.
Nếu năng động hơn nữa thì Ngân hàng nhà nước, Thống đốc Ngân hàng nhà nước nên đem nợ xấu chào hàng cho các tổ chức tài chính quốc tế để họ mua lại nhằm góp phần xử lý nhanh nợ xấu trong nước.
Theo tôi, việc từng bước phát triển thị trường mua bán nợ xấu như trong báo cáo của Chính phủ đã nêu ta nên cân nhắc thêm. Thị trường bất động sản của ta với hàng trăm nghìn căn hộ nhà đẹp, nhà xinh vẫn còn đang đóng băng, ế ẩm. Việc phát triển thị trường mua bán nợ mà lại là nợ xấu liệu có khả thi hay không? Theo tôi, cục u nợ xấu của ngân hàng cần xử lý với các biện pháp phù hợp trong đó nên giã từ tư duy dùng ngân sách nhà nước để bao cấp.
Vấn đề thứ ba, về những bức xúc chung quanh vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Thưa Quốc hội, cuộc sống thực chung quanh chúng ta hiện nay có nhiều bức xúc, bước ra đường là phải đối mặt với những bất trắc từ tai nạn giao thông, còn ngồi vào bàn ăn là trở thành đối tượng tiêm nhiễm của hàng nghìn hóa chất độc hại ngâm tẩm trong lương thực thực phẩm. Hàng loạt những cuộc ngộ độc tập thể đã xảy ra, sức khỏe của người lao động bị đe dọa trầm trọng. Không chỉ thế, dư lượng hóa chất độc hại trong thực phẩm tích tụ lâu dài sẽ làm suy yếu nòi giống Việt đó là một hệ quả tất yếu. Vấn đề này ai chịu trách nhiệm? Trước đây chúng ta cứ chia trách nhiệm cho nhiều bộ để rồi không rõ trách nhiệm. Xin đề nghị Chính phủ nên xem xét lại cơ chế trách nhiệm này.
Tôi đề nghị Mặt trận và các Hội, đoàn cùng với báo chí phát động một cuộc vận động có quy mô toàn quốc nhằm tẩy chay các hàng hóa độc hại. Chúng ta không tẩy chay hàng hóa của một quốc gia cụ thể nào mà chỉ tẩy chay hàng hóa độc hại, kể cả hàng Việt Nam nếu như độc hại. Ngành y tế cần hướng dẫn hàng ngày cho người dân nhận diện được hàng hóa độc hại để tẩy chay có hiệu quả, giúp dân tự bảo vệ sức khỏe. Những ngành quản lý hàng hóa nhập khẩu cần đấu tranh quyết liệt hơn với các hàng hóa độc hại nhập khẩu. Tại sao hàng hóa Việt xuất đi các nước khác phải "trầy vi tróc vẩy" chịu đựng hàng trăm hình thức kiểm tra của nước ngoài, còn hàng hóa nước ngoài nhập vào ta trong đó có quá nhiều hàng độc hại lại được cho qua dễ dàng. Tại sao những hàng hóa độc hại mà thế giới cấm lưu hành sử dụng từ lâu lại được nhập vào Việt Nam và được bày bán công khai ở chợ. Tại sao người nông dân vô tư phun thuốc sâu vào rau để bán, còn nếu rau dùng cho gia đình thì giữ sạch. Ngành nông nghiệp và nhất là Hội nông dân có bao giờ lưu ý hội viên của mình về hành vi xấu này chưa.Chúng ta phải xem xét lại toàn bộ trách nhiệm của mình để sớm có hành động phù hợp.
Thứ tư, về nông nghiệp và nông thôn, chúng ta hình dung xem nếu trong tình hình khó khăn này mà lương thực khan hiếm, mất mùa, đói kém thì đất nước và xã hội sẽ rơi vào tình trạng phức tạp như thế nào. Nông dân Việt Nam làm ra đủ các loại nông sản, chẳng những nuôi sống toàn dân tộc mà còn dư để xuất khẩu. Nhưng họ những người sản xuất chân chất đó chưa từng đóng góp một đồng nào vào khối u nợ xấu ngân hàng hay hàng tồn kho. Một lần nữa trong lịch sử dân tộc khi đất nước khó khăn nông dân lại âm thầm làm chỗ dựa vững chắc cho đất nước, cho cách mạng. Ơn nghĩa đó phải được đền đáp xứng đáng vì đó là đạo lý cao nhất.
Tái cơ cấu đầu tư và đầu tư công cần thấm nhuần đạo lý đó. Ngành ngân hàng càng không nên quên đạo lý đó. Xin hết.

Trần Du Lịch - TP Hồ Chí Minh
Kính thưa Đoàn Chủ tịch,
Kính thưa Quốc hội,
Do quỹ thời gian có hạn tôi không trình bày nói lại tình hình, tôi chỉ tập trung đề xuất một số các giải pháp chính sách làm sao có thể phục hồi sản xuất lấy lại niềm tin thị trường thực hiện cho được quá trình tái cơ cấu kinh tế như báo cáo của Thủ tướng tại Quốc hội. Trước hết tôi có ý kiến về mục tiêu năm 2013, tôi cho rằng 2013 mục tiêu Thủ tướng đưa ra tăng trưởng 5,5 GDP và kiềm chế lạm phát là khoảng 8%, tôi cho rằng mục tiêu này là khả thi và ủng hộ. Ở đây tôi xin lưu ý một điều rằng nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn gọi là tăng trưởng dưới tiềm năng, do đó chúng ta không nên quá lo ngại đầu tư xã hội 29 - 30% nó sẽ làm giảm sản xuất năm tới.
Hiện nay theo tính toán tất cả những đầu tư đã có tăng trưởng tiềm năng có thể đạt đến 7% nếu như chúng ta có chính sách khai thông thị trường, tạo niềm tin, hỗ trợ doanh nghiệp với công suất đang có có thể tăng trưởng trở lại được, do đó điểm thứ nhất tôi cho rằng không phải tăng đầu tư bao nhiêu mà vấn đề là chúng ta làm sao khai thác được tiềm năng tăng trưởng đang có.
Về giải pháp tôi đề nghị có 2 nhóm, nhóm thứ nhất, liên quan đến vấn đề tháo gỡ khó khăn cho sản xuất ổn định vĩ mô, tức là nhóm thứ nhất trong 9 nhóm giải pháp mà Thủ tướng đã trình bày. Về nhóm thứ nhất này tôi đề xuất 2 nhóm liên quan: Một là tiền tệ, Hai, về tài khóa. Về chính sách tiền tệ tôi đề nghị có 4 điểm:
Điểm thứ nhất là vấn đề liên quan xử lý nợ xấu, tôi thấy hình như có đồng chí Thống Đốc đang ngồi ở đây quan tâm dùm cho hiện nay vấn đề vòng kim cô nợ xấu đang không hấp thụ được vốn, đang làm chết doanh nghiệp. Hiện nay đang có tình trạng từ nợ xấu dường như trên thị trường đang quay vòng trở lại, tình trạng doanh nghiệp huy động vốn đã vượt phá trần 9% và cho vay không còn trần 15% như ngân hàng nhà nước muốn. Tất cả những doanh nghiệp họ cho rằng muốn vay được là ngoài lãi suất còn nhiều khoản khác, tôi mong rằng ngân hàng nhà nước kiểm tra làm rõ vấn đề này. Nếu không phá được cái này thì chúng ta không thể nào xử lý được vốn và tình trạng huy động được vốn nhưng tăng trưởng tín dụng không được, đây là vấn đề chúng ta đẩy doanh nghiệp tiếp tục khó khăn, đấy là thứ nhất.
Thứ hai, tôi đề nghị cần mạnh dạn hơn trong vấn đề tăng tín dụng tiêu dùng và tôi đặc biệt đề nghị chúng ta phải có biện pháp bằng tiền tệ, bằng tín dụng để làm ốm dần thị trường bất động sản, nếu thị trường bất động sản không ốm dần từng phần thì không giải quyết được nợ xấu. Tôi mong rằng trong chính sách tín dụng phải tập trung điều này gắn liền giải quyết vấn đề tồn đọng trong thị trường bất động sản.
Thứ ba, tôi đề nghị chúng ta cần ổn định thị trường vàng, không được xem thường, dường như vừa qua quản lý thị trường vàng chúng ta có biện pháp thiếu cân nhắc mới hoãn tới hoãn lui, đây là vấn đề chúng ta phải củng cố niềm tin cho xã hội. Tôi xin lưu ý không coi thường thị trường vàng trong điều kiện của Việt Nam.
Thứ tư, ngân hàng nhà nước cần công khai minh bạch các tiêu chí về tái cơ cấu ngân hàng thương mại, xử lý thanh khoản cho các ngân hàng yếu kém. Nếu không làm việc này thì rõ ràng chúng ta dù công tâm đến đâu người ta cũng nghi ngờ và mất niềm tin, mà mất niềm tin với thị trường tín dụng là mất niềm tin tất cả. Tôi mong ngân hàng nhà nước quan tâm 4 điểm như vậy.
Về chính sách tài khóa tôi đề nghị 5 điểm:
Điểm thứ nhất là đề nghị Quốc hội cho tiếp tục và Chính phủ tiếp tục thực hiện áp dụng các biện pháp về hỗ trợ thị trường theo Nghị quyết 13 của Chính phủ và Nghị quyết kỳ họp thứ 3 của Quốc hội về hỗ trợ thị trường, tôi xin không nhắc lại nội dung. Kéo đến 2013 để chúng ta hỗ trợ doanh nghiệp tiếp tục hết sức để chống đỡ với thị trường.
Nhóm thứ hai, để kích thích sức mua và bảo đảm đời sống tôi đề nghị áp dụng mức Luật Thuế thu nhập cá nhân mà chúng ta sắp thông qua từ 1/1/2013 chứ không phải trì hoãn.
Thứ ba, tôi đề nghị vẫn thực hiện lộ trình tăng lương theo cải cách. Kèm theo lộ trình tăng lương tôi đề nghị năm 2013 ngân sách Nhà nước về chi thường xuyên trừ quỹ tiền lương và trợ cấp xã hội, cắt giảm ít nhất 10% các chi khác so với thực chi của năm 2012. Chúng ta tiết kiệm để chúng ta bảo đảm nguồn tăng lương. Không phải vô phương không tăng được lương nếu chúng ta có biện pháp.
Tôi đề nghị Quốc hội mạnh dạn công bố ngân sách năm tới là cắt giảm, hạn chế tối đa, trừ những công trình bức xúc xây dựng trụ sở cơ quan, văn phòng về đầu tư xây dựng cơ bản và tập trung cho đề nghị có thể loại trừ phần trái phiếu Chính phủ có thể phát hành thêm trái phiếu công trình cho các công trình giao thông. Hiện nay cực kỳ bức xúc về vấn đề giao thông. Vấn đề này liên quan đến vấn đề mà Thủ tướng trình bày là gắn 3 đột phát chiến lược trong đó vấn đề hạ tầng cực kỳ quan trọng.
Tôi đề nghị về chính sách tài khóa. Chúng ta mạnh dạn trong tình hình hiện nay xử lý tồn kho xi măng, sắt thép. Có thể dùng ngân sách hỗ trợ phần này cho các địa phương theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm để làm các đường giao thông nông thôn sử dụng nhiều xi măng. Trong này vốn Nhà nước sẽ là vốn mồi và là cách một công hai việc về ngắn hạn trước mắt.
Vấn đề thứ hai, liên quan đến giải pháp, cơ cấu tôi đề nghị có 3 điểm: Điểm thứ nhất, đây là điểm tôi đề xuất, trước hết chúng ta cần rà soát lại xây dựng một chương trình 3 năm 2013-2015 chứ không làm kế hoạch 1 năm nữa. Chúng ta không thể ăn đong và phải 3 năm rà soát lại kế hoạch, xây dựng chương trình bao gồm xây dựng các mục tiêu kinh tế vĩ mô, chính sách cân đối nguồn lực cho cả 3 năm. Khẩn trương làm về việc này. Chúng ta không thể làm từng năm như hiện nay được;
Vấn đề thứ hai, tôi đề nghị thành lập Ủy ban quốc gia về tái cơ cấu kinh tế do Thủ tướng đứng đầu. Tôi đã trình bày lý do tại sao phải làm lại. Nếu làm lại theo kiểu hiện nay, tôi không tin rằng từng bộ, ngành có thể là tái cấu trúc từ ngân hàng cho tới thị trường, cho tới đầu tư và đặc biệt là tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế;
Vấn đề thứ ba, tôi đề nghị gốc vấn đề để cơ cấu kinh tế, làm sao chuyển được nền công nghiệp từ gia công sang sản xuất, một nền nông nghiệp phải từ giá trị tăng thấp, khai thác tài nguyên sang giá tiền cao. Do đó, tôi kiến nghị trở lại.
Về công nghiệp, chúng ta có một đạo luật về công nghiệp hỗ trợ, xây dựng các cụm sản xuất. Về nông nghiệp có chính sách nâng giá trị lên, nếu không làm điều đó, chúng ta không tái cơ cấu và chuyển đổi mình tăng trưởng được. Xin cám ơn Quốc hội.

Nguyễn Văn Cảnh - Bình Định
Kính thưa Quốc hội,
Để đóng góp ý kiến vào kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2013, tôi xin được phát biểu 3 vấn đề mà tôi quan tâm.
Thứ nhất, về lĩnh vực kinh tế, đó là việc phát triển thị trường xuất khẩu bằng chính những sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam. Mặc dù kinh tế thế giới tiếp tục khó khăn, sức mua giảm, nhưng với chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu, 9 tháng đầu năm 2012 xuất khẩu của nước ta vẫn tăng trưởng 18,9%, trong đó có những ngành hàng đã đưa nước ta trở thành một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới như gạo, cà phê, thủy sản, do có lợi thế điều kiện tự nhiên. Một số ngành hàng có lợi thế cạnh tranh do nguồn lao động trong nước như dệt may, giày, dép, đồ gỗ.
Với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam cũng sẽ có các điều kiện kinh doanh như các doanh nghiệp Việt Nam và khi điều kiện nhân công giá rẻ không còn là lợi thế của Việt Nam thì trong tương lai không xa các doanh nghiệp Việt Nam sẽ mất đi các lợi thế xuất khẩu những ngành hàng này. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, khi các sản phẩm của nước ta đang được thị trường thế giới chấp nhận thì chúng ta phải nhanh chóng xây dựng thương hiệu Việt Nam cho các mặt hàng có lợi thế như dệt may, giày, dép, thủy sản, đồ gỗ, gạo, cà phê. Việc xây dựng thương hiệu Việt trên thị trường thế giới đối với mỗi ngành, hàng ban đầu không chỉ riêng bản thân mỗi doanh nghiệp mà còn có sự hỗ trợ của các hiệp hội, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Ngoại giao, các cơ quan Việt Nam ở nước ngoài và cả khối cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Vì vậy, tôi đề xuất là ngoài việc đẩy mạnh xúc tiến thương mại, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia quảng bá sản phẩm tại các hội chợ nước ngoài thì chúng ta phải xây dựng các văn phòng, các trung tâm giới thiệu sản phẩm của mỗi ngành ở những thị trường mà các sản phẩm Việt Nam đang có lợi thế, dù sản phẩm này mang thương hiệu Việt Nam hay chỉ do doanh nghiệp Việt Nam sản xuất. Bởi thực chất các doanh nghiệp chúng ta đã tự sản xuất được, chủ động từ khâu nuôi trồng hay thu mua nguyên liệu đến chế biến đầu ra sản phẩm. Việc tham gia hội chợ chủ yếu là quảng bá bán những sản phẩm ta có chứ chưa phải bán những sản phẩm thị trường cần. Việc có văn phòng đại diện và các trung tâm giới thiệu sản phẩm sẽ là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam và những người mua thường xuyên gặp nhau, cùng trao đổi để cho ra những sản phẩm phù hợp với thị trường tại mỗi thời điểm cũng như phát triển lâu dài cho mỗi sản phẩm đó, đó chính là tạo mối liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp trong nước và khách hàng.
Qua giai đoạn khó khăn chúng ta thấy thương hiệu có tầm quan trọng như thế nào, nhưng hiện nay chúng ta chỉ lo thực hiện gia công, người tiêu dùng chỉ biết đến sản phẩm của chúng ta qua thương hiệu của các tập đoàn trung gian, họ chủ động cả về số lượng và chất lượng, khi nhu cầu tăng thì họ đặt thêm, khi nhu cầu giảm thì họ không đặt hàng hoặc ép giá, doanh nghiệp phải chịu thiệt, phải chịu hàng tồn kho lớn hoặc phá sản, vì các tập đoàn trung gian này có thể dễ dàng tìm thấy doanh nghiệp gia công ở nơi khác. Vì vậy, việc xây dựng các văn phòng đại diện và các trung tâm giới thiệu sản phẩm thương hiệu Việt ở các thị trường truyền thống là cần thiết để chúng ta gắn kết với khách hàng, bước đầu nắm bắt được nhu cầu thị trường để chuẩn bị chủ động đầu ra và sẽ tiến hành đầu tư công nghệ chế biến hiện đại quy mô phù hợp đưa sản phẩm thương mại Việt Nam tiến thẳng đến người tiêu dùng thế giới, gia tăng lợi ích trong chuỗi giá trị toàn cầu, khẳng định hàng Việt Nam trên thị trường thế giới.
Vấn đề thứ hai, về y tế đó là vấn đề quá tải ở các bệnh viện. Theo Báo cáo của Chính phủ trong kế hoạch năm 2013 ngành y tế củng cố và nâng cao hiệu quả mạng lưới y tế dự phòng, chủ động phòng, chống dịch bệnh, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, thực hiện đồng bộ các biện pháp để giảm quá tải ở bệnh viện. Tôi đồng tình với quan điểm là việc tăng cường y tế dự phòng và chăm sóc sức khỏe ban đầu là giải pháp lâu dài nhằm giảm quá tải bệnh viện và trước mắt là cần đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng bệnh viện. Theo tôi vấn đề quá tải ở các bệnh viện không phải chỉ là vấn đề của Bộ Y tế và riêng Bộ Y tế cũng khó giải quyết được.
Lý do đầu tư cho ngành y tế còn thấp, đội ngũ cán bộ y tế sử dụng không hiệu quả, đặt cơ sở vật chất xuống dưới, tình trạng vượt tuyến gây quá tải ở các tuyến trên ở các tỉnh, thành phố, phải nói rõ nhất nguyên nhân gây quá tải ở bệnh viện vì số người bệnh ngày càng tăng. Trong đó liên quan đến tai nạn, bệnh truyền nhiễm, bệnh nghề nghiệp, mất vệ sinh an toàn thực phẩm, sức khỏe bà mẹ trẻ em chưa được quan tâm đúng mức, thói quen không tốt trong ăn uống, rượu bia do môi trường sống và điều kiện sinh hoạt chưa đảm bảo, phong trào tập luyện thể dục, thể thao chưa được thực hiện thường xuyên. Từ đây cho thấy vấn đề quá tải ở bệnh viện là vấn đề của nhiều ngành trong nhiều nguyên nhân, tôi xin nêu một ví dụ liên quan đến an toàn thực phẩm.
Từ khi trong bụng mẹ thai nhi đã phải chịu tác động của rượu, bia. Khi ra đời thì uống sữa rẻ, sữa có chất cấm. Khi đi học ăn uống vỉa hè với bao nhiêu chất độc hại ở các cổng trường và sinh viên dùng đồ ăn, thức uống là từ thực phẩm hôi thối, nguyên liệu có chất cấm ở mức độ cao. Khi đi làm thì thường xuyên dùng rượu, bia quá mức. Như vậy chúng ta có thể thấy được nguy cơ của sức khỏe giống nòi của số lượng không nhỏ người Việt trong những thập kỷ sắp tới. Để quá trình tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển kinh tế - xã hội thì phải làm sao sức khỏe của người dân phải ngày càng được đảm bảo. Người dân đến bệnh viện ngày một giảm, bởi vì chúng ta thấy rõ mọi thành viên khỏe mạnh thì gia đình mới hạnh phúc. Còn một thành viên đau thì cả nhà thay nhau nằm viện. Đây là một sự lãng phí về công sức, tiền của và cũng là gánh nặng của người dân. Vì nhiều gia đình trở nên nghèo khó vì có người thân phải nằm viện vì những lý do nêu trên. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng sống của mỗi gia đình, những tế bào xã hội yếu đi sẽ ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Vì vậy, tôi đề xuất trong chỉ tiêu đánh giá sự phát triển kinh tế - xã hội cần phải quan tâm đến chỉ tiêu số người bệnh trên một vạn dân hàng năm, phải phấn đấu để chỉ tiêu này ngày một giảm. Đây là chỉ tiêu mà nhiều ngành phải cùng phối hợp thực hiện để thấy được trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như ở từng địa phương, điều kiện, thói quen và môi trường sống của người dân ngày càng phải được quan tâm nhiều hơn.
Vấn đề thứ ba, liên quan đến giao thông. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của khu vực miền Trung và Tây Nguyên, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch phát triển giao thông vận tải vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 tại Quyết định Số 7 ngày 25/01/2011. Theo quyết định này Quốc lộ 19 từ Cửa khẩu Lệ Thanh - tỉnh Gia Lai đến Cảng Quy Nhơn sẽ được nâng cấp, trong đó có đoạn từ Cảng Quy Nhơn đến điểm giao nhau với Quốc lộ 1A sẽ được đầu tư hướng tiến mới. Quốc lộ 19 là hành lang vận tải quan trọng nối liền Cảng biển Quy Nhơn với các tỉnh Tây Nguyên và các nước láng giềng Lào - Campuchia - Đông bắc Thái Lan, giao cắt với hai quốc lộ huyết mạch là 1A và 14. Hiện nay Quốc lộ 19 đã xuống cấp, nhiều đoạn hư hỏng nặng ảnh hưởng đến việc đi lại giao thương, nhất là đối với hàng hóa xuất nhập khẩu của khu vực Tây Nguyên qua Cảng Quy Nhơn. Lãnh đạo các tỉnh Bình Định, Gia Lai, KomTum đã làm việc với các Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài chính thống nhất đề nghị Chính phủ cho đầu tư nâng cấp tuyến Quốc lộ 19 từ cảng Quy Nhơn đến cửa khẩu Lệ Thanh. Chính vì vậy, tôi xin kiến nghị Thủ tướng sớm cho phép triển khai dự án nâng cấp chỉnh sửa tuyến Quốc lộ 19 ưu tiên xây mới tuyến từ cảng Quy Nhơn đấu nối với Quốc lộ 1A. Nhằm đẩy mạnh việc phát triển kinh tế xã hội và thúc đẩy hàng hóa xuất nhập khẩu của khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Tôi kính mong những ý kiến đóng góp nêu trên sẽ được Quốc hội và Chính phủ quan tâm xem xét. Tôi xin trân trọng cám ơn Quốc hội.

Nguyễn Cao Sơn - Hòa Bình
Kính thưa Chủ tọa kỳ họp,
Kính thưa Quốc hội,
Sau nghiên cứu báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2012 và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2013 của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế trình bày trước Quốc hội. Tôi cơ bản nhất trí những đánh giá như các bản báo cáo đã nêu và những giải pháp chủ yếu về chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong thời gian tới.
Năm 2012 trong điều kiện diễn biến phức tạp của nền kinh tế thế giới nhưng dưới sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ kinh tế nước ta đã đạt được kết quả cơ bản như lạm phát được kiềm chế, kim ngạch xuất khẩu tăng cao hơn so với chỉ tiêu kế hoạch. Sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, sản xuất công nghiệp có dấu hiệu phục hồi, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, số vụ tai nạn giao thông giảm thiểu rõ rệt so với cùng kỳ. Việc thực hiện các chính sách bình ổn giá và miễn, giảm, gia hạn nhiều loại tiền thuế đã giúp doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả nêu trên, kinh tế xã hội vẫn còn có một số hạn chế như việc đánh giá, dự báo tình hình chưa sát với thực tế, còn bị động, chưa theo kịp với những diễn biến của nền kinh tế. Sự phối hợp chưa tốt giữa các ngành và một số nguyên nhân khác đòi hỏi Báo cáo Chính phủ cần phân tích làm rõ hơn tình hình để có những giải pháp phù hợp. Tôi xin đề cập một số vấn đề sau:
Tình hình hoạt động của hệ thống doanh nghiệp sau khi kiềm chế lạm phát chỉ cố CPI tăng 7% so với cùng kỳ năm ngoái. Việc thắt chặt tài khóa và tiền tệ để kiềm chế lạm phát là cần thiết nhưng hệ quả cầu nội địa giảm mạnh, hàng tồn kho lớn, lãi suất tín dụng tăng cao, doanh nghiệp khó khăn tiếp cận vốn, sản xuất khó khăn có hàng trăm nghìn doanh nghiệp thua lỗ, ngừng sản xuất giải thể, người lao động thất nghiệp tăng cao, an sinh xã hội bị ảnh hưởng. Trong khi đó doanh nghiệp nhỏ và vừa được cho là mô hình hoạt động hiệu quả hơn, nhưng đã bộc lộ những yếu kém về tính thiếu chuyên nghiệp và phát triển không bền vững dễ bị tổn thương do một tỷ lệ không nhỏ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dựa vào nguồn vốn tín dụng là chính, nay phải đối mặt với các mặt bằng lãi suất cao dẫn đến tình trạng bất lợi và lâm vào khủng hoảng thua lỗ, ngừng sản xuất, giải thể khi nền kinh tế khó khăn như hiện nay. Từ thực tế trên để kinh tế phục hồi, theo tôi trước mắt cần ưu tiên cho doanh nghiệp được bình phục lại bằng một số giải pháp sau.
Một, việc xử lý hàng tồn kho, hiện nay chỉ số hàng tồn kho đến tháng 9 còn 20,4% đã đẩy doanh nghiệp vào tình thế khó khăn, vừa nợ đọng vốn, vừa phải chịu lãi suất vay. Tôi cho rằng việc doanh nghiệp chủ động điều chỉnh giá rất cần thiết phải có sự hỗ trợ chính sách Nhà nước như hệ thống ngân hàng phải giảm lãi suất tiền vay xuống dưới 11%/năm. Thực hiện chính sách cho vay tiêu dùng giảm bớt các thủ tục rườm rà, giúp doanh nghiệp dễ tiếp cận nguồn vốn tín dụng, thực hiện khẩn trương các biện pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp bằng cách giảm thuế VAT, giảm thuế suất thu nhập doanh nghiệp, cắt giảm tối đa các loại phí không còn phù hợp nhằm giảm bớt chi phí gia nhập thị trường cho cộng đồng doanh nghiệp và người dân, giảm hoặc giãn thời gian nộp tiền thuê đất và cứu doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn hiện nay, mở rộng thêm đối tượng ưu tiên, ưu đãi thuế phòng sụt giảm từ ngân sách, Chính phủ sẽ tăng cường vào việc chống thất thoát thuế, kiểm tra chống gian lận thương mại, chống chuyển giá và đặc biệt là việc thu hồi nợ đọng thuế.
Hai, qua đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội những tháng đầu năm, sau khi triển khai nghị quyết 11 ngày 24 tháng 02 năm 2011 của Chính phủ, nhiều công trình bị ngừng, hoãn, giãn tiến độ đầu tư, cử tri và nhân dân tỉnh Hòa Bình kiến nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét cho ứng trước từ nguồn vốn dự phòng trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2012 - 2015 để đẩy nhanh tiến độ dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 12B đang bị hư hỏng nghiêm trọng. Đề nghị bổ sung nguồn vốn thực hiện đề án ổn định dân cư vùng hồ sông Đà tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2009 - 2015 và theo Nghị quyết số 30 ngày 21 tháng 06 năm 2012 của Quốc hội và chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội Khóa XIII, kết luận của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải ngày 10 tháng 07 năm 2012.
Ba, thực hiện Chỉ thị 1792 ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư vốn ngân sách của nhà nước và trái phiếu Chính phủ, các nguồn vốn khác do Trung ương quản lý đã làm tăng thủ tục hành chính và làm chậm giải ngân cho các chương trình dự án, nhất là các chương trình Dự án 134, 135. Các địa phương không được tự điều chỉnh kế hoạch vốn trong chương trình, dự án được giao để đẩy nhanh tiến độ giải ngân sớm, đưa các công trình vào sử dụng đã làm giảm hiệu quả nguồn vốn đầu tư, đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét và có sự điều chỉnh giúp các địa phương chủ động sử dụng nguồn vốn này có hiệu quả.
Bốn, đối với các dự án đã hoàn thành khối lượng sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ theo Nghị quyết 881 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 04/01/2010. Quốc hội, Chính phủ  khẩn trương có phương án trả nợ đối với những dự án có điều chỉnh phát sinh chênh lệch đơn giá, tăng tổng mức đầu tư, đề nghị phải được phê duyệt lại tổng mức đầu tư và được thẩm định nguồn vốn để trả nợ cho doanh nghiệp bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
Năm, về việc điều chỉnh lương tối thiếu trong khối doanh nghiệp. Tôi đồng tình với quan điểm nâng cao thu nhập cho người lao động để cải thiện đời sống. Tuy nhiên khi tính toán điều chỉnh mức lương tối thiểu cho người lao động Chính phủ nên cân nhắc những tác động đến năng lực cạnh tranh của quốc gia, cần có định hướng tăng lương tối thiểu trong thời gian trước 3 năm nhằm tạo sự chủ động ổn định cho việc đầu tư sản xuất của doanh nghiệp. Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội.

Triệu Thị Nái (Triệu Mùi Nái) - Hà Giang
Kính thưa Quốc hội,
Tôi xin tham gia nội dung về đảm bảo an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống đồng bào dân tộc miền núi, vùng đặc biệt khó khăn như sau.
Năm 2012 trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động phức tạp trong nước gặp nhiều khó khăn với những thách thức như vậy Chính phủ đã quyết tâm triển khai nhiều giải pháp chỉ đạo điều hành thực hiện các mục tiêu, nghị quyết Quốc hội đã đề ra. Trong đó đảm bảo an sinh xã hội vẫn được quan tâm và càng có ý nghĩa quan trọng đối với ổn định chính trị xã hội. Hệ thống các chính sách an sinh xã hội được tổ chức thực hiện tích cực trên các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo như Chương trình 135, chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh, bền vững đối với 62 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a. Chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, nhà ở.
Nghị quyết 80 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững của thời kỳ 2011 - 2020, chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Thông qua thực hiện các chương trình chính sách nguồn vốn hàng năm đầu tư từ ngân sách nhà nước bình quân hàng nghìn tỷ đồng để xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các  xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, cho vay tín dụng ưu đãi phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, ngành nghề truyền thống, phát triển giáo dục, văn hóa, y tế, bảo hiểm y tế cho hộ nghèo và hộ cận nghèo được tăng lên. Các chính sách trợ giúp xã hội, trợ giúp khắc phục thiên tai, các phong trào tương thân, tương ái, đền ơn, đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên phát động đã phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, góp phần đáng kể vào việc đảm bảo an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cho người dân, nhất là các hộ nghèo và vùng nghèo.
Kính thưa Quốc hội, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn bộc lộ nhiều khó khăn, tồn tại thuộc cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. Do địa hình cư trú của đồng bào dân tộc là khu vực khó khăn và đặc biệt khó khăn, khí hậu khắc nghiệt, địa hình chủ yếu có độ dốc lớn, bị chia cắt mạnh, thường xuyên bị chịu tác động bởi thiên tai, lũ ống, lũ quét, đất xấu, thiếu đất, thiếu nước, năng suất cây trồng, vật nuôi thấp, kinh tế kém phát triển nên đời sống đồng bào dân tộc hết sức khó khăn, thu nhập bình quân trên đầu người ở các xã đặc biệt khó khăn chỉ bằng 1/6 thu nhập bình quân của cả nước. Hơn 200 xã và trên 8.000 thôn bản chưa được sử dụng điện, trên 300.000 chưa có nước sinh hoạt hợp vệ sinh, gần 16.000 thôn bản chưa đủ nhà trẻ, lớp mẫu giáo, tỷ lệ hộ nghèo bình quân ở các xã đặc biệt khó khăn trên 50%, còn trên 900.000 hộ nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo có giảm nhưng thoát nghèo không bền vững. Một bộ phận có nguy cơ tái nghèo cao. Còn trên 300.000 hộ dân tộc thiểu số nghèo thiếu và không có đất ở, đất sản xuất. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề chưa tới 20%.
Tồn tại trên đây đồng nghĩa với việc không nhỏ đồng bào dân tộc thiểu số đang có cuộc sống nghèo khó, thiếu vốn, vùng đặc biệt khó khăn vẫn đang tiềm ẩn những bất ổn và còn khoảng cách khá xa so với các cùng trong cả nước. Đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận các dịch vụ xã hội, công cộng, nhất là y tế, phúc lợi xã hội còn hạn chế. Cơ chế phối hợp chưa tốt. Nguồn vốn được thực hiện các chương trình năm 2012 giao muộn nên một số chương trình, dự án giảm nghèo còn chậm và không đồng bộ, hiệu quả thực hiện chưa cao.
Kính thưa Quốc hội.
Chủ trương của Đảng, Nhà nước về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã chỉ rõ: tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hòa với tiến bộ, công bằng xã hội và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, hệ thống an sinh xã hội ngày càng được mở rộng và hiệu quả để tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người dân trong hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội và sức khỏe cộng đồng được chăm sóc tốt hơn, thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân cư và các vùng miền trong cả nước, để khắc phục những tồn tại nêu trên, đồng thời nhằm từng bước thu hẹp dần khoảng cách vùng miền núi, vùng chưa có điều kiện phát triển với những vùng phát triển. Tôi đồng tình cao với các mục tiêu, giải pháp Chính phủ cũng đề ra của các tháng còn lại năm 2012 và các nhiệm vụ giải pháp cho năm 2013. Đồng thời, xin được kiến nghị thêm những nhiệm vụ giải pháp như sau.
Một, tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục để nâng cao nhận thức cho các cấp ủy Đảng chính quyền đoàn thể ở cơ sở và người nghèo, tích cực hơn nữa trong phát huy nội lực để thực hiện các nhiệm vụ mục tiêu xóa đói giảm nghèo bền vững, xóa bỏ tư tưởng trông chờ và ỷ lại vào chính sách ưu đãi trợ cấp của Nhà nước ở một bộ phận nhân dân.
Hai, Chính phủ tiếp tục phân bổ vốn kịp thời, hoàn thành các chương trình, dự án đã và đang thực hiện. Đồng thời chỉ đạo để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia đã được phê duyệt, Ban chỉ đạo sớm xây dựng quy chế hoạt động và nghiên cứu tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành các chính sách thuộc nhiệm vụ đã được Thủ tướng Chính phủ giao theo Quyết định số 1200 ngày 31 tháng 8 năm 2012 về việc phê duyệt khung kế hoạch triển khai Nghị quyết 80 về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011-2020, để năm 2013 có thể tổ chức thực hiện được ngay. Đó là xây dựng các chính sách đặc thù để hỗ trợ hộ nghèo và hộ cận nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, hỗ trợ định canh, định cư, xã, thôn, bản có nhiều núi đá, độ dốc lớn, thường xuyên bị thiên tai xảy ra, thiếu nước, thiếu đất sản xuất, có chính sách phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và xây dựng nông thôn mới, xây dựng chính sách bảo tồn phát triển ngành, nghề truyền thống, chính sách phát triển nguồn nhân lực, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, khuyến khích trí thức trẻ tình nguyện đến công tác tại xã nghèo và huyện nghèo.
Triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2012-2015, đề án bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc thiểu số, đầu tư xây dựng phát triển hệ thống các thiết chế văn hóa, thể thao, các xã đặc biệt khó khăn, miền núi, biên giới và hải đảo, xây dựng cơ chế chính sách để đầu tư về khám, chữa bệnh cho người nghèo ở các xã nghèo, huyện nghèo, trong đó có chính sách cung cấp dinh dưỡng cho phụ nữ và trẻ em, hoàn thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y tế, bảo trợ xã hội, chính sách người có công với cách mạng, mở rộng đối tượng và điều kiện thụ hưởng đến toàn bộ các nhóm dân cư để đảm bảo cho mọi người dân đều có thu nhập ở mức sống tối thiểu, bổ sung, sửa đổi chính sách tuyển sinh thông qua thi tuyển, việc miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập, chính sách tín dụng ưu đãi đào tạo sinh viên nghèo, dân tộc thiểu số, chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục cho phù hợp hơn. Đồng thời hoàn thiện chính sách trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số để nâng cao nhận thức và thực thi pháp luật.
Ba, bảo đảm nhu cầu vay vốn và tăng mức cho vay của một số chương trình tín dụng để giúp người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số có thêm điều kiện tổ chức sản xuất, tạo điều kiện để thoát nghèo.
Bốn, Chính phủ tiếp tục để chỉ đạo rà soát lại nội dung chính sách dạy nghề cho phù hợp gắn với giải quyết việc làm trên các lĩnh vực lao động nông thôn, xuất khẩu lao động đối với 62 huyện nghèo. Chính sách học nghề đối với học sinh dân tộc nội trú để nhằm nâng cao số lượng và chất lượng dạy nghề để tìm kiếm việc làm và đạt hiệu quả.
Năm, các ngành, các cấp từ Trung ương cần thường xuyên phối hợp trao đổi thông tin về tình hình triển khai thực hiện các chương trình dự án, chính sách liên quan đến mục tiêu giảm nghèo, kịp thời để giúp đỡ cơ sở tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức và thực hiện.
Sáu, tăng cường công tác kiểm tra giám sát thường xuyên, rà soát sự biến động về hộ nghèo, hộ cận nghèo, kịp thời rút kinh nghiệm để khắc phục những hạn chế bất cập trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp giảm nghèo.
Bảy, huy động sự tham gia của toàn xã hội để thực hiện an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, đồng thời nhà nước tăng thêm nguồn lực và phát huy vai trò chủ đạo để nâng cao phúc lợi xã hội và phát triển đa dạng các hệ thống dịch vụ cơ bản để bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội để góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số trong giai đoạn mới. Tôi xin hết ý kiến. Xin cảm ơn Quốc hội.

Ya Duck - Lâm Đồng
Kính thưa Chủ tọa kỳ họp,
Kính thưa Quốc hội,
Trước hết tôi thống nhất với Báo cáo của Chính phủ về phát triển kinh tế xã hội và cũng như Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Tôi cũng thống nhất về những giải pháp mà Chính phủ đã đề ra để ổn định kinh tế vĩ mô kiềm chế lạm phát, duy trì, phục hồi, tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Mặc dù còn nhiều khó khăn thách thức nhưng đã đạt và vượt trên 10/15 chỉ tiêu kế hoạch. Một số chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch nhưng tăng so với cùng kỳ.
Trong 9 tháng năm 2012 ngân sách nhà nước đã đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng trên 300 tỷ 660 triệu đồng. Bao gồm Chương trình 134, 135, định canh, định cư, bằng chính sách của nhà nước giao thông nông thôn, Chương trình 30A, xây dựng nông thôn. Đến nay hộ nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng còn 16,8% khoảng gần 14.000 hộ. Riêng huyện nghèo 30A Đam Rông đến nay còn 28 hộ nghèo, giảm chung năm nay là 3%. Riêng vùng đồng bào dân tộc thiểu số giảm 6 đến 7%. Đây là sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên nói chung và Lâm Đồng nói riêng.
Trong điều kiện kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế yếu kém, cử tri có ý kiến đó là kinh tế vĩ mô chưa ổn định, nợ xấu gia tăng, hạ tầng giao thông xuống cấp, không đảm bảo đời sống của nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc còn nhiều khó khăn. Chất lượng giáo dục đào tạo còn nhiều yếu kém, trong công tác quản lý tài nguyên, môi trường còn nhiều hạn chế, bất cập. Trật tự an toàn xã hội còn nhiều bức xúc, cải cách hành chính chưa đáp ứng được yêu cầu, công tác phòng chống tham nhũng chưa được kiềm chế và đẩy lùi, gây bức xúc trong nhân dân.
Những yếu kém nêu trên đã được Thủ tướng Chính phủ nhận lỗi trước Quốc hội, trước nhân dân được dư luận hoanh nghênh. Qua tiếp xúc cử tri về tình hình thực tế của địa phương, tôi xin có một số ý kiến cụ thể như sau:
Về chính sách đã tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp, hiện nay rất nhiều giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nông dân sẽ hết hạn vào năm 2013. Việc vay vốn để sản xuất kinh doanh, chăn nuôi, trồng trọt phải thế chấp bằng sổ đỏ gặp nhiều khó khăn vì các ngân hàng không dám nhận để thế chấp. Đề nghị Quốc hội có nghị quyết gia hạn thời gian đến khi thông qua Luật Đất đai mới để nhân dân chấp thuận được vốn vay. Chủ trương chúng ta đang tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên các doanh nghiệp gặp khó khăn tiếp cận với vốn do các quy định thủ tục của các ngân hàng quá chặt chẽ như phải có tài sản thế chấp, không có nợ quá hạn, nợ xấu v.v...Đề nghị các ngành ngân hàng rà soát lại các quyết định, thủ tục các ngành để có tiếng nói chung cùng các doanh nghiệp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được vốn vay.
Vấn đề thứ hai, việc thực hiện các chương trình mục tiêu đề nghị các bộ, ngành tiếp tục thực hiện nghị quyết của Thủ tướng Chính phủ về chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2012 - 2015 đối với Chương trình 135. Đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương xem xét để tiếp tục ban hành cơ chế chính sách để cân đối ngân sách tiếp tục cho phát triển kinh tế theo Chương trình 135 giai đoạn 3. Đề nghị phát triển kinh tế xã hội ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn. Đối với chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết 30a của Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương xem xét tăng mức vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước hàng năm để triển khai thực hiện chương trình đã được phê duyệt nhằm đạt được mục đích yêu cầu và rút ngắn thời gian triển khai thực hiện nhằm hoàn thành các chỉ tiêu sớm hơn tiến độ đã đề ra.
Tiếp tục thực hiện chương trình dự án điện Tây Nguyên, hiện nay vẫn còn một số hộ vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa có điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Đối với vùng kinh tế đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, các địa phương tăng cường công tác quản lý hạn chế dân di cư tự do đi đến các tỉnh Tây Nguyên làm ăn sinh sống gây nhiều áp lực về kinh tế xã hội, phát sinh tình trạng phát rừng làm rẫy, khai thác khoáng sản, săn bắt động vật trái phép. Đồng thời đề nghị các tỉnh có dân di cư kinh tế mới tại các tỉnh Tây Nguyên và Lâm Đồng có kế hoạch đến thăm hỏi động viên hỗ trợ cho các bà con vùng kinh tế mới còn gặp nhiều khó khăn.
Về vấn đề giao thông, chiều qua đoàn Lâm Đồng và đoàn Đồng Nai đã làm việc cụ thể với Bộ Giao thông Vận tải để chuyển những ý kiến hai đoàn chúng tôi đưa lên và Bộ Giao thông Vận tải đã đồng ý nên tôi không nhắc lại.
Về thủy lợi, chúng tôi đề nghị Bộ Nông Nghiệp Phát triển và Nông thôn tiếp tục triển khai xây dựng hồ Đa Lây huyện Đa Teh và bố trí nguồn vốn xây dựng hồ Đạ Sị huyện Cát Tiên. Đây là chương trình phục vụ cho sản xuất và an sinh xã hội, bảo đảm đời sống cho hàng trăm hộ dân ở hai huyện khó khăn này, không nên vì cắt giảm đầu tư công theo Nghị quyết 11 của Chính phủ mà hướng đầu tư là không hợp lý. Trên đây là những vấn đề đề xuất, góp ý của chúng tôi, xin kiến nghị cụ thể với Chính phủ, Quốc hội, các bộ, ngành quan tâm chỉ đạo giải quyết. Tôi xin chân thành cảm ơn.

Trần Văn Tấn - Tiền Giang
Kính thưa Quốc hội,
Chúng tôi nhất trí với nội dung đã nêu trong Báo cáo của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế về những kết quả đã đạt được, những khó khăn hạn chế trong việc thực hiện phát triển nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2013, đặc biệt trong điều kiện vẫn còn nhiều khó khăn thách thức, tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 tiếp tục có những chuyển biến tích cực đúng hướng. Đây là những tín hiệu đáng mừng, vì trong điều kiện quá khó khăn thì các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh cùng với toàn thể nhân dân trong cả nước đã và đang nỗ lực phấn đấu để vượt qua khó khăn mà nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt. Trong phần phát biểu của mình chúng tôi xin đề xuất 4 vấn đề như sau:
Thứ nhất, các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ tuy đã phát huy tác dụng, diễn biến giá cả đang có chiều hướng thuận lợi hơn nhưng nguy cơ lạm phát cao trở lại vẫn còn tiềm ẩn. Ai cũng biết lạm phát tăng cao đã gây ra những tác động tiêu cực trong xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người sản xuất, đời sống của nhân dân đã khó khăn lại càng khó khăn hơn.
Hiện tại nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát cao trở lại vẫn còn tiềm ẩn, nhiều mặt hàng đang trong dịp chờ tăng giá nếu không có sự kiên quyết trong quản lý điều hành thì nguy cơ lạm phát cao quay trở lại là khó tránh khỏi. Trong đó quan trọng nhất là làm sao quản lý và kiểm soát chặt giá cả các mặt hàng có tính chất chiến lược chi phối mạnh đến các hoạt động sản xuất kinh doanh và toàn bộ đời sống xã hội. Xăng, dầu là nhiên liệu đầu vào thuộc mặt hàng chiến lược của nền kinh tế, giá xăng tuy đã được xã hội bàn nhiều, Chính phủ đã ban hành Nghị định, quy định cơ chế điều hành, các cơ quan quản lý ở Trung ương đã vào cuộc điều hành theo quy định nhưng dư luận nhân dân vẫn chưa thật sự đồng tình với kết quả điều hành của nhà nước.
Vẫn còn có ý kiến cho rằng giá xăng thế giới tăng thì giá xăng trong nước lập tức tăng cao, trong khi giá xăng thế giới giảm thì doanh nghiệp trì hoãn việc đề nghị giảm giá, khi tăng giá xăng thì tăng cao, khi giảm giá xăng thì giảm ít. Một vấn đề khác cũng cần quan tâm đó là giá vàng gần đây cũng đang trở thành vấn đề quan tâm của xã hội. Nhiều ý kiến cho rằng nước ta chưa kéo được giá vàng trong nước gần với giá vàng thế giới như mong muốn là do công tác quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh vàng của ngân hàng nhà nước còn nhiều bất cập. Trong đó nổi lên vào việc tạo ra cơ chế độc quyền trong kinh doanh và cơ chế điều hành chưa linh hoạt tạo điều kiện phát huy cơ chế độc quyền dẫn đến làm tăng cao giá vàng trong nước so với giá vàng thế giới. Đến vàng nhái cũng là vàng nhưng giá lại rẻ hơn, vàng miếng không phải vàng SJC bị mất giá. Chính phủ cần sớm có giải pháp hiệu quả để chấn chỉnh ổn định thị trường vàng, giảm nguy cơ chi phối giá cả trong cả nước.
Đề nghị Chính phủ tăng cường công tác quản lý nhà nước về giá, kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi tăng giá bất hợp lý, nhất là đối với các loại nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu quan trọng là đầu vào cho sản xuất và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống của nhân dân. Có quy chế quản lý điều hành công khai minh bạch về giá đối với những mặt hàng thuộc diện nhà nước quản lý giá và chưa được thực hiện đúng theo cơ chế thị trường cạnh tranh đầy đủ.
Thứ hai, tăng cường quản lý chặt chẽ hoàng hóa nhập khẩu để bảo vệ hàng hóa sản xuất trong nước là một trong những giải pháp quan trọng tháo gỡ khó khăn cho sản xuất trong nước. Hiện tại đang có tình trạng cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp, người sản xuất trong nước rất đau đầu trong việc đối phó với sức ép của các loại hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Thời gian gần đây thị trường trong nước liên tục đón nhận những thông tin về hàng nhập khẩu kém chất lượng. Cụ thể mới đây cơ quan chức năng đã công bố mẫu lựu, nho nhập khẩu từ Trung Quốc đang bày bán trên cả nước có hàm lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng cho phép ở mức rất cao, có nguy cơ gây ra các bệnh tim, gan, thận, thậm chí ảnh hưởng đến thần kinh.
Trong khi đó hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam khi xuất ra nước ngoài phải chịu nhiều sự rào cản kỹ thuật về chất lượng, chỉ một sai sót nhỏ là không được nước nhập khẩu chấp nhận để bảo vệ sức khỏe người dân của nước họ. Hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng luôn bị các nước nhập khẩu kiện về giá cả để bảo vệ người sản xuất trong nước của họ. Tình hình trên làm cho việc xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài gặp không ít khó khăn. Ngay cả việc cạnh tranh tại thị trường trong nước cũng có những mặt yếu kém. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành tích cực tăng cường kiểm soát chặt chẽ hơn việc nhập khẩu các mặt hàng không khuyến khích để giảm nhập siêu và cải thiện cán cân thanh toán.
Quy định tiêu chuẩn và kiểm tra chặt chẽ chất lượng hàng hóa nhập khẩu để bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng Việt Nam. Khuyến khích phát triển hàng hóa thay thế nhập khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam.
Thứ ba, công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm đang đặt ra nhiều vấn đề phải tiếp tục báo động. Mặc dù hiện nay nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo thành lập cơ quan quản lý về công tác bảo vệ vệ sinh an toàn thực phẩm, nhưng chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm nhìn chung còn rất kém, nhiều loại thực phẩm không đảm bảo chất lượng, chưa được kiểm tra chất lượng vẫn được nhập vào bán cho người tiêu dùng. Nhiều loại thịt bẩn, nhiều thực phẩm được sản xuất, chế biến có chứa hóa chất độc hại cho sức khỏe  nhân dân vẫn được bán khắp nơi. Những vụ ngộ độc thực phẩm tập thể đã xảy ra ngày càng nhiều tại các bếp ăn tập thể của công nhân, ngay cả tại các trường học, nhà trẻ các vụ ngộ độc phải đi cấp cứu trong nhân dân ngày càng tăng. Đây là sự cảnh báo rất nguy hại, những thức ăn độc hại đó không chỉ làm suy giảm sức khỏe của người tiêu dùng hiện nay mà nó còn tác động đến chất lượng giống nòi trong tương lai. Đề nghị Chính phủ và các bộ, ngành liên quan quan tâm hơn nữa đến việc tăng cường quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nâng cao hiểu biết của người tiêu dùng để tự bảo vệ mình, chế tài thật nghiêm các đối tượng vi phạm quy định pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm để giảm thiểu bệnh tật, nâng cao sức khỏe của nhân dân.
Thứ tư, kiến nghị của cử tri Tiền Giang về việc thực hiện đầu tư xây dựng công trình do Trung ương làm chủ đầu tư tại địa phương, các công trình đầu tư thuộc Bộ Giao thông vận tải quản lý giao cho các chủ đầu tư, các Ban quản lý dự án thực hiện đã và đang xúc tiến đầu tư trên địa bàn tỉnh Tiền Giang như dự án Quốc lộ 50, cầu Chợ Gạo, cầu Mỹ Lệ. Tuy nhiên, dự án Quốc lộ 50 đang được Bộ Giao thông vận tải và chủ đầu tư thực hiện hoàn thiện giai đoạn 1 đang chờ kết cấu mặt đường ổn định sẽ triển khai giai đoạn 2 để hoàn thành. Nhưng do phương tiện giao thông đi lại nhiều, trong thời điểm mùa mưa nên hiện nay mặt đường Quốc lộ 50 đang bị hư, lún nhiều đoạn. Việc đi lại của nhân dân rất khó khăn, xảy ra nhiều vụ tai nạn thương tâm. Trước thực trạng đó, nhiều người dân ở dọc Quốc lộ đã vận động quyên góp hàng chục triệu đồng, huy động hàng trăm ngày công để giảm giá như báo chí những ngày qua đã đưa tin. Do vậy, cử tri Tiền Giang đề nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm, chỉ đạo khắc phục sớm để tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển, đi lại của nhân dân được an toàn. Tôi xin hết ý kiến, xin cảm ơn Quốc hội.

Dương Hoàng Hương - Phú Thọ
Kính thưa Quốc hội,
Chúng tôi cơ bản nhất trí nội dung báo cáo do cơ quan trình trước Quốc hội và đánh giá cao những cố gắng nỗ lực và kết quả trong chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 9 tháng đầu năm 2012 của Chính phủ. Đồng thời cũng thống nhất với ý kiến của cơ quan thẩm tra về những vấn đề còn tồn tại, hạn chế và việc bên cạnh những phân tích về nguyên nhân khách quan dẫn tới các hạn chế, tồn tại. Cần nêu cụ thể hơn những nguyên nhân chủ quan của điều hành.
Một số nguyên nhân như yếu kém trong tổ chức triển khai thực hiện chính sách thiếu đồng bộ, việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm, tình trạng sách nhiễu, lợi dụng chức quyền còn diễn biến phức tạp đã được nêu từ nhiều năm nhưng chưa giải quyết dứt điểm. Đề nghị cần có phân tích, đánh giá cụ thể hơn về những tác động của việc chậm khắc phục nguyên nhân của hạn chế, yếu kém nói trên, ảnh hưởng như thế nào đến niềm tin của thị trường, đến tâm lý của nhà đầu tư, đến thu hút đầu tư, đến tâm trạng chung của xã hội, xác định biện pháp khắc phục có hiệu quả hơn trong những năm tiếp theo.
Báo cáo của Chính phủ khẳng định có 10/15 chỉ tiêu cơ bản ước có thể đạt và vượt mục tiêu kế hoạch. Đây là một kết quả khá tích cực. Tuy nhiên trong số 10 chỉ tiêu này có 2 chỉ tiêu, mặc dù thể hiện sự vượt mức về mặt số lượng, nhưng còn tiềm ẩn nhiều yếu tố chưa vững chắc, đó là chỉ tiêu về chỉ số giá tiêu dùng và tỷ lệ nhập siêu. Theo chúng tôi, giá tiêu dùng tăng thấp, nhập siêu đạt đến mức thấp hơn nhiều so với nghị quyết của Quốc hội. Một mặt là những kết quả của giải pháp điều hành vĩ mô tích cực. Mặt khác cũng có nguyên nhân trái chiều phản ánh những dấu hiệu đáng lo ngại của sự suy giảm kinh tế, suy giảm khả năng hấp thụ đầu vào của nền sản xuất, co hẹp nhu cầu tiêu dùng trong xã hội. Mức độ tác động ảnh hưởng từ những nguyên nhân này đến các chỉ tiêu trên nói riêng, đến cả nền kinh tế nói chung cần được phân tích khách quan và cụ thể hơn, nhất là về những nguyên nhân với tính chất là hệ quả trái chiều của các chính sách thắt chặt để từ đó có giải pháp điều chỉnh mức độ, liều lượng, phạm vi của chính sách cho linh hoạt, kịp thời trong thời gian tới.
Về mục tiêu, nhiệm vụ năm 2013, tôi tán thành mục tiêu và các chỉ tiêu chủ yếu do Chính phủ trình. Riêng chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế đề nghị với dự báo năm 2013 còn tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường trong khi kinh tế vĩ mô chưa thật sự ổn định thì chỉ nên xác định chỉ tiêu tăng trưởng GDP trong khoảng từ 5,2%-5,5%, tức là từ bằng đến mức độ cao hơn không nhiều so với ước thực hiện của năm 2012 và có biên độ dao động nhất định để tạo sự linh hoạt cần thiết cho công tác điều hành của Chính phủ, tạo điều kiện cho cân đối nguồn lực và dành ưu tiên chính sách cần thiết cho các mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và an sinh xã hội. Từ đó, tạo tiền đề vĩ mô vững chắc cho quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế dài hạn.
Về giải pháp tiếp tục thực hiện nhiệm vụ những tháng cuối năm 2012 và cho cả năm 2013, xin nhấn mạnh một số nội dung và kiến nghị sau:
Thứ nhất, về đầu tư phát triển. Tổng nhu cầu đầu tư phục vụ phát triển kinh tế - xã hội rất lớn trong khu vực nguồn lực từ ngân sách hạn chế do khó khăn của nền kinh tế. Do đó, quá trình huy động, bố trí đầu tư từ nguồn ngân sách cần phải có sự điều hành chặt chẽ, tuân thủ rất nghiêm túc và nhất quán hệ thống tiêu chí ưu tiên đầu tư theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 cũng như định hướng của đề án tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế đã xác định. Trong đó cần tập trung bố trí vốn cho hạ tầng khu vực nông nghiệp, nông thôn, biên giới, biển đảo, 3 khu vực khó khăn về kinh tế và trọng yếu về an ninh xã hội ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Bắc cho các chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án lớn có tính động lực, dự án cấp bách, khắp phục triệt để tình trạng đầu tư dàn trải.
Đối với nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, đề nghị nghiên cứu với tình hình cụ thể trong thời gian tới thì có thể tăng quy mô huy động của năm 2013 lên trên mức bình quân của cả giai đoạn, tức là trên 45 ngàn tỷ đồng. Tuy nhiên, tổng nguồn vốn của cả 5 năm chỉ trong phạm vi 225 ngàn tỷ theo nghị quyết của Quốc hội nhằm bổ sung nguồn giải ngân cho các công trình sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ hoàn thành trong năm. Cũng cần rà soát, đánh giá cụ thể tác động của việc cắt, giảm nguồn đầu tư công, có biện pháp xử lý phù hợp đối với các công trình, dự án dở dang bị cắt giảm để tránh lãng phí trong đầu tư. Cần tiếp tục rà soát hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư để tạo điều kiện thu hút hỗ trợ các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, khẩn trương triển khai thực hiện, trên thực tế việc thí điểm các dự án hợp tác công, tư, rút kinh nghiệm để mở rộng, tiến hành và mở rộng việc phát hành trái phiếu công trình để bổ sung nguồn đầu tư xã hội cho các dự án, hạ tầng quan trọng của quốc gia.
Thứ hai, về xử lý nợ xấu, cần khẩn trương, tích cực thực hiện các biện pháp xử lý nợ xấu hiện đang được coi là cục máu đông, là điểm nghẽn trong huyết mạch tài chính của nền kinh tế làm cản trở sự lưu thông của dòng chảy tín dụng. Nợ xấu cao vượt quá kiểm soát và kéo dài có thể dẫn đến đình đốn hoạt động của nhiều doanh nghiệp tác động xấu đến các tổ chức tín dụng, đến an toàn tài chính quốc gia và đến cả xã hội. Kiềm hãm mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đầu tư phát triển, do đó thực hiện khẩn trương, quyết liệt các biện pháp xử lý vấn đề này là nội dung cần ưu tiên cao trong các nhiệm vụ từ nay đến cuối năm 2012 và trong cả năm 2013.
Để giải quyết hiệu quả nợ xấu, đề nghị cần rà soát tổng thể có những đánh giá đúng mức, đầy đủ, minh bạch và thống nhất về mức độ, số lượng, tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống tín dụng, phân lập cụ thể theo nguồn gốc phát sinh, theo chủ thể của các khoản vay nợ để có biện pháp xử lý tương ứng với từng loại nợ, yêu cầu các tổ chức tín dụng nâng cao tính tự chịu trách nhiệm, chủ động và tự giác trong các hoạt động trích lập và sử dụng các nguồn trích lập dự phòng rủi ro để xử lý nợ, thực hiện phân loại, khoanh, giãn nợ hợp lý nhằm xử lý được nợ xấu của hệ thống. Đồng thời tháo gỡ bớt khó khăn cho các doanh nghiệp và tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn tín dụng.
Tán thành việc sớm thành lập công ty mua, bán nợ. Tuy nhiên, các đối ngoại cụ thể liên quan đến việc thành lập, hoạt động của công ty như nguồn vốn hình thành, cách thức tổ chức, quản lý, sử dụng vốn, cơ chế hoạt động cần phải xác định rõ ràng, minh bạch, ràng buộc rõ trước hết và chủ yếu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng, các ngân hàng.
Với sự phối hợp thường xuyên của các bộ, ngành chức năng giám sát chặt chẽ của các cơ quan của Quốc hội. Do một trong các nguyên nhân lớn dẫn tới nợ xấu là tình trạng tồn kho hàng hóa, cho nên việc thực hiện các giải pháp kích thích tiêu thụ, khuyến khích xuất khẩu, mở rộng thị trường để giải quyết hàng tồn kho cũng chính là biện pháp giảm nợ xấu hiệu quả.
Bên cạnh đó đề nghị chỉ đạo tập trung rà soát thanh toán dứt điểm các khoản nợ đọng xây dựng cơ bản, tránh tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản kéo dài. Bởi vì đây cũng chính là nguyên nhân quan trọng có thể dẫn đến nợ xấu của các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này đối với ngân hàng. Tôi xin hết ý kiến, xin cảm ơn Quốc hội.

Bùi Đức Thụ - Lai Châu
Kính thưa Đoàn Chủ tịch.
Thưa Quốc hội.
Trước hết tôi tán thành cao với nhiều nội dung trong báo cáo của Chính phủ và báo cáo của Ủy ban kinh tế của Quốc hội. Tôi cho rằng các báo cáo đó đã phản ánh một cách toàn diện những vấn đề kinh tế - xã hội và nêu trúng những vấn đề bức xúc đang đặt ra. Tôi xin phát biểu một số vấn đề sau:
Vấn đề thứ nhất, xung quanh vấn đề kiềm chế lạm phát. Tôi cho rằng, việc kiềm chế lạm phát trong 9 tháng đầu năm đã đạt được những kết quả nhất định, nhờ vậy lạm phát từ ở mức cao 18,13% năm 2012 đã giảm xuống còn 5,13% trong 9 tháng và dự kiến trong năm 2012 chỉ số CPI chỉ ở mức 8%. Tuy nhiên tôi thấy rằng quá trình điều hành chính sách tiền tệ kiềm chế lạm phát nổi lên hai vấn đề:
Thứ nhất, việc kiềm chế lạm phát qua các tháng chưa thật hợp lý, 7 tháng đầu năm chỉ số CPI giảm rất thấp và 2 tháng: tháng 8, tháng 9 lại tăng quá cao, đã tác động xấu đến sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân.
Thứ hai, đó là nguy cơ lạm phát hiện nay đang là nguy cơ nhãn tiền, bởi vì 9 tháng đầu năm tổng phương tiện thanh toán tăng 12,7% nhưng dư nợ tín dụng mới tăng có 2,52%. Nếu tới đây hệ thống tín dụng ngân hàng được khơi thông, tốc độ tăng dư nợ tín dụng tương đương với tốc độ tăng tổng phương diện thanh toán lúc đó lượng tiền mặt có trên thị trường sẽ lớn hơn và gây áp lực đối với lạm phát trong những tháng tới và trong những tháng cuối năm, nhất là trong dịp trước và sau tết nguyên đán. Thông thường lạm phát thường cao so với tháng bình thường. Vì vậy, tôi đề nghị Chính phủ theo dõi sát tình hình thị trường và điều hành chính sách tiền tệ một cách hợp lý hơn tránh tình trạng giá cả sốc như các tháng qua và kiểm soát lạm phát trong mức 8%.
Vấn đề thứ hai, đó là mục tiêu tổng quát, tôi tán thành với Báo cáo của Chính phủ là mục tiêu tổng quát của năm 2013 là tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phátt thấp hơn tăng trưởng cao hơn. Tôi đề nghị Chính phủ rà soát lại một số chỉ tiêu bởi vì các chỉ tiêu này không tương thích với mục tiêu chung. Cụ thể là xuất khẩu năm 2012 tăng trưởng 16,6% nhưng năm 2013 tăng 10%. Nhập siêu năm 2012 chiếm 0,9% kim ngạch xuất khẩu nhưng năm 2013 tăng 8% kim ngạch xuất khẩu. Bội chi ngân sách nhà nước của năm 2013 giữ như mức năm 2012 đó là 4,8%. Nợ công tăng từ 55,4% GDP của năm 2012 lên 56% GDP năm 2013 và tiết kiệm trong nước từ 32,5% GDP năm 2012 giảm xuống 29%GDP năm 2013. Tôi đề nghị Chính phủ rà soát lại các chỉ tiêu cụ thể này để đảm bảo thực hiện được mục tiêu tổng quát như Chính phủ đã nêu.
Vấn đề thứ ba, về hỗ trợ doanh nghiệp. Hiện tại các doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn, trong 9 tháng đầu năm cả nước có 40190 doanh nghiệp phải ngừng hoạt động hoặc giải thể và điều này làm khó khăn không chỉ đối với việc tăng trưởng kinh tế và đối với công ăn, việc làm. Tôi đề nghị ở đây hai việc:
Việc thứ nhất là trong điều kiện dư cung tín dụng như hiện nay, tức là tốc độ huy động tiền gửi hệ thống ngân hàng cao hơn dư nợ cho vay thì đề nghị Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo việc hạ thấp lãi suất và mặt khác phải khơi thông nguồn vốn tín dụng, đổi mới tiếp cận vốn để tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ;
Thứ hai, tôi đề nghị theo dõi sát tình hình vì cân đối ngân sách năm 2013 hết sức khó khăn, nhưng nếu tình hình số lượng doanh nghiệp vẫn tiếp tục khó khăn và số lượng doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động không giảm thì đề nghị phải thực hiện chính sách hỗ trợ đối với doanh nghiệp thông qua việc giãn, giảm, miễn thuế và điều này đề nghị Chính phủ xem xét trình Quốc hội vào kỳ hợp tới.
Vấn đề thứ tư là xử lý hàng tồn kho và giải quyết nợ xấu ngân hàng. Nhiều ý kiến đã phát biểu về vấn đề này. Tôi cho rằng, để giải quyết một cách căn cơ của vấn đề thì chính là vấn đề phải đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế.
Một nền kinh tế lành mạnh, có hiệu quả thì đương nhiên hàng tồn kho sẽ giảm và nợ xấu sẽ giảm. Việc thành lập công ty mua, bán nợ quốc gia thực chất chỉ chuyển nợ từ hệ thống ngân hàng ra ngoài hệ thống ngân hàng thôi.
Để giải quyết căn cơ vấn đề vẫn phải đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu. Trước mắt, trong điều kiện hiện nay, tôi đề nghị phải xem xét đến việc kích cầu đối với nền kinh tế. Đối với cầu tiêu dùng, qua báo cáo của Chính phủ 9 tháng đầu năm tổng mức lưu chuyển hàng hóa, bán lẻ và doanh thu, dịch vụ tăng 17,3% so với cùng kỳ. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì vẫn tăng 6,68%. Như vậy, vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, tôi cho đó là kích cầu đối với hàng tiêu dùng là vấn đề chưa đặt ra.
Đối với vấn đề kích cầu đầu tư, tôi cho đó là hiện tại nền kinh tế của chúng ta không dễ gì chuyển đối mô hình một sớm một chiều vẫn phụ thuộc vào vốn rất lớn. Để giải quyết những vấn đề khó khăn bức xúc, đặc biệt là đối với giao thông vùng sâu, vùng xa những tỉnh đặc biệt khó khăn thì phải bảo đảm mức đầu tư từ ngân sách nhà nước trong bối cảnh đầu tư nước ngoài suy giảm, đầu tư các doanh nghiệp ngoài nhà nước giảm cần phải tăng đầu tư nhà nước để giải quyết vấn đề đó. Xin cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Thị Kim Ngân - Phó chủ tịch Quốc hội
Thưa Quốc hội,
Đã có 12 ý kiến phát biểu nhưng chưa có ý kiến bàn về mục tiêu và phương hướng nhiệm vụ cho năm 2013. Đề nghị sau giải lao, các đại biểu Quốc hội trong phần thảo luận của mình, ngoài phát biểu về tình hình những giải pháp của năm 2012 thì quan tâm thảo luận về mục tiêu và giải pháp cho năm 2013.

(Quốc hội nghỉ giải lao)

Nguyễn Thị Kim Ngân - Phó chủ tịch Quốc hội
Để không khí thảo luận sôi nổi hơn và có tính chất tranh luận những vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm nhất là những giải pháp, những chính sách giải pháp và công tác chỉ đạo điều hành những tháng còn lại của năm cũng như bàn về mục tiêu chủ yếu, những phương hướng nhiệm vụ và giải pháp của năm 2013, đề nghị trong phát biểu các đại biểu Quốc hội có thể thảo luận, thậm chí tranh luận thêm một số ý kiến đã đề xuất ra những giải pháp những tháng còn lại của năm và năm 2013.

Lê Thị Nga - Thái Nguyên
Kính thưa Quốc hội,
Tôi xin phát biểu về vấn đề kinh doanh xăng dầu. Chúng tôi ghi nhận những cố gắng của Chính phủ, của Bộ Tài chính, Bộ Công thương trong việc quản lý kinh doanh xăng, dầu và xin phát biểu trên các mặt sau:
Một, về cơ sở pháp lý. Kinh doanh xăng dầu đang được thực hiện theo Nghị định 84 năm 2009 thực tế hiếm có một lĩnh vực nào mà tất cả các bên liên quan đều có rất nhiều bức xúc,người tiêu dùng bất bình vì giá tăng nhanh giảm chậm, chất lượng kém. Doanh nghiệp, đại lý kêu lỗ, quản lý nhà nước lúng túng, ngân sách thất thu. Nhiều quy định của Luật cạnh tranh, Luật hải quan, Luật phòng, chống tham nhũng không được chấp hành nghiêm, lời hứa sửa đổi Nghị định 84 của hai Bộ trưởng Bộ Công thương và Bộ Tài chính đưa ra cách đây 1 năm nhưng vẫn chưa được thực hiện. Vấn đề đặt ra là tại sao những lĩnh vực khác như kinh doanh điện, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh bất động sản Chính phủ còn đề xuất Quốc hội xây dựng thành luật được mà đối với xăng dầu là mặt hàng chiến lược thiết yếu nhưng từ nhiều năm nay Chính phủ vẫn kiên trì điều chỉnh bằng văn bản dưới luật. Hiện nay hành lang pháp lý cho kinh doanh xăng, dầu rất yếu và thiếu. Chúng tôi đề nghị Quốc hội nghiên cứu ban hành luật hoặc pháp lệnh về kinh doanh xăng, dầu nhằm tạo hành lang pháp lý đủ mạnh, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các bên, đặc biệt là ràng buộc trách nhiệm của Quốc hội trong giám sát thi hành để bảo vệ tốt hơn quyền của người tiêu dùng.
Hai, về yếu tố thị trường và cạnh tranh. Hiện có 12 doanh nghiệp đầu mối xăng, dầu, nhưng tổng thị phần của Petrolimex, PV Oil và Sài Gòn Petro chiếm tới khoảng 90%. Riêng Petrolimex đã chiếm khoảng 60%, đây chính là nhóm doanh nghiệp thống lĩnh thị trường. Qua nhiều lần tăng giá cho thấy các doanh nghiệp đồng loạt tăng giống nhau cả về thời điểm và mức tăng đây là điều bất thường. Có nhiều dấu hiệu nhóm doanh nghiệp thống lĩnh thị trường đã vi phạm Điều 9, Điều 13 Luật Cạnh tranh về cấm thỏa thuận ấn định giá làm hạn chế cạnh tranh.
Căn cứ Luật Cạnh tranh và Nghị định 116 đã có đầy đủ căn cứ để Cục quản lý cạnh tranh tiến hành một cuộc điều tra về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nhưng do cơ quan chủ quản của Petrolimex và của Cục quản lý cạnh tranh đều là Bộ Công thương nên chưa từng có một cuộc điều tra nào được thực hiện. Đề nghị Bộ trưởng công thương trả lời về vấn đề này. Đề nghị Quốc hội sửa Luật Cạnh tranh, xây dựng cơ quan quản lý cạnh tranh độc lập với bộ chủ quản mới hy vọng bảo vệ tốt được quyền của người tiêu dùng.
Do chưa có thị trường cạnh tranh hoàn chỉnh mà doanh nghiệp lại được quyền điều chỉnh giá theo thị trường nên đã đẩy cả nhà nước và người dân vào thế phụ thuộc vào nhóm doanh nghiệp thống lĩnh thị trường. Đối với nhà nước nhóm doanh nghiệp này thường xuyên gây sức ép đòi tăng giá, đối với người dân giá nào doanh nghiệp đưa ra dân cũng phải mua. Nghịch lý xảy ra, đáng lẽ người tiêu dùng là đối tượng để các doanh nghiệp đầu mối chăm sóc cạnh tranh thì ngược lại đại lý bán lẻ mới là đối tượng giành nhau giữa các doanh nghiệp. Nếu bắt tay nhau để thống nhất giá thì các doanh nghiệp và đại lý đều có lợi, họ chẳng dại gì cạnh tranh giảm giá cho dân để giảm lợi của chính mình. Vì vậy, khi giá thế giới giảm, doanh nghiệp luôn trì hoãn giảm giá bán lẻ nhưng lại chạy đua tăng chiết khấu để lôi kéo đại lý. Đề nghị Chính phủ xem xét lại thẩm quyền điều chỉnh giá của doanh nghiệp trong điều kiện còn chưa giám sát tốt nhóm doanh nghiệp thống lĩnh thị trường để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Về sự thiếu độc lập của cơ chế giám sát thị trường. Hiện nay Bộ Công thương vừa là đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp chiếm thị phần lớn, vừa là người quyết định hạn nhập tổ chức giám sát thị trường quản lý cạnh tranh thì ngay từ trong quy định đã có đảm bảo tính khách quan. Bộ Tài chính có nhiều thẩm quyền về điều chỉnh thuế, về hải quan giám sát giá, nếu không công khai minh bạch, dễ dẫn đến xin, cho, hiếm có quốc gia nào trên thế giới mà mỗi khi doanh nghiệp điều chỉnh giá, doanh nghiệp bị tố cáo vi phạm thì Cục quản lý giá, Thứ trưởng Bộ Công thương lại đứng ra giải thích hộ doanh nghiệp như ở nước ta.
Trước những biểu hiện độc quyền, mập mờ thông tin lỗ, lãi, thiếu trách nhiệm giải trình, quản lý vừa đá bóng, vừa thổi còi, cử tri đặt nhiều dấu hỏi về lợi ích nhóm, về tham nhũng trong kinh doanh quản lý điều hành xăng, dầu. Đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an chỉ đạo các cơ quan điều tra vào cuộc một cách khẩn trương để trả lời cho công luận và cũng để bảo vệ uy tín của những cán bộ trong sáng và những doanh nghiệp làm ăn chân chính. Đề nghị Quốc hội xây dựng một cơ quan giám sát thị trường độc lập, tách khỏi cơ quan quản lý Nhà nước.
Ba, về thuế, phí trong giá xăng, hiện giá mỗi lít xăng phải gánh đến 5 loại thuế và phí, tổng chiếm khoảng trên 30, có lúc 40% giá. Đây là một gánh nặng lớn đối với người dân và doanh nghiệp, chúng tôi đề nghị Nhà nước cần chia sẻ với người tiêu dùng giảm hoặc bỏ một số khoản thu để giảm giá và nên tăng thu bằng cách nâng cao tỷ lệ tuân thủ, chống thất thu, trốn thuế, chống buôn lậu.
Về thuế nhập khẩu, khi giá thế giới tăng, Bộ Tài chính nên giảm thuế để hạ giá thành với thuế tiêu thụ đặc biệt là thuế đánh vào các mặt hàng xa xỉ, Nhà nước không nên đặt ra mặt hàng thiết yếu ngang với rượu, golf, casino v.v... Để hạn chế sử dụng của người dân. Đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xăng là chưa hợp lý, không đúng với bản chất và mục đích của các thuế này. Đề nghị Quốc hội sớm bãi bỏ. Quỹ bình ổn giá là khoản tiền mà người dân ứng trước cho doanh nghiệp qua mỗi lít xăng để phòng ngừa tăng giá. Từ khi hình thành, 2009 đến nay bộc lộ nhiều bất cập trong việc hình thành, trong quản lý và sử dụng quỹ, đặc biệt hiện quỹ vẫn để tại doanh nghiệp có nhiều dấu hiệu của việc thiếu công khai, minh bạch, sử dụng sai mục đích, mập mờ tiền lãi thu được từ quỹ, người tiêu dùng được hưởng như thế nào từ chính đồng tiền của họ bỏ ra từ 3 năm nay chưa được làm rõ. Mặc dù Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã yêu cầu giải trình từ 2010 và Bộ trưởng Bộ Tài chính đã hứa từ tháng 11 năm 2011. Đề nghị Chính phủ trả lời.
Bốn, về tạm nhập, tái xuất, theo Công ước Kyoto về hải quan mà Việt Nam là thành viên và khuyến cáo của tổ chức hải quan quốc tế thì xăng, dầu không nằm trong danh mục hàng hóa được tạm nhập, tái xuất, nhiều chuyên gia cho rằng việc Bộ Công thương cho phép được tạm nhập, tái xuất đối với xăng, dầu là vô hình chung đã hợp pháp hóa qua hành vi buôn lậu để doanh nghiệp trốn thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu, vi phạm nghiêm trọng khái niệm cơ bản và bản chất của loại hình hàng hóa tạm nhập, tái xuất. Thực tế đã không kiểm soát được đường đi của xăng, dầu để doanh nghiệp trộn lẫn, không bóc tách được loại tái xuất với loại bán nội địa, cho tạm nhập rồi quên kiểm tra tái xuất để cho doanh nghiệp lũng đoạn thị trường.
Năm 2009-2012 các doanh nghiệp đã quên tái xuất gần 2 triệu tấn xăng, dầu, nếu doanh nghiệp tạm nhập lúc thuế 0% rồi bán trong nội địa với giá cơ sở có tính thuế nhập khẩu 12% thì lãi cực lớn. Nếu có bị phát hiện để truy thu thuế cũng không bị lợi nhuận chênh lệch, chưa kể nếu bắt tay với cán bộ hải quan tiêu cực thì chưa chắc đã bị phát hiện. Đề nghị Chính phủ làm rõ trách nhiệm của Bộ Tài chính, Bộ Công thương, đề nghị Bộ Công an vào cuộc làm rõ trách nhiệm của cá nhân và tổ chức vi phạm. Đồng thời Bộ Tài chính cần triệt để chống thất thu ở khâu này bù vào giá để giảm gánh nặng cho dân.
Năm, về quản lý Nhà nước, mặc dù đã có đầy đủ lực lượng chuyên trách và lực lượng phối hợp, nhưng những vụ rút ruột xăng, dầu, bán xăng rởm pha tạp chất lớn vừa qua chủ yếu lại do báo chí phát hiện, Chính phủ cần làm rõ sự bất lực của cơ quan chức năng là do năng lực hay do tiêu cực, cố tình làm ngơ cho vi phạm. Trước những vụ cháy xe liên tiếp, công luận đặt nghi vấn vào xăng pha tạp chất nhưng mấy năm nay Bộ Khoa học và Công nghệ vẫn chưa kết luận được. Chúng ta hãy nghe phát ngôn của một người làm nghề chạy xăng đăng trên báo Tiền phong ngày 22/10:  Ngoài Bắc xe cháy nhiều là do cánh chạy xăng ngoài đó ăn tham, pha quá nhiều Methanol vào xăng, nếu pha vừa phải như bọn này ăn ít nhưng bền và không gây hậu quả nặng. Hiện nay nước ta có 37 triệu ô tô, xe máy, nếu xăng dởm có thể gây cháy mà không ngăn chặn được thì số phương tiện khổng lồ này có thể cháy nổ bất kỳ lúc nào đe dọa tính mạng của hàng triệu dân và đặc biệt nguy hiểm nếu việc cháy nổ xảy ra ở hầm chứa xe của các khu tập trung đông người. Xin đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ và Chính phủ sớm xử lý. Xin cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Minh Lâm - Long An
Kính thưa Quốc hội,
Qua nghiên cứu Báo cáo của Chính phủ cũng như Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế về tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 và nhiệm vụ năm 2013. Nhìn chung Báo cáo của Chính phủ đã nêu đầy đủ, rõ ràng và phản ánh tương đối thực trạng tình hình kinh tế xã hội năm 2012 của cả nước, đồng thời việc xác định các mục tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu năm 2013 là phù hợp với nhận định tình hình chung. Các giải pháp đưa ra là khá đầy đủ toàn diện, do đó tôi thống nhất nội dung các báo cáo trên, đồng thời xin tham gia đóng góp 4 vấn đề sau:
Một, theo Báo cáo của Chính phủ và Báo cáo Thẩm tra của Ủy ban Kinh tế cho thấy tăng trưởng kinh tế 9 tháng năm 2012 vừa qua đạt 4,73%, cả nước ước đạt cả năm khoảng 5,2% thấp hơn chỉ tiêu Nghị quyết của Quốc hội, chỉ số giá tiêu dùng tăng dương trở lại trong tháng 8 là 0,63% và tăng mạnh trong tháng 9 là 2,2%. Tuy nhiên trong thực tế cho thấy giá tiêu dùng đối với các mặt hàng nông sản nói chung có tăng nhưng giá các sản phẩm do nông dân sản xuất ra luôn ở mức thấp, người nông dân sản xuất bị thua lỗ làm cho đời sống gặp nhiều khó khăn. Cụ thể đối với sản xuất lúa khi thu hoạch sau khi khấu trừ các khoản chi phí người nông dân không đảm bảo lợi nhuận 30%. Đối với chăn nuôi gia súc, gia cầm liên tục lỗ. Nhiều trang trại, hộ gia đình chăn nuôi phải phá sản và trắng tay sau nhiều đợt thua lỗ liên tục trong năm 2012. Do đó, báo cáo Chính phủ, theo tôi nên phân tích đánh giá rõ hơn nguyên nhân này để làm cơ sở đưa ra các giải pháp thực hiện hợp lý hơn trong thời gian tới.
Hai, trong tình hình kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định, kết quả kiềm chế lạm phát chưa vững chắc, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, khó tiếp cận vốn vay, hàng hóa tồn kho cao, nợ xấu cao và có xu hướng tăng, giải quyết việc làm khó khăn, thị trường bất động sản đình trệ, chưa có khả năng hồi phục, tiềm ẩn nhiều rủi ro, tăng trưởng kinh tế chậm lại đã tác động tiêu cực đến việc làm giảm nghèo, đời sống của người dân, nhất là người nghèo, người lao động có thu nhập thấp vẫn gặp nhiều khó khăn.
Dự kiến năm nay có 10/15 chỉ tiêu kinh tế - xã hội đạt và vượt kế hoạch theo nghị quyết của Quốc hội. Nguyên nhân những khó khăn, hạn chế phân tích trong báo cáo chủ yếu do yếu tố khách quan, chưa nêu bật được những nguyên nhân chủ quan từ điều hành, chưa phân tích và xác định rõ việc đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế trong thời gian qua và hiệu quả của việc đổi mới này.
Ngoài những vấn đề chưa làm được trong năm 2012, báo cáo cũng chưa thể hiện rõ kể cả những nguyên nhân, trách nhiệm. Bởi lẽ 5 chỉ tiêu còn lại của kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 2012 dự kiến không đạt rất quan trọng, liên quan đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Các vấn đề này trong báo cáo của Chính phủ cũng cần có giải trình thêm.
Ba, về nhiệm vụ, giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013. Tôi thống nhất mục tiêu tổng quát và 18 chỉ tiêu như báo cáo của Chính phủ trình, gồm 6 chỉ tiêu về kinh tế, 6 chỉ tiêu về xã hội, 6 chỉ tiêu về môi trường. Theo tôi 9 giải pháp mà Chính phủ nêu ra trong báo cáo là rất hợp lý. Tuy nhiên, ngoài 9 giải pháp này nên nghiên cứu đưa ra một số giải pháp mang tính dài hơi hơn, đặc biệt trong thời gian tới cần ưu tiên, bố trí nguồn lực để đảm bảo vấn đề an sinh xã hội, tập trung giải quyết việc làm, giảm nghèo, kiểm soát chặt chẽ thị trường, tiếp tục tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn, đặc biệt là thủ tục vay vốn, hạ lãi suất ngân hàng thương mại, cho vay với lãi suất thấp đối với các lĩnh vực như nông nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp tạo nhiều việc làm, doanh nghiệp xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp. Thực hiện các giải pháp đồng bộ quyết liệt chống lãng phí trong đầu tư và đầu tư công từ ngân sách nhà nước. Tiếp tục tăng mức hỗ trợ, phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn nhằm tăng tổng cầu từ khu vực nông thôn, đây là khu vực đông dân cư và đang tiếp nhận thêm dân cư trở về từ các doanh nghiệp bị phá sản.
Đẩy mạnh xuất khẩu, kiên quyết không nhập khẩu hàng tiêu dùng, hàng xa xỉ, các nguyên liệu cho sản xuất mà trong nước đã sản xuất được phù hợp với cam kết quốc tế. Kiên quyết xử lý các ngân hàng không thực hiện cho vay ưu đãi theo Nghị định của Chính phủ đã ban hành như Nghị định 41 cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Có giải pháp căn cơ và đảm bảo công bằng trong xử lý nợ xấu đặc biệt là công bằng giữa người dân và doanh nghiệp, cho phép cơ cấu lại các khoản vay, nợ vay phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng đã hoàn thành công trình nhưng vốn ngân sách chưa thanh toán.
Bốn, thực hiện quyết liệt hơn trong cải cách hành chính, giảm bớt các thủ tục không cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh và đời sống. Tiếp tục rà soát việc phân cấp quản lý nhà nước, về kinh tế quy định rõ hơn trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh tế giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp, các ngành, gắn trách nhiệm với quyền hạn, nghĩa vụ với lợi ích và phù hợp với năng lực trình độ phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Trung ương cần tăng cường hướng dẫn kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của các địa phương, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, cộng đồng, các tổ chức xã hội tham gia giám sát.
Kính thưa Quốc hội, trên đây là ý kiến đóng góp về tình hình kinh tế xã hội năm 2012 và nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2013 của cả nước. Xin cám ơn Quốc hội.

Trần Quốc Tuấn - Trà Vinh
Kính thưa Quốc hội,
Qua nghiên cứu báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 và kế hoạch phát triển kinh tế năm 2013. Tôi xin tham gia ý kiến với các nội dung xoay quanh việc thúc đẩy sản xuất kinh doanh để giải cứu doanh nghiệp. Trước tiên, tôi bày tỏ sự quan tâm và chia sẻ trước những khó khăn chung của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay, đồng thời tôi rất đồng tình với sự quyết tâm cao của Chính phủ trong quá trình chỉ đạo, điều hành nền kinh tế trong thời gian qua. Với sự quyết tâm đó, 9 tháng đầu năm năm 2012 tuy chưa đạt kết quả như mong đợi nhưng Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện được 10/15 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Một số chỉ tiêu cơ bản như lạm phát được kiềm chế, kinh tế vĩ mô chuyển biến theo hướng tích cực hơn, quốc phòng, an ninh được tăng cường. Tuy nhiên trong 5 chỉ tiêu chưa đạt được có 3 chỉ tiêu làm tôi cũng như một số đại biểu rất băn khoăn đó là chỉ tiêu tăng trưởng GDP, chỉ tiêu giải quyết việc làm và chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo. Đây là 3 chỉ tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia nhưng chúng ta đã không thể đạt được. Có thể nhận định rằng cả ba chỉ tiêu đạt được nêu trên đều xuất phát chung từ một nguyên nhân chính, đó là nguyên nhân do hệ thống doanh nghiệp Việt Nam đang lâm vào tình trạng nguy khốn chưa từng có từ trước tới nay.
Chúng ta biết rằng doanh nghiệp là mạch máu của nền kinh tế nhưng hơn 2 năm qua doanh nghiệp trong nước luôn phải đối mặt với nhiều nguy cơ giải thể, phá sản hoặc dừng hoạt động làm cho mạch máu của nền kinh tế như ngưng chảy, phía doanh nghiệp yếu kém trong chiến lược cạnh tranh, chiến lược phát triển thị trường một cách bền vững, còn về Chính phủ chưa có quyết sách phù hợp để giải cứu doanh nghiệp, nhiều chính sách hỗ trợ khó khăn cho doanh nghiệp chậm được triển khai.
Tôi cho rằng trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần đặt vấn đề trọng tâm trong việc khôi phục và phát triển kinh tế, đó là tìm lối thoát cho doanh nghiệp, đó là triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh một cách kịp thời. Chính doanh nghiệp là nguồn lực nuôi sống nền kinh tế nhưng hiện nay doanh nghiệp đang rơi vào tình trạng rất nguy kịch. Nhìn các doanh nghiệp mất dần đi chúng ta ai mà chẳng xót xa và nhỏ lòng, dẫu biết chúng ta không làm thay cho doanh nghiệp nhưng trách nhiệm của chúng ta là không thể đứng nhìn doanh nghiệp trong nước chết dần, chết mòn theo năm tháng.
Theo báo cáo của Chính phủ nếu năm 2011 đã có 53792 doanh nghiệp giải thể, phá sản thì chỉ trong 9 tháng đầu năm năm 2012 đã có 40190 doanh nghiệp giải thể, phá sản dừng hoạt động tăng 11,7% so với cùng kỳ và nếu năm 2011 có hơn 80% doanh nghiệp trong các khu chế xuất, khu công nghiệp hoạt động cầm chừng thì chỉ trong 9 tháng đầu năm 2012 đã có hơn 70% doanh nghiệp báo cáo lỗ và nếu chúng ta cộng dồn trong 21 tháng gần đây tính từ đầu năm 2011 đến nay đã có đến 93.982 doanh nghiệp giả thể phá sản, dừng hoạt động.
Căn cứ theo số liệu về quy mô lao động của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, do Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam cung cấp thì lượng doanh nghiệp này nếu không bị giải thể, phá sản, nó sẽ giải quyết thêm 4.626 ngàn việc làm cho người lao động, hàng năm tăng nguồn thu cho ngân sách quốc gia hàng trăm ngàn tỷ đồng. Đây là con số mà ai trong chúng ta cũng lấy làm tiếc nuối.
Tôi thiết nghĩ nên chăng đã đến lúc chúng ta cần ban hành tình trạng khẩn cấp để giải cứu doanh nghiệp, vì nếu kéo dài tình trạng như thế này số lượng doanh nghiệp mới được thành lập không bù được số lượng doanh nghiệp mất đi. Từ đó dẫn đến hệ lụy là nền kinh tế bị suy giảm, ngân sách co hẹp, số lao động mất việc làm tăng nhanh, kéo theo những diễn biến khó lường tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội. Do vậy, tôi tha thiết đề nghị Chính phủ gần giải quyết nhanh chóng, chỉ đạo các ngành vào cuộc một cách mạnh mẽ hơn, xem sự sống còn của doanh nghiệp chính là sự sống còn của nền kinh tế.
Với cách đặt vấn đề như vậy, tôi đề nghị Chính phủ cần tập trung chỉ đạo quyết liệt 2 nhóm giải pháp sau đây.
Một là tháo gỡ khó khăn về tín dụng cho doanh nghiệp, hiện nay chỉ tính riêng về mặt bằng lãi suất, các doanh nghiệp Việt Nam đã chịu quá nhiều thiệt thòi so với doanh nghiệp các nước trong khu vực, mặt bằng lãi suất tiền vay của doanh nghiệp Việt Nam trong năm 2011 là 17%, cao gấp 1 lần so với mức bình quân của các nước trong khu vực, trong khi một số quốc gia khác lãi suất tiền vay chỉ ở mức bình quân từ 5-7% như Phillipin, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapo, Malaixia v.v... Từ đó dẫn đến giá thành sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam được sản xuất trong nước quá cao, kém tính cạnh tranh, mất dần thị phần là điều không thể tránh khỏi.
Do vậy, đề nghị Chính phủ cần có biện pháp chỉ đạo hệ thống ngân hàng tích cực trong việc chia sẻ rủi ro cùng với doanh nghiệp, hệ thống ngân hàng trong lúc này không thể ngoài cuộc đứng nhìn, chẳng hạn hạ lãi suất cho vay, cho phép doanh nghiệp được thế chấp hàng tồn kho để vay vốn, bảo lãnh vốn vay cho doanh nghiệp hay Chính phủ chỉ đạo ngân hàng xây dựng các phương án đầu tư mua cổ phần của doanh nghiệp hiện tại đang gặp khó khăn nhưng có tiềm năng phát triển tốt trong tương lai. Có như vậy mới tạo được sự công bằng trong kinh doanh, khi có lợi thì doanh nghiệp và ngân hàng cùng hưởng. Nhưng khi gặp rủi ro thì ngân hàng cũng cùng chia sẻ với doanh nghiệp và chia sẻ với cả nền kinh tế.
Hai, tháo dỡ khó khăn về hàng hóa tồn kho cho doanh nghiệp. Theo báo cáo của Chính phủ đến thời điểm ngày 1/9/2012, chỉ số hàng tồn kho của ngành công nghiệp chế biến tăng 20,4% cùng thời điểm năm 2011. Một số ngành có chỉ số hàng hóa tồn kho cao là sản xuất sản phẩm từ Plastic tăng 50,6%. Sản xuất xi măng tăng 50,2%. Sản xuất sắt thép tăng 40,6%. Tổng giá trị hàng hóa tồn kho của doanh nghiệp lên đến hàng trăm ngàn tỷ đồng đang nằm im bất động. Giá trị của các loại hàng hóa này có nguy cơ thất thoát và giảm sút về mặt chất lượng. Đồng thời chính bản thân của các hàng hóa này cũng không thể làm tròn vai trò xúc tác tạo ra các giá trị khác cho nền kinh tế. Đây là điều hết sức lãng phí.
Do vậy, Chính phủ cần nhanh chóng triển khai các chương trình, dự án của Chính phủ, điển hình như các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng, các chương trình phát triển nhà ở xã hội, chương trình xây dựng giao thông nông thôn, khi triển khai các chương trình dự án này nó vừa góp phần giảm áp lực hàng hóa tồn kho cho doanh nghiệp, vừa kích cầu đầu tư trong nước. Song việc kích cầu trong nước vào lúc này là cần thiết nhưng cũng phải cần thận trọng trước lạm phát vì nó có khả năng sẽ quay trở lại.
Ngoài ra về lâu dài, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành xây dựng chiến lược đổi mới công nghệ, thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, triển khai thực hiện hiệu quả hơn nữa cuộc vận động người Việt ưu tiên sử dụng hàng Việt. Hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, xây dựng hoàn thiện kênh phân phối v.v...
Có thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên mới mong giải cứu được doanh nghiệp trước muôn vàn khó khăn như hiện nay. Đồng thời phục hồi và phát triển nền kinh tế Việt Nam trong thời gian sớm nhất. Tôi xin hết ý kiến, xin trân trọng cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Thị Kim Ngân - Phó chủ tịch Quốc hội
Sau đây xin mời đại biểu Hà Minh Huệ tỉnh Bình Thuận phát biểu.
Trước khi đại biểu Huệ phát biểu tôi xin báo cáo với Quốc hội là qua thảo luận từ sáng tới giờ có nhiều vấn đề đặt ra mà các Bộ trưởng, thành viên Chính phủ sẽ chuẩn bị để có báo cáo giải đáp trước Hội trường. Trong buổi sáng nay chúng tôi sẽ mời Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng, tất nhiên là một lát nữa, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng sẽ giải đáp báo cáo với đại biểu Quốc hội những vấn đề về sản xuất, về kinh doanh, về thị trường mà đại biểu Quốc hội quan tâm. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư về vấn đề bố trí đầu tư công như thế nào để tạo ra công ăn việc làm và để tăng trưởng kinh tế. Thống đốc Ngân hàng về vấn đề giải quyết nợ xấu, vấn đề lãi suất cho vay, vấn đề làm sao cho doanh nghiệp tiếp cận được vốn vay. Đó là những vấn đề đề nghị các thành viên Chính phủ chuẩn bị trước.

Hà Minh Huệ - Bình Thuận
Kính thưa Đoàn Chủ tịch,
Kính thưa Quốc hội,
Thảo luận về việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 và phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, tôi có một số ý kiến như sau.
Thứ nhất, năm 2012 ghi nhận sự nỗ lực của Chính phủ, của cả hệ thống chính trị trong việc tổ chức quyết liệt triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012. Trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động rất phức tạp, khó lường, khó dự báo, tình hình kinh tế - xã hội của cả nước ta bị tác động mạnh mẽ, mọi nỗ lực đều tập trung vào việc thực hiện và đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, đảm bảo an ninh quốc gia, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Kết quả đạt được như thể hiện trong 6 điểm báo cáo do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày là đáng trân trọng, tuy nhiên thực tế cho thấy thành tựu đạt được nhiều nhưng yếu kém, hạn chế cũng không ít. Thủ tướng Chính phủ đã nhận lỗi trước Quốc hội nhưng chưa thấy lãnh đạo các bộ, ngành là chủ thể của những sai phạm, yếu kém kéo dài công khai lên tiếng nhận trách nhiệm để cử tri yên tâm trước khả năng khắc phục yếu kém đưa đất nước đi lên. Cử tri mong muốn như vậy, cử tri cũng muốn được biết để giám sát kết quả thực hiện lời hứa của các Bộ trưởng về những vấn đề tác động trực tiếp đến đời sống hàng ngày mà họ bị ảnh hưởng mạnh nhất và đã gửi gắm.
Kinh nghiệm những lần thảo luận trước cho thấy các yếu kém đã bị mổ xẻ nhưng kỳ sau lại thấy lặp lại.
Tôi xin được đơn cử một ví dụ về một lời hứa. Trả lời chất vấn bằng văn bản của tôi về việc sử dụng không thống nhất mẫu Quốc huy, một biểu tượng linh thiêng của đất nước, ở công sở mẫu in văn bản, Bộ Nội cụ hứa trong phạm vi trách nhiệm của mình sẽ hướng dẫn và tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật, nhưng đến nay hình như vẫn chưa có động thái gì.
Ngay tại Quốc hội cũng thấy rõ. Các vị đại biểu Quốc hội có thể quan sát Quốc huy treo trên phông của hội trường là chuẩn. Hình Quốc huy in trên bìa cuốn sổ ghi chép phát cho các đại biểu đã khác, màu mè lòe loẹt, không chuẩn về tỷ lệ quy định. Về biểu tượng quốc gia thì như thế, những lời hứa cụ thể khác thì sao. Thật đau buồn khi gần đây một nữ cử tri đã bức xúc phát biểu trong cuộc tiếp xúc của một lãnh đạo cao cấp chương trình thời sự truyền hình Việt Nam đưa lại, nói: chúng tôi đã nói nhiều, không thấy chuyển, nay chúng tôi không muốn nói nữa.
Thứ hai, năm 2012 cũng nhận rõ những yếu tố khách quan tác động đến tình hình nước ta nhưng cũng bộc lộ rõ nhiều yếu kém, hạn chế mang tính chủ quan về hệ thống trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, kỷ cương, phép nước không được tôn trọng, những lỗ hổng lớn trong quản lý để các nhóm lợi ích thao túng trong hoạt động kinh tế, tài chính, ngân hàng với những vụ vi phạm pháp luật nghiêm trọng kéo dài như vụ Vinashin, Vinaline, tình trạng nợ xấu ở mức báo động, cách thức quản lý vàng miếng SJC mang hình thức độc quyền gây nhiều tranh cãi, tình trạng quá tải của bệnh viện, tình trạng tăng viện phí tác động đến người nghèo là chủ yếu, những vụ đình đám như vụ cưỡng chế thu hồi đất ở Tiên Lãng Hải Phòng, Văn Giang Hưng Yên không được chính quyền, các cơ quan chức năng xử lý kịp thời để dây dưa gây bức xúc dư luận. Còn đó những bức xúc về sự xuống cấp đạo đức một bộ phận cán bộ lãnh đạo từ cấp Trung ương đến cấp xã, phường. Tình trạng mất an ninh, an toàn tính mạng, tình trạng tội phạm, tội phạm vị thành niên, tai nạn giao thông, mất vệ sinh an toàn thực phẩm, cứ đến thời điểm nhạy cảm cuối năm, tết nhất lại công bố tăng giá điện, xăng, dầu, đẩy giá vốn đã tăng cao lại tăng cao thêm. Tất cả những thứ đó cộng lại là mầm mống gây bất ổn. Tôi thấy quan tâm nhiều đến vấn đề kinh tế là cần thiết, nhưng vấn đề nền tảng văn hóa, xã hội cần được quan tâm nhiều hơn. Lòng dân có yên thì nước mới ổn.
Thứ ba, nhân đây tôi xin được nói về báo chí. Thời gian qua báo chí tuy có một số yếu kém như đưa tin giật gân câu khách, chạy theo xu hướng báo lá cải như bị phê phán, nhưng về cơ bản đã cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao, thông tin đúng định hướng, tích cực tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, điều hành của Chính phủ và định hướng dư luận. Báo chí còn thực hiện chức năng phản biện xã hội, phản ánh kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, tham gia mạnh mẽ chống tham nhũng, tiêu cực, phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, góp phần làm lành mạnh xã hội, điều này đã được rộng rãi thừa nhận. Chúng tôi mong muốn báo chí được đánh giá cân đối hơn cho đúng với truyền thống báo chí cách mạng Việt Nam để tránh bị lợi dụng, làm giảm vai trò của báo chí với tư cách là một thông tin quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Trong báo cáo tóm tắt của Thủ tướng có nhấn mạnh một số yếu kém liên quan tới việc quản lý thông tin trên mạng, blog cá nhân, các thế lực thù địch lợi dụng bịa đặt, xuyên tạc, gây tác dụng xấu, một số báo đưa tin thiếu khách quan, sai lệch, khai thác nhiều tin tiêu cực, gây tâm lý không tốt, chúng tôi xin tiếp thu và khẳng định quyết tâm khắc phục, triệt bỏ những yếu kém. Nhưng tôi cũng muốn nói thêm rằng hiện nay có bộ phận báo chí ngoài luồng, báo chí không chính thống lợi dụng công nghệ thông tin trên mạng internet để bịa đặt, xuyên tạc, phản tuyên truyền, nỗ lực kiểm soát gặp nhiều khó khăn. Trong những giải pháp phòng ngừa hiệu quả là cơ quan Nhà nước cần kịp thời cung cấp thông tin chính thống, đầy đủ, chính xác và minh bạch, báo chí khi tác nghiệp đề cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân của mình. Một điều căn bản nữa là cần tăng sức đề kháng trong cơ thể xã hội từng con người như ý kiến của Bộ trưởng Bộ Thông tin và truyền thông Nguyễn Bắc Son khi nói về công tác thông tin.
Thứ tư, tôi thống nhất với nhiệm vụ, giải pháp của Chính phủ đề ra trong năm 2013, nhưng tôi thấy các cấp có thẩm quyền cần phân tích sâu hơn, đánh giá tình hình khách quan hơn để có giải pháp hay, có điểm nhấn, điểm tựa trong dàn trải những việc phải làm. Tôi xin đề xuất 3 ý kiến:
Một, cần nâng cao hơn nữa chất lượng năng lực xây dựng và ban hành quyết định của cấp ra chính sách để các quyết định chính sách, kể cả pháp luật đưa ra luôn sát với thực tế, có tính khả thi cao hơn, phục vụ thiết thực hơn lợi ích của nhân dân. Tại sao có những quyết định vừa đưa ra đã lạc hậu, không nhận được sự đồng thuận của công luận đã phải thay đổi? Những giải pháp nhằm giảm thiểu tai nạn, ùn tắc giao thông như thay đổi giờ học, giờ làm chưa có điều tra, nghiên cứu cụ thể, hướng đề xuất đánh thuế này, thuế nọ, những cuộc thí điểm tốn kém là những ví dụ. Trong lập pháp cũng vậy, luật mới thông qua đã phải sửa đổi, chẳng thế mà trong 9 luật dự kiến thông qua tại kỳ họp này có tới 7 dự luật sửa đổi hoặc sửa đổi, bổ sung một số điều. Phải chăng đó là sự chưa đúng tầm của cấp ra quyết định.
Thứ hai, cần quan tâm hơn nữa đến nhân tố con người, lĩnh vực giáo dục, công tác quản lý, coi đó là chiến lược lâu dài cho mục tiêu phát triển. Tại sao có những con người hôm qua là anh hùng, hôm nay đã rơi vào vùng lao lý và tại sao một bộ phận không nhỏ cán bộ thoái hóa biến chất về tư tưởng và chính trị vẫn được lựa chọn vào vị trí lãnh đạo, đó có phải là công tác nhân sự yếu kém. Tại sao vấn đề quản lý chưa được nâng lên tầm khoa học quan trọng góp phần quản lý xã hội tốt hơn, quản lý kinh tế tốt hơn. Một vài lớp bồi dưỡng quản lý ngắn hạn không thể làm nên cán bộ quản lý tốt, cần phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò giáo dục, công tác nghiên cứu đào tạo về quản lý vĩ mô, vi mô, quan tâm đến phương thức thăm dò dư luận.
Thứ ba, cần nhanh nhạy hơn nữa trong giải quyết vấn đề kinh tế-xã hội nổi cộm, tác động trực tiếp đến đời sống hàng ngày của nhân dân như vụ Tiên Lãng, Văn Giang được giải quyết rất chậm, không đến nơi, đến chốn, tình trạng xe máy, ô tô tự cháy, tự nổ. Hiện tượng động đất liên tục, công trình thủy điện sông Tranh 2 không có sự can thiệp giải quyết kịp thời công tác thẩm quyền, những bức xúc đó cần có tiếng góp kịp thời của lãnh đạo Nhà nước, kể cả sự vào cuộc của Quốc hội. Trước khi kết thúc, tôi xin tóm tắt ý kiến kiến nghị của cử tri Bình Thuận gửi gắm Quốc hội, cử tri Bình Thuận kiến nghị giải quyết triệt để nạn tham nhũng, khắc phục tình trạng giá tăng cao, nhất là giá vật tư, vật liệu sản xuất, hỗ trợ sản xuất, Bình Thuận mong muốn cơ cấu lại đầu tư, tăng thêm tiền cho các công trình thủy lợi đang rất cần ở Bình Thuận, Chính phủ quan tâm hơn nữa tình trạng xâm thực biển, bảo đảm an sinh xã hội của Bình Thuận. Ý kiến này thực ra không mới, không khác gì ý kiến cử tri tỉnh khác, nhưng cần có sự quyết liệt hơn. Tôi tin tưởng rằng với tinh thần thẳng thắn, cầu thị vì lợi ích đất nước của dân tộc, chúng ta sẽ vượt qua tất cả để tiến lên. Xin hết ý kiến, xin trân trọng cám ơn

Hồ Thị Thủy - Vĩnh Phúc
Kính thưa Quốc hội,
Tôi xin được phát biểu vào nội dung được cử tri quan tâm đó là vấn đề chăm sóc sức khỏe của nhân dân mà một số đại biểu trước tôi đã phát biểu.
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến lĩnh vực này, các cơ sở y tế được đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, đội ngũ cán bộ y tế được trưởng thành cả về số lượng và tay nghề. Nhiều bệnh nan y đã được đội ngũ y, bác sỹ trong nước chữa trị thành công, một số dịch bệnh đã được dập tắt, tuy nhiên thực tế cho thấy lĩnh vực y tế chăm sóc sức khỏe cho người dân còn nhiều hạn chế, chất lượng cuộc sống của người dân thấp, cơ sở vật chất trang thiết bị y tế của nhiều cơ sở y tế, nhất là tuyến tỉnh, tuyến huyện đã quá lạc hậu, các bệnh viện lớn ở trung ương luôn quá tải nghiêm trọng, người bệnh chưa được quan tâm, chăm sóc chu đáo, thuốc chữa bệnh tăng giá tùy tiện, nhiều người mắc trọng bệnh không dám đến cơ sở y tế chữa trị vì nghèo. Đáng báo động nhất là tình trạng y đức xuống cấp, nạn phong bì ở các cơ sở y tế đã làm cho nhân dân bức xúc khi đến cơ sở khám, chữa bệnh.
Một trong những nguyên nhân chính gây quá tải bệnh viện đó là tình hình bệnh tật ở nước ta hiện nay gia tăng rất nhanh và phức tạp, nhất là bệnh ung thư, có nhiều địa phương đã xuất hiện làng ung thu, xuất hiện bệnh lạ v.v.... tại sao lại như vậy. Chính là do môi trường sinh thái bị phá hủy, ô nhiễm nặng cả về không khí và nguồn nước, nhất là ở các vùng nông thôn.
Vệ sinh an toàn thực phẩm không được kiểm soát chặt chẽ, rượu không có nguồn gốc, thuốc lá được bán công khai và giá rẻ, sản phẩm chăn nuôi, rau quả dư lượng thuốc kích thích, thuốc bảo vệ thực vật độc hại, thực phẩm ôi thối giá rẻ được nhập lậu bán công khai, nhiều vụ ngộ độc tập thể đã xảy ra, nhất là ở các bếp ăn tập thể của công nhân. Với giá chỉ 7-10.000đ một suất ăn thì chất lượng bữa ăn sẽ như thế nào nếu như không nói đó là một suất ăn thiếu dinh dưỡng, thừa hóa chất. Đã có nhiều thông tin về vấn đề này, tôi nghĩ đó chỉ là phần nổi của tảng băng chìm về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Chúng ta không thể đổ lỗi cho người tiêu dùng là không thông thái, thông thái thế nào được khi sản phẩm không đảm bảo chất lượng vẫn được quảng cáo bán công khai trên thị trường, chỉ có khi nào có vấn đề thì cơ quan chức năng mới vào cuộc.
Bệnh tật không trừ một ai, kể cả người nghèo, người giàu, bệnh tật gia tăng nên số lượng người nhập viện tăng. Từ đó nảy sinh các tiêu cực phân hóa giàu nghèo và xảy ra nhiều hệ lụy tiêu cực khác trong xã hội. Do vậy, theo tôi công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân phải lấy quan điểm phòng bệnh hơn chữa bệnh mà muốn phòng được bệnh thì không chỉ thuộc trách nhiệm của ngành y tế mà trách nhiệm của Quốc hội, Chính phủ, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương. Từ những vấn đề nêu trên, tôi xin có một số kiến nghị như sau:
Một, cần có chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo hướng thân thiện và môi trường phát triển xanh, tránh tình trạng khai thác tài nguyên, khoáng sản bừa bãi, phát triển thủy điện tràn lan làm ảnh hưởng đến môi trường, tăng cường công tác quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm từ khâu sản xuất, chăn nuôi, chế biến và hàng nhập khẩu. Đặt an toàn tính mạng của người tiêu dùng lên hàng đầu. Quản lý chặt chẽ việc sản xuất, kinh doanh rượu, thuốc lá như một số nước phát triển. Cần thay đổi nhận thức và đặt tầm quan trọng của công tác y tế dự phòng để đầu tư thích đáng.
Hai, về quan điểm phải xem ngành y tế là một loại hình dịch vụ đặc biệt và không thể theo cơ chế thị trường thuần túy, không thể để người bệnh vì không có tiền chữa bệnh mà nằm chờ chết. Vì vậy, nhà nước cần phải đầu tư hơn nữa cho ngành y tế, tiếp tục đầu tư cho các bệnh viện bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Tập trung đầu tư cho các bệnh viện trọng điểm, các bệnh viện còn xây dở dang, ưu tiên đầu tư cho khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Nghiên cứu để thực hiện việc chuyển dần đầu tư từ ngân sách nhà nước trực tiếp cho các bệnh viện sang đầu tư hỗ trợ cho người dân tham gia bảo hiểm y tế. Cần tách bạch việc đầu tư công và liên kết tư nhân trong các bệnh viện. Có chính sách ưu đãi đầu tư hơn nữa để thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào đầu tư các lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Ba, chính sách bảo hiểm y tế hiện nay còn nhiều bất cập chưa thu hút được nhiều người tham gia, vì vậy cần sửa đổi chính sách bảo hiểm y tế và thực hiện đúng lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân, đảm bảo cho mọi người dân đều được bảo vệ sức khỏe và khám chữa bệnh bình đẳng tối thiểu, tránh tình trạng người nghèo đóng tiền cho người giàu khám, chữa bệnh. Tăng cường tuyên truyền để người dân tham gia bảo hiểm y tế,nâng mệnh giá thẻ bảo hiểm y tế cho một số nhóm đối tượng. Mở rộng các loại hình bảo hiểm để đảm bảo cho lợi ích của người tham gia bảo hiểm liên quan đến vấn đề sức khỏe và con người. Bên cạnh đó, việc nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho các cơ sở y tế, nhất là khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Vấn đề y đức cần được quan tâm, có như vậy gần 40% người dân chưa tham gia bảo hiểm y tế sẽ có thay đổi nhận thức và tham gia bảo hiểm y tế. Khi tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế ở mức cao thì việc điều chỉnh giá dịch vụ y tế xã hội của người dân không còn quan tâm lo lắng về chi trả chi phí khám chữa bệnh.
Vấn đề thứ tư là có chính sách thỏa đáng cho cán bộ ngành y tế, nhất là đội ngũ bác sỹ, đội ngũ nhân viên trực tiếp khám, chữa bệnh. Thời gian qua tuy đã được nhà nước quan tâm đến chế độ đặc thù, chế độ nghề nghiệp nhưng chưa tương xứng với xứ mệnh cứu người của người thầy thuốc. Tôi đề nghị cần quan tâm nghiên cứu thang bảng lương cho ngành y tế một cách hợp lý để phù hợp với thời gian đào tạo và công sức của người thầy thuốc. Tôi xin hết ý kiến, xin cảm ơn Quốc hội.

Đặng Thuần Phong - Bến Tre
Kính thưa Quốc hội,
Năm 2012 kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, suy thoái sâu, nợ công đã buộc Châu Âu thắt lưng buộc bụng. Xung đột chính trị ở nhiều nước đã làm cho thị trường thu hẹp, đời sống người dân bất an, sản xuất kinh doanh đình đốn, lạm phát vẫn là nguy cơ trực chờ, giá cả biến động không ổn, lao động thất nghiệp ngày càng nhiều đã thực sự trở thành gánh nặng và là thách thức lớn cho Chính phủ của nhiều nước. Nước ta nay đã hội nhập sâu cùng với những tồn tại nặng nề của nền kinh tế chưa bền vững. Vì vậy, mảng tối của kinh tế càng nặng nề thêm, đòi hỏi sự mẫn cảm, nhanh nhậy, kiên định, khôn khéo trong điều hành của Chính phủ . Phân tích các nguyên nhân Chính phủ đã nhận trách nhiệm về yếu kém trong điều hành. Tuy nhiên để khách quan và toàn diện trong đánh giá cũng cần phân tích một số vấn đề nổi bật Chính phủ đã làm được trong điều hành cụ thể như sau:
Cùng lúc song song thực hiện mục tiêu kép, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, duy trì tăng trưởng. Đặc thù nước ta tăng trưởng dựa vào đầu tư, muốn tăng trưởng phải tăng cung tiền làm thế kinh tế sẽ không ổn, lạm phát sẽ khốc liệt hơn. Nghị quyết 11 phát huy tác dụng cho thấy chủ trương hy sinh tăng trưởng để kiềm chế lạm phát là đúng đắn, chỉ số CPI dưới hai con số là một thành công.
Xuất khẩu tăng trên 10% nhập siêu thấp, dự trữ ngoại hối tăng hơn gấp đôi, lãi suất ngân hàng giảm dần, lượng tiền đủ sức đáp ứng cho sản xuất kinh doanh, các điểm nghẽn, nút thắt của nền kinh tế được nhận dạng và có giải pháp xử lý thực sự là cố gắng có giá trị. Chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ chịu nhiều áp lực, chưa kích thích được thị trường, công tác dự báo cần nhiều chấn chỉnh nhưng xu hướng cuối năm GDP đạt 5,2% là nỗ lực lớn song điểm sáng vẫn là nông nghiệp, thương mại, dịch vụ, tăng trưởng tốt vị thế quốc gia trên trường quốc tế vẫn giữ vững. Nông thôn là bệ đỡ thực sự cho các lĩnh vực khác khi gặp khó khăn trên 300.000 lao động mất việc làm trong năm 2012 đã về nông thôn tạm sống không tạo sức ép lớn về an sinh xã hội.
An sinh xã hội đã được duy trì là điểm sáng tốt, chính sách người có công được ưu tiên hàng đầu, các chính sách như bảo trợ xã hội, nhà ở cho người nghèo, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế được quan tâm, bảo hiểm thất nghiệp được đảm bảo, chính sách giảm nghèo ngày càng hoàn thiện, chính sách hộ cận nghèo đã được nghiên cứu xác lập, hỗ trợ học sinh, sinh viên vay vốn và hỗ trợ cho các đối tượng yếu thế khác ngày càng thực hiện tốt hơn, ngân sách chi cho lĩnh vực này luôn được đảm bảo. Đây thực sự là cố gắng lớn trong hoàn cảnh khó khăn của năm 2012.
Về những tồn tại hạn chế, Chính phủ đã nêu rõ trong báo cáo, Ủy ban kinh tế đã đề cập 6 vấn đề mới cần phân tích đánh giá đầy đủ, toàn diện hơn. Các chuyên gia, các đại biểu Quốc hội khi thảo luận ở tổ cũng đã phân tích sâu sắc trên từng lĩnh vực, chúng tôi tán thành cao những đánh giá sát đáng đó và mong Chính phủ nghiên cứu kỹ vận dụng trong điều hành để sớm khắc phục những tồn tại hạn chế, triển khai toàn bộ các giải pháp sớm khai thông các điểm nghẽn giúp kinh tế đất nước phục hồi và phát triển.
Về dự báo tình hình năm 2013 và giải pháp sắp tới, năm 2013 có thể có những khó khăn lớn ảnh hưởng đến tăng trưởng, ấn chứa nhiều rủi ro khó lường như thiên tai dịch bệnh, xong tình hình trong nước đã xuất hiện một số dấu hiệu tích cực như chính sách giá cả, lãi suất ngân hàng giảm dần, lạm phát sau một thời gian kiềm chế đã phát huy tác dụng. Mục tiêu ưu tiên là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu kinh tế là mục tiêu đúng đắn. Chính phủ xác định 9 nhóm nhiệm vụ giải pháp lớn, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội kiến nghị 8 nhóm giải pháp cần nhấn mạnh trong thời gian tới chắc chắn sẽ tạo một làn sóng để thực hiện 3 đột phá. Hướng mũi nhọn trọng tâm vào tái cơ cấu ngân hàng, tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, tái cơ cấu đầu tư, đồng thời rà soát hệ thống chính sách để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp.
Để làm tốt vấn đề trên nhằm lấy lại lòng tin, đề nghị Chính phủ, Quốc hội, lãnh đạo các địa phương cộng đồng trách nhiệm, kinh nghiệm nhanh nhạy, đồng bộ trong thực hiện chính sách và giám sát chặt trẽ vai trò điều hành của Chính phủ và các bộ, ngành có thẩm quyền, kiên quyết khắc phục những hạn chế chủ quan của năm 2012 hướng tới tập trung sâu một số vấn đề sau.
Một, nên phản ứng nhanh nhạy trong điều hành, khắc phục tình trạng chậm khai thác tiềm năng mà phản ứng của xã hội, hoặc chậm chi vốn đầu tư phát triển, thiếu giải pháp để giải quyết ổn định thị trường đặc biệt là thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, giúp cho doanh nghiệp và ngân hàng vượt qua khó khăn của mình.
Hai, tập trung mũi nhọn vào tái cơ cấu ngân hàng, xử lý nợ xấu, tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. Nên thành lập Ban chỉ đạo tái cơ cấu do Chính phủ điều hành, công khai lộ trình tái cơ cấu, giải pháp thực hiện để đảm bảo đồng thuận của cả hệ thống chính trị.
Ba, nên khắc phục tình trạng cạnh tranh giá cả của các nông nghiệp, nhất là ở khu vực sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp chế biến xuất khẩu thường bán dưới giá vốn, ăn dần vào vốn, tự gây khó cho mình, cho người lao động và cho nông dân ở vùng nguyên liệu.
Bốn, về chính sách tài khóa cần chú trọng đến các vấn đề sau: cơ quan thuế còn chạy theo chỉ tiêu được giao, chưa tích cực triển khai đến đối tượng miễn giảm thuế, gây khó khăn thêm cho doanh nghiệp. Thanh toán khối lượng cơ bản, công trình trọng điểm hoàn thành 100%, góp phần gỡ khó cho doanh nghiệp, ưu tiên công trình dở dang có sử dụng nguyên vật liệu trong nước, công trình xây dựng nông thôn mới để kích cầu, giải quyết tồn kho cho doanh nghiệp. Giải ngân hợp lý, tránh căn bệnh giải ngân dồn vào cuối năm làm tăng khung tiền, gây nguy cơ lạm phát.
Năm, khắc phục tình trạng buông lỏng quản lý, kiểm tra, thanh tra hình thức, nâng cao năng lực quản trị, triển khai các biện pháp đồng bộ, chủ động, kiên quyết xử lý vi phạm đến nơi, đến chốn, đúng người, đúng địa chỉ, đúng tội theo quy định của pháp luật. Từng bước xác lập lại kỷ cương, phép nước, trước mắt là rà soát năng lực quản lý của Tổng công ty Đầu tư vốn SCIC. Thực tế việc quản trị này bị buông lỏng, doanh nghiệp đã thao túng chuyển dần tài sản của công ty cổ phần ra công ty con, sản xuất cầm chừng, hiệu quả thấp và SCIC thoái hết vốn mới hoạt động đúng thực lực, gây thiệt hại cho Nhà nước và triệt tiêu động lực sản xuất của xã hội.
Sáu, nên tập trung nhóm giải pháp an sinh xã hội quyết liệt hơn để ổn định chính trị, tránh kẻ xấu lợi dụng kích động dân nghèo, lao động thất nghiệp, doanh nghiệp phá sản, khiếu kiện về đất đai, v.v, để gây rối chống phá chế độ. Nghiên cứu lại vấn đề không tăng lương theo lộ trình trong khi vấn đề có thể giải quyết được. Nếu chúng ta tiết kiệm chi thường xuyên, chi lễ hội, chi cho hội họp, chi cho đi nước ngoài và cố gắng những giải pháp để tăng thu nội địa.
Tóm lại năm 2013 đòi hỏi sự đồng lòng vào cuộc của cả hệ thống chính trị, trong đó điều hành của Chính phủ là quyết định, giám sát của Quốc hội của Mặt trận Tổ quốc là động lực tôi tin rằng sẽ được làm thật tốt để đáp ứng mong đợi của nhân dân cả nước.
Xin cám ơn Quốc hội.

Trương Minh Chiến - Bạc Liêu
Kính thưa Quốc hội,
Tôi xin tham gia phát biểu một số vấn đề sau đây.
Thứ nhất, về đánh giá tình hình năm 2012, tôi hoàn toàn nhất trí với đánh giá tình hình năm 2012 của Chính phủ đã trình bày, tôi xin đề cập một số ý sau. Chúng ta thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh nền kinh tế thế giới biến động rất phức tạp, khó khăn nhiều hơn. Khủng hoảng nợ công ở Châu Âu, thị trường bị thu hẹp, thương mại sụt giảm mạnh, giá cả biến động, tăng trưởng toàn cầu thấp, chính trị bất ổn ở một số khu vực trên thế giới. Tình hình khu vực tranh chấp biển Đông tác động về mặt tâm lý lo ngại băn khoăn trong các tầng lớp nhân dân. Các thế lực thù địch cơ hội khai thác những khó khăn của đất nước ta để lợi dụng công kích, xuyên tạc, bôi nhọ, chống phá, dùng các thủ đoạn để đổ lỗi, buộc tội sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Nhà nước đưa lên mạng Internet, tạo dư luận xấu để làm điểm nóng xâm hại đến an ninh quốc gia.
Sự kế thừa hệ thống luật, pháp lệnh, cơ chế, chính sách chưa được thông suốt còn bất cập, thiếu nhất quán, cần phải điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi để kinh tế Việt Nam phù hợp và thích nghi dần với kinh tế thế giới và tổ chức thương mại thế giới. Trong điều kiện GDP của Việt Nam thấp, tổng thu ngân sách có hạn, đây là một thách thức rất lớn đối với Chính phủ.
Trong bối cảnh khó khăn chung và những thách thức như trên, Chính phủ đã tập trung quyết liệt để triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra và đã đạt được nhiều kết quả đáng kể. Trong báo cáo đã đề cập tốc độ tăng trưởng GDP dự kiến là 5,2%, đạt được những kết quả trên là vô cùng có ý nghĩa trong điều kiện tưởng chừng như không vượt qua được. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế mà Chính phủ đã nêu trong Báo cáo trình trước Quốc hội vừa qua, vì thời gian có hạn, tôi không nhắc lại.
Hiện nay chúng ta đã và đang tiến hành tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết 4 về xây dựng Đảng, sự mong đợi lớn nhất của nhân dân là làm sao cho cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy công quyền, các bộ, ngành Trung ương và địa phương nâng cao trách nhiệm làm tốt nhiệm vụ góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết năm 2012 cũng như nhiệm vụ năm 2013.
Mặc dù năm 2012 là một năm khó khăn đối với nền kinh tế, tuy nhiên qua lăng kính của các tổ chức quốc tế, họ nhìn nhận làm kinh tế Việt Nam qua bảng xếp hạng, qua dự đoán, qua bình luận cho thấy Việt Nam được xếp vào nhóm nước phát triển giai đoạn đầu, Việt Nam đứng thứ 99/185 nước cải thiện môi trường kinh doanh tốt, Việt Nam đứng thứ 3/14 nước về mức độ lạc quan trước nền kinh tế. Việt Nam vào tốp 29 nước có nền kinh tế nóng nhất toàn cầu, đó là những thông tin cần suy nghĩ, cần nghiên cứu trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Tuy nhiên, tiếp nhận thông tin, xem xét tình hình của nước ta, tránh quá bi quan và ngược lại.
Thứ hai, về nhiệm vụ năm 2013, mặc dù đạt được những chỉ tiêu trên và sự lạc quan của nền kinh tế hiện tại và trong tương lai, tôi rất tán thành mục tiêu nhiệm vụ và những giải pháp mà Chính phủ đã đề ra. Tuy nhiên, năm 2013 mong muốn Chính phủ cần quan tâm một số vấn đề sau.
Thứ nhất, thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới tăng trưởng là một việc làm đúng, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay.Nhưng trên thực tế là đầu tư chưa tập trung, còn dàn trải, một số công trình mang tính quốc gia, chưa thực hiện đúng tiến độ. Đề nghị cần tập trung nguồn lực để thực hiện tốt từng dự án, động lực, nhất là ở vùng kinh tế trọng điểm trong chương trình xây dựng nông thôn mới.
Thứ hai, thực hiện chính sách pháp luật, đặc biệt giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân mặc dù có nhiều cố gắng nhưng mong muốn các ngành, các cấp tập trung tối đa giải quyết dứt điểm những vụ việc tồn đọng kéo dài theo tôi là không thể chậm trễ được.
Thứ ba, về chính sách an sinh xã hội, đảm bảo an sinh xã hội và phúc lợi xã hội nhất là lĩnh vực dịch vụ y tế, vùng đồng bảo dân tộc, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn dễ bị tổn thương, thực hiện tốt chế độ chính sách đối với cán bộ ở cơ sở.
Thứ tư, đẩy mạnh quản lý nhà nước về kinh tế thị trường, nhất là quản lý giá cả trong tình hình hiện nay, đặc biệt là hàng tiêu dùng, hàng thiết yếu phục vụ tốt đời sống sản xuất của nhân dân. Tôi xin hết, xin cảm ơn Quốc hội.

Vũ Huy Hoàng - Lạng Sơn
Kính thưa Quốc hội,
Tôi xin phát biểu về 3 nhóm vấn đề.
Thứ nhất, xung quanh vấn đề hàng tồn kho liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, vấn đề về xuất nhập khẩu.
Thứ ba, xin được báo cáo với Quốc hội một số nội dung liên quan đến xăng, dầu.
Trước hết về vấn đề tồn kho, tại Kỳ họp thứ 3 của Quốc hội, chúng tôi có báo cáo với Quốc hội chỉ số hàng tồn kho của cả nước ở lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo vào thời điểm mùng 1 tháng 6 là 34,9%. Đấy là mức cao so với thông lệ. Qua 3 tháng chúng ta phấn đấu hết sức quyết liệt cho đến mùng 1 tháng 10 chỉ số tồn kho trong lĩnh vực công nghiệp, chế biến, chế tạo giảm từ 34,9% xuống còn 20,3%. Như vậy, qua 3 tháng chúng ta đã giảm được 14,6%.
Thứ hai, tôi xin báo cáo với Quốc hội một con số để Quốc hội có thể so sánh. Vào thời điểm mùng 1/10/2011 cũng trong lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo, lượng tồn kho là 21,1% so với thời điểm mùng 1/10/2010. Như vậy thời điểm mùng 1/10/2012 tồn kho trong lĩnh vực chế biến, chế tạo có giảm hơn kể cả so với thời điểm mùng 1/10/2011 so với cùng kỳ của năm 2010. Còn nếu nói về tồn kho tương đối cao, báo cáo với Quốc hội, có mấy mặt hàng như thế này: Một là than. Hai là sắt, thép. Ba là một số loại phân bón. Bốn là trong chừng mực nào đó là xi măng. Xi măng chúng tôi sẽ báo cáo thêm chắc là Bộ trưởng Bộ xây dựng sẽ có báo cáo với Quốc hội.
Về than, bình thường chúng ta từng thời điểm thì định mức tồn kho để đảm bảo cho chu kỳ sau và dự trữ sản xuất khoảng 15%. Tuy nhiên thời điểm hiện nay chúng ta tồn kho than là 19%, như vậy cao hơn mức bình thường 4%. Tuy nhiên trong 3 tháng vừa qua ngành than cũng đã cố gắng giúp được tồn kho ở khoảng hơn 1 triệu tấn. Còn từ nay đến cuối năm sẽ phối hợp nhiều giải pháp, trong đó Chính phủ cũng đã cho phép giảm một số thuế.
Thứ hai, ngành than chủ động điều hành theo cơ chế giá theo tín hiệu thị trường, có giảm giá cho một số hộ tiêu thụ. Vì vậy, theo báo cáo của ngành than có thể đến cuối năm mức tồn kho của ngành than sẽ quay trở lại mức bình thường.
Thứ hai là về phân bón hiện nay cũng tồn kho tương đối cao, lý do theo các doanh nghiệp sản xuất trong lĩnh vực phân bón, thời điểm này là lúc giao vụ, chuẩn bị vào vụ đông xuân thì nhu cầu về phân bón sẽ tăng lên và khả năng là chúng ta sẽ xử lý được tồn kho trong lĩnh vực phân bón.
Riêng về thép đúng là tồn kho tương đối cao, tăng xấp xỉ 40% so với cùng kỳ, ở đây có câu chuyện là sản xuất của chúng ta so với nhu cầu trong thời gian vừa qua là cao, phát triển sản xuất thép của chúng ta trong một số dự án vượt so với quy hoạch cộng thêm nhập khẩu thì thép phục vụ cho nhu cầu xây dựng, phục vụ cho đời sống nhân dân có thể nói cung vượt cầu. Hai nữa, cũng trong những tháng vừa qua việc xây dựng của chúng ta, kể cả xây dựng của nhân dân và những công trình của nhà nước đều thực hiện việc thắt chặt, chính vì thế cho nên thép tồn kho tương đối cao.
Về biện pháp, trước hết chúng tôi đã làm việc với Hiệp hội thép, với Tổng công ty thép Việt Nam để điều chỉnh lại mức sản xuất cho phù hợp.
Thứ hai là Bộ Tài chính có Thông tư 157 về biểu thuế nhập khẩu, hiện nay Bộ Tài chính đang cùng Bộ Công thương và các bộ, các ngành xem xét lại để có thể điều chỉnh thuế nhập khẩu cao hơn trong trần mà chúng ta thực hiện theo cam kết với tổ chức thương mại thế giới. Nếu cộng việc thuế này chúng ta tăng lên cùng với việc ngừng sản xuất, cộng với thắt chặt kiểm soát nhập khẩu, chúng tôi nghĩ rằng từng bước có thể giải quyết được tồn kho thép.
Riêng về thép Trung Quốc, có vị đại biểu Quốc hội nêu rằng tại sao thép Trung Quốc chất lượng thấp mà chúng ta lại cho nhập như vậy. Chúng tôi xin báo cáo Quốc hội, theo quy định thì chúng ta không được áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu nếu như những sản phẩm đó đảm bảo các yêu cầu về chất lượng. Cho đến giờ phút này cùng là thép xây dựng thì cũng chưa có số liệu nào nói rằng chất lượng của thép Trung Quốc kém hơn thép xây dựng của chúng ta, chỉ có hiện tượng gian lận thì vừa rồi có một số lô hàng do các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu thì khai là thép chế tạo vì nó có một hàm lượng nhất định chất Bo trong thép. Để nhập khẩu được hưởng thuế ưu đãi về thép chế tạo của chúng ta thuế suất rất thấp.
Tuy nhiên, trên thực tế đó là thép xây dựng và khi nhập vào xong thì đã bán theo thép xây dựng. Đó là hiện tượng gian lận thương mại, chúng tôi cũng đã phối hợp với quản lý thị trường, với Bộ Khoa học, công nghệ tiếp tục xử lý vấn đề này. Như vậy, có nghĩa là tồn kho đến giờ phút này, riêng đối với lĩnh vực cơ khí chế tạo, chế biến quay trở lại mức tương đối bình thường. Vấn đề đối với doanh nghiệp hiện nay những doanh nghiệp trong lĩnh vực này không phải chỉ giải quyết tiếp tục hàng tồn kho mà làm sao để duy trì và phát triển trong chu kỳ tới, tức là trước hết cho năm 2013.
Vấn đề thứ hai là về xăng, dầu chúng tôi xin báo cáo thêm. Còn lĩnh vực xuất nhập khẩu có lẽ xin phép với chủ tọa là trong lần phát biểu khác.
Về xăng, dầu các đại biểu có nêu là Hội đồng cạnh tranh và Cục quản lý cạnh tranh tại sao lại do Bộ Công thương quản lý. Theo quy định, Hội đồng cạnh tranh là Hội đồng do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, có đại diện của các bộ, các ngành trong đó có Thứ trưởng Bộ Tư pháp. Hội đồng cạnh tranh làm việc theo nguyên tắc là một cơ quan liên bộ, chứ không phải là của Bộ Công thương. Còn cơ quan thường trực giúp việc của Hội đồng cạnh tranh là Cục quản lý thị trường, khi xuất hiện các tình huống cần phải xử lý theo quy định của Luật cạnh tranh, ví dụ có đơn thư hoặc có phát hiện những sai phạm thì Hội đồng cạnh tranh sẽ là người xem xét và thụ lý các trường hợp giải quyết theo Luật cạnh tranh, cho đến giờ phút này thì tất cả mọi công việc chúng ta đều thực hiện theo quy trình. Chúng tôi cũng nhận thức rằng, đúng là nếu để Cục quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Công thương thì nó cũng có câu chuyện là vừa quản lý, vừa xử lý những việc hàng ngày. Vì thế trong đề án này, chúng tôi cũng đã tiếp tục kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ xem xét để có thể tới đây tách Cục quản lý cạnh tranh ra khỏi Bộ Công thương và nó chỉ nằm trực thuộc Hội đồng cạnh tranh. Đấy là vấn đề thứ nhất.
Vấn đề thứ hai là tạm nhập, tái xuất xăng dầu, chúng tôi xin báo cáo với Quốc hội hoạt động tạm nhập, tái xuất là một hoạt động thương mại bình thường, ở các nước người ta đều cho phép hoạt động tạm nhập, tái xuất. Tuy nhiên, tạm nhập cái gì, tái xuất cái gì thì nó theo chính sách của từng nước. Riêng đối với xăng dầu đây là một nhu cầu cần thiết bởi vì các nước bạn như Lào, Campuchia họ yêu cầu chúng ta cung cấp xăng, dầu cho họ, bởi vì do điều kiện địa lý, do điều kiện kinh nghiệm trong quản lý xăng, dầu của họ chưa có điều kiện cho nên một năm chúng ta vẫn phải tạm nhập xăng, dầu để xuất lại cho nước bạn Lào và Campuchia.
Thứ hai là hoạt động của máy bay, tàu thuyền nước ngoài vào Việt Nam, họ cũng có nhu cầu mua xăng, dầu tại Việt Nam để phục vụ cho hoạt động của họ khi họ bay trở lại nước của họ. Những hoạt động này không phải chỉ có Ptrolimex đảm nhiệm, còn máy bay của nước ngoài do xăng dầu hàng không thực hiện việc tạm nhập, tái xuất, tàu biển nước ngoài do xăng dầu hàng hải thực hiện việc tạm nhập tái xuất. Chúng tôi nghĩ rằng đây là  sự cần thiết thực hiện theo đúng quy định. Tuy  nhiên, vừa qua có một số trường hợp lợi dụng cơ chế tạm nhập, tái xuất để buôn lậu, để trục lợi, hải quan và các cơ quan chức năng đã phát hiện, vấn đề này Chính phủ yêu cầu phải xử lý nghiêm túc.
Chúng ta đã triển khai việc xử lý và trước mắt đã trấn chỉnh bằng việc thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công thương cùng với Bộ Tài chính đã thống nhất ban hành quy định chỉ cho phép các hoạt động tạm nhập, tái xuất theo yêu cầu đối với hoạt động đối ngoại, đối với tàu thuyền và máy bay của nước ngoài, còn các trường hợp khác thì tạm dừng.
Thứ ba, về thị phần của các doanh nghiệp xăng dầu, hiện nay chúng ta có 12 doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, theo Nghị định 84 thì nhà nước không hạn chế doanh nghiệp trong nước nếu đủ điều kiện có thể đăng ký để trở thành doanh nghiệp đầu mối về xăng dầu nếu có điều kiện về kho bãi, có điều kiện về vốn, có điều kiện về hệ thống phân phối thì nhà nước không hạn chế, chúng ta chỉ hạn chế nước ngoài trong lĩnh vực xăng dầu. Nhưng cho đến giờ phút này ngoài 12 doanh nghiệp cũng chưa có doanh nghiệp nào đăng ký thành lập thêm doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu.
Về cơ chế, hàng năm Bộ Kế hoạch đầu tư căn cứ vào nhu cầu của năm sau có thông báo chỉ tiêu nhập khẩu xăng dầu tối thiểu và căn cứ vào chỉ tiêu đó Bộ Công thương thông báo cho các doanh nghiệp đăng ký chỉ tiêu, hạn ngạch nhập khẩu xăng dầu tối thiểu. Tất cả những doanh nghiệp này đều đăng ký và chúng tôi không phân bổ theo ý chí hành chính mà căn cứ và đăng ký. Nhưng trên thực tế vừa qua, nhất là trong thời điểm giá xăng dầu tăng cao, có không ít doanh nghiệp không thực hiện chỉ tiêu đăng ký, không nhập khẩu dẫn đến Bộ Công thương phải nhắc nhở và rút giấy phép. Như vậy, phần thiếu còn lại do không nhập phải giao cho Tổng công ty xăng dầu thực hiện nhiệm vụ đó hay cho Công ty xăng dầu dầu khí. Còn 30% do PV OIL của Tập đoàn Dầu khí thực hiện phân phối LaVie sản phẩm của ngành dầu khí do nhà máy lọc hóa dầu Bình Sơn sản xuất ra 30% thì phải có người tiêu thụ bao tiêu đó là Công ty xăng dầu dầu khí, còn 60% của Petrolimex là lịch sử để lại,  bởi vì trước đây chúng ta chỉ có một doanh nghiệp hoạt động xăng dầu với hệ thống kho bãi, hệ thống phân phối thì bây giờ đương nhiên phải còn tỷ lệ như vậy. Tuy nhiên, chúng tôi khẳng định không có hạn chế các doanh nghiệp trong nước nếu có điều kiện. Tôi xin báo cáo thêm một số ý kiến như vậy, còn các nội dung khác tôi xin phát biểu lần sau.

Huỳnh Văn Tiếp - TP Cần Thơ
Kính thưa Quốc hội,
Tôi thống nhất với Báo cáo của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội về kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế- xã hội , an ninh quốc phòng năm 2012 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013. Đối với kết quả thực hiện kinh tế - xã hội năm 2012, cử tri đánh giá cao sự cố gắng, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ cùng sự hưởng ứng tích cực của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân nên trước những khó khăn tác động từ bên ngoài và khó khăn bên trong của đất nước nhưng kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng khá, ước đạt 5,2%, lạm phát được giữ vững một con số, xuất khẩu tăng cao, an sinh xã hội được quan tâm giải quyết, an ninh trật tự an toàn xã hội được tiếp tục giữ vững ở điểm đáng khích lệ. Tuy nhiên theo báo cáo trong 15 chỉ tiêu Nghị quyết của Quốc hội đề ra còn 5 chỉ tiêu không đạt, đặc biệt cử tri rất băn khoăn trong quản lý kinh tế đất nước trong thời gian qua nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước đầu tư ngoài ngành, làm ăn không hiệu quả, công tác quản trị kinh doanh kém dẫn tới nợ nần cao không có khả năng thanh toán. Tái cơ cấu lại cũng đang gặp khó khăn, đề nghị Quốc hội, Chính phủ cần sớm ban hành các thể chế nhằm quản lý chặt chẽ hơn hoạt động kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Về hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại và vai trò quản lý Nhà nước của ngân hàng Nhà nước trong việc thanh, kiểm tra vừa qua thiếu chặt chẽ để xảy ra nhiều vụ tham nhũng lớn trong cán bộ tín dụng ngân hàng, cũng từ đó làm tăng cao nợ xấu, ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân, tác động xấu đến nền kinh tế của đất nước. Điều mà cử tri đặc biệt quan tâm là 9 tháng đầu năm huy động tín dụng tăng 12,7%, nhưng số tiền cho vay chỉ 2,52%, trong khi đó doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận nguồn vốn vay gặp khó khăn. Vậy, đồng tiền huy động còn lại 10% đang đi về đâu, cần được điều tra, thanh tra làm rõ để có giải pháp thúc đẩy đưa dòng tiền vào sản xuất kinh doanh.
Qua kết quả khảo sát của Tổng cục thuế đối với hơn 256 ngàn tờ khai của doanh nghiệp cho thấy có 70% doanh nghiệp báo cáo không lãi. Nếu thực sự như vậy là khó khăn lớn cho doanh nghiệp và cho nền kinh tế. Tôi đề nghị Quốc hội, Chính phủ cần sớm có chủ trương, giải pháp mạnh hơn để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khôi phục nền kinh tế đất nước. Về quy hoạch sử dụng đất và quản lý quy hoạch sử dụng đất trong thời gian qua có nhiều tồn tại, thiếu sót, chậm được khắc phục gây lãng phí lớn, nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế tỷ lệ lấp đầy rất thấp, nhiều khu đô thị mới, khu đô thị được xây dựng nhưng ít người mua nên bỏ trống không có người ở. Cung thì quá nhiều, cầu thì rất ít, do không có tiền mua, trong khi đó nguồn vốn để đầu tư các dự án, 80% là vốn vay của ngân hàng, hiện chủ dự án vay vốn quá hạn, không có tiền đóng lãi và trả nợ gốc cho ngân hàng. Tôi đề nghị Quốc hội, Chính phủ cần thành lập Đoàn thanh tra, kiểm tra để có những chủ trương, giải pháp khắc phục thời gian tới.
Đối với kinh tế-xã hội, năm 2013 tôi thống nhất với dự báo tình hình mục tiêu tổng quát và các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, môi trường cùng các giải pháp chủ yếu mà Chính phủ đã nêu. Tôi đề nghị trước khó khăn của kinh tế thế giới và trong nước, nên mục tiêu tăng trưởng kinh tế khoảng 5,2-5,5% là vừa, chỉ số giá tiêu dùng tăng ở mức 6 - 8% là phù hợp, các chỉ tiêu tạo việc làm mới và giảm nghèo cần quan tâm đặc biệt, vì doanh nghiệp đang gặp khó khăn, sản phẩm nông dân làm ra lợi nhuận thấp. Nguồn đầu tư cho các chương trình mục tiêu, nhất là chương trình xóa đói giảm nghèo cũng gặp khó khăn.
Về thu chi ngân sách, tôi đề nghị Quốc hội, Chính phủ trong phân bổ ngân sách năm 2013 cần cân đối ưu tiên cho con người trong đó tập trung cho việc thực hiện chế độ tiền lương và việc nâng lương theo lộ trình và những vấn đề cấp bách an sinh xã hội, đảm bảo chi cho giáo dục và y tế. Bố trí vốn thanh toán những công trình hoàn thành đưa vào sử dụng hiện nay còn thiếu nợ các nhà thầu. Kiên quyết cắt giảm các khoản chi chưa thực sự cấp thiết, đảm bảo một tỷ lệ nhất định cho việc chi đầu tư phát triển và giữ bội chi ngân sách năm 2013 với 4,8% GDP. Xin cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Thị Kim Bé - Kiên Giang
Kính thưa Quốc hội,
Tôi cơ bản thống nhất với nội dung đánh giá trong Báo cáo của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội về tình hình thực hiện phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 và kế hoạch năm 2013. Tôi đánh giá rất cao sự cố gắng nỗ lực của Chính phủ, bộ, ngành trong chỉ đạo điều hành thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra đạt được kết quả rất khả quan trong điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên để phản ánh một số vấn đề thực tế ở địa phương tôi xin phép tham gia phát biểu 3 nội dung cụ thể sau.
Thứ nhất, về vấn đề xây dựng nông thôn mới là một chủ trương rất đúng đắn, người nông dân ở nông thôn rất mừng song chính sách đầu tư cho xây dựng nông thôn mới còn nhiều vấn đề cần phải quan tâm. Nông thôn Việt Nam hầu hết đời sống người nông dân còn gặp nhiều khó khăn, hộ nghèo cũng tập trung ở nông thôn là chủ yếu. Đây còn là những căn cứ cách mạng trong giai đoạn kháng chiến, ngày nay chúng ta xây dựng nông thôn mới trên tinh thần nhà nước và nhân dân cùng làm.
Qua báo cáo của địa phương đối với việc thực hiện đề án này thì người nông dân đóng góp khoảng từ 40 đến 50% kinh phí đầu tư. Tuy nhiên túi tiền của người dân còn phải lo nhiều thứ, lo ăn, lo mặc, lo con cái học hành, với nghìn lẻ một nhu cầu đều trông cậy vào thửa ruộng mà ruộng thì sản xuất chẳng có lợi nhuận bao nhiêu. Người nông dân cho rằng chính sách hỗ trợ của nhà nước cho nông dân sản xuất lúa có lợi từ 30% trở lên chỉ đến với doanh nghiệp, đến với thương lái. Còn người nông dân dù cho có được mùa thì cũng thấp thoảng lo âu vì rớt giá. Đây chưa kể đến chuyện người nông dân được các nhà khoa học, các nhà chuyên môn khuyến khích sản xuất lúa chất lượng cao thì người đi thu mua lại chọn những giống lúa như 50404 và như vậy thì người nông dân nghèo họ lại phải vay vốn để đầu tư cho việc xây dựng nông thôn mới. Chính vì vậy, việc chia lửa với nhà nước trong thực hiện chủ trương này lại càng khó khăn đối với người nông dân.
Trước vấn đề trên tôi đề nghị Bộ Nông nghiệp, Bộ Tài chính tham mưu với Chính phủ có những chính sách hỗ trợ lãi suất vốn vay cho nông dân trong thực hiện Đề án xây dựng nông thôn mới để kịp thời hoàn thành lộ trình theo kế hoạch đề ra. Đề nghị cơ quan chức năng nên quy định đối với doanh nghiệp xuất khẩu lúa gạo phải có hợp đồng với nông dân về vùng nguyên liệu để gắn kết trách nhiệm giữa doanh nghiệp với nông dân trong tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Vấn đề thứ hai, về một số chính sách cho giáo dục trong thời gian qua. Nhiều chính sách của nhà nước xác định giáo dục mầm non thực hiện trên tinh thần xã hội hóa mà xã hội hóa có nghĩa là các nguồn đầu tư của nhà nước đầu tư cho bậc học này. Đề án phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi là một chủ trương đúng, song chính sách đầu tư cho giáo dục mầm non từ trước đến nay còn bỏ ngỏ. Tôi thiết nghĩ, những mầm non hôm nay nếu chúng ta không chăm lo liệu có đủ sức thành những rừng cây đầy sức sống cho ngày mai. Qua tham gia đoàn giám sát của Ủy ban Văn hóa giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội, tôi nhận thấy đến nay thực trạng vẫn còn nhiều tỉnh chỗ để cho các em ngồi học còn không có thì làm sao có thể hoàn thành tiến độ đến 2015 thì 85% trẻ 5 tuổi được học 2 buổi trên một ngày. Như vậy, còn 3 năm nữa thôi thì hoàn thành đề án này mà chúng ta đầu tư như thế thì liệu có kịp tiến độ hay không. Như vậy, đề án này có chạy theo thành tích hay không.
Hiện nay còn một số chính sách cho giáo viên, cán bộ viên chức của ngành Giáo dục còn bỏ ngỏ một đội ngũ mà tôi cho là đóng vai trò rất quan trọng. Đó là đội ngũ thực hiện nhiệm vụ thư viện, thiết bị, y tế trường học, thủ quỹ, kế toán của các cơ sở giáo dục. Họ không được hưởng chế độ công vụ của công chức, họ cũng không được coi là viên chức của ngành Giáo dục để được hưởng thâm niên phụ cấp nghề. Xét về xuất phát nghề thì họ cũng là những giáo viên được đào tạo từ ngành sư phạm. Do phân công công tác cho nên họ phải nhận những nhiệm vụ trên. Như vậy, theo các nhà hoạch định chính sách thì sắp xếp họ đứng ở đâu trong hệ thống bộ máy công chức Nhà nước.
Từ những vấn đề trên, tôi đề nghị Bộ Giáo dục cần kiểm tra, đánh giá lại lộ trình thực hiện lộ trình phổ cập giáo dục mầm non, cần phải có nguồn lực riêng để thực hiện đề án này để thể hiện sự công bằng giữa các bậc học và kịp thời hoàn thành kế hoạch đã đề ra. Đề nghị Bộ Giáo dục, Bộ Nội vụ tham mưu với Chính phủ có những chính sách cho đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ thư viện, thiết bị, y tế trường học, thủ quỹ, kế toán của các cơ sở giáo dục để thực sự xem họ là viên chức của ngành Giáo dục như các viên chức khác.
Vấn đề thứ ba, về vấn đề đầu tư hạ tầng giao thông. Kiên Giang là một tỉnh ở phía tây nam của Tổ quốc. Nhìn trong tổng thể khu vực và trong cả nước thì Kiên Giang nằm ở một vị trí góc hẹp, muốn giao thương hàng hóa ra ngoài thì chủ yếu phải qua các tuyến quốc lộ 80, 61, 63. Các tuyến quốc lộ này đảm nhiệm một nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, thu hút sự đầu tư của các tổ chức và doanh nghiệp. Nhưng hiện nay các quốc lộ này vô cùng xuống cấp. Xin được giới thiệu với Quốc hội qua các bức tranh như sau: Đây là quốc lộ 61 và đây là quốc lộ 63. Các tuyến quốc lộ này chúng tôi xin giới thiệu là mặt bề ngang chỉ có 3,5 mét với vô số các ổ gà mà chúng tôi vẫn biết rằng điều này Bộ trưởng Bộ Giao thông đã đến nhìn tận mắt và chia sẻ với người dân Kiên Giang. Hai quốc lộ này thường gây ra các tai nạn, ách tắc giao thông và cũng ách tắc các việc đi lại vận chuyển hàng hóa của người dân. Tuy nhiên hai tuyến quốc lộ này không đưa vào trong kế hoạch xây dựng đến năm 2015. Có thể thấy chỉ qua một mùa mưa này thôi tốc độ xuống cấp càng trầm trọng, như vậy nếu như không đầu tư đến năm 2015 thì hai tuyến quốc lộ này liệu có phải còn con đường hay không, đây là quốc lộ chứ không phải là lộ làng.
Với vai trò là đại biểu dân cử cũng là một cử tri của tỉnh Kiên Giang tôi đề nghị Bộ Giao thông, Bộ Kế hoạch đầu tư sớm đưa hai tuyến quốc lộ này vào kế hoạch đầu tư đến năm 2015 và trước mắt có nguồn duy tu sửa chữa để tạo điều kiện cho cử tri Kiên Giang thuận lợi đi lại và giao thương hàng hóa với khu vực và cả nước để phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Xin chân thành cám ơn.

Phương Thị Thanh - Bắc Kạn
Kính thưa Quốc hội,
Trước hết tôi xin được thể hiện sự cơ bản đồng tình với Báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2012 và kế hoạch năm 2013 cũng như Báo cáo Thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Báo cáo đã phản ánh khá toàn diện về tình hình kinh tế xã hội năm 2012 và cũng đã phân tích những hạn chế tồn tại, tại phiên họp này tôi xin được phát biểu một số nội dung như sau:
Thứ nhất là trong 5 chỉ tiêu kinh tế xã hội có nhiều khả năng không đạt theo kế hoạch đề ra, theo tôi đây là những chỉ tiêu cơ bản nhất, quan trọng phản ánh tính bền vững của nền kinh tế trong trung và dài hạn. Về phân tích nguyên nhân hai chỉ tiêu, tỷ lệ giảm hộ nghèo, độ che phủ rừng không đạt đã được đề cập trong báo cáo. Tôi cho rằng hai chỉ tiêu không đạt này chủ yếu là tập trung ở các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhất là các huyện nghèo, các xã nghèo và có tác động rất lớn đến đời sống kinh tế xã hội của người dân vùng này.
Ngoài nguyên nhân đã đề cập, theo tôi chính sách đầu tư cho công tác bảo vệ và phát triển rừng, chính sách giảm nghèo bền vững của chúng ta là hiệu quả đầu tư còn dàn trải, chưa có chính sách cụ thể tạo động lực cho người nghèo thoát nghèo bền vững.
Về công tác quản lý chương trình giảm nghèo bền vững còn nhiều bất cập, trong 3 chương trình thành phần của chương trình giảm nghèo thì mỗi chương trình thành phần được giao cho một bộ chủ quản để chỉ đạo, hướng dẫn quản lý thực hiện và từng chương trình thành phần một, do vậy tính lồng ghép tổng thể nguồn lực để đầu tư cho chương trình giảm nghèo đã bị phân tán, không đồng bộ. Mặt khác, tỷ lệ hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo còn cao, nhưng chưa có chính sách hỗ trợ cụ thể, nên các đối tượng này dễ bị tái nghèo trở lại.
Thứ hai, về thực hiện các chương trình dự án hỗ trợ có mục tiêu, chương trình mục tiêu quốc gia, Chính phủ chỉ đạo ban hành khá nhiều chương trình, dự án để triển khai thực hiện và mỗi chương trình đều có mục tiêu cụ thể và quy định về nguồn lực, đảm bảo theo lộ trình thực hiện. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế hiện nay của nước ta, nguồn lực phân bổ không đảm bảo theo lộ trình thực hiện, chẳng hạn như đề án phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi giai đoạn 2010 -2015, đây là đề án rất quan trọng tạo tiền đề để nâng cao chất lượng giáo dục cho các bậc học sau này.
Tuy nhiên, đối với các địa phương khó khăn, không tự cân đối được ngân sách thì khó có thể đến năm 2015 đạt được mục tiêu theo đề án của Chính phủ, trong đó có tiêu chí về phòng học chuẩn như về trang thiết bị tối thiểu cho mẫu giáo 5 tuổi là khó thực hiện nhất, nhất là đối với các trường, các điểm trường ở các xã, các thôn vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn. Qua khảo sát tại một số địa phương trong vùng cho thấy đến nay chỉ có khoảng 10% số xã, trường đạt chuẩn về tiêu chí này hoặc chương trình xây dựng nông thôn mới với nguồn lực hàng năm phân bổ cho đầu tư phát triển chỉ khoảng 1 nghìn tỷ như hiện nay thì khó có thể đạt được tiêu chí đến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chí về xây dựng nông thôn mới.
Từ những nội dung nêu trên đề nghị Chính phủ khi ban hành các chương trình dự án, các chính sách mới cần cân nhắc các nguồn lực đảm bảo để khi thi hành có tính khả thi cao, nhất là đối với các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn. Đồng thời sớm sửa cơ chế quản lý chương trình mục tiêu quốc gia theo hướng trung ương chỉ quản lý mục tiêu và tổng mức đầu tư, giao cho các địa phương chủ động trong việc quyết định đầu tư, phân bổ nguồn lực, lồng ghép các nguồn vốn về thực hiện mục tiêu chương trình, khắc phục tình trạng địa phương phải xin ý kiến thẩm định của các bộ chủ quản trước khi triển khai thực hiện dự án. Thời gian bộ, ngành thẩm định rất lâu nên ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân nguồn vốn tại các địa phương.
Thứ ba, về thực hiện cắt giảm đầu tư công bước đầu đã hạn chế được phần nào tình trạng đầu tư dàn trải, tập trung nguồn lực để trả nợ cho các dự án hoàn thành. Tuy nhiên qua ý kiến thảo luận của nhiều đại biểu tại các tổ và thực tế tại địa phương cho thấy, tình trạng giãn, hoãn tiến độ một số dự án công trình đang gây lãng phí lớn, nhất là đối với các công trình giao thông, thủy lợi. Về cơ bản đối với các dự án này đã thi công một phần hoặc đã thi công một số hạng mục, mặt đường đã được cày xới, cầu cống thi công dở dang và đang phơi mưa, phơi nắng, gây lãng phí rất lớn, vừa gây khó khăn cho việc đi lại, vận chuyển hàng hóa và đời sống của người dân. Do vậy, đề nghị Chính phủ chỉ đạo việc rà soát toàn bộ các công trình, dự án đã cắt, giãn, hoãn tiến độ để lựa chọn tiếp tục đầu tư đối với các dự án giao thông thủy lợi đang thi công dở dang để vừa tránh lãng phí nguồn vốn nhà nước đã đầu tư hoặc doanh nghiệp đã ứng vốn đầu tư, vừa tháo gỡ khó khăn về hàng tồn kho như sắt, thép, vật liệu xây dựng để thực hiện vào công trình. Đồng thời xem xét thấu đáo về cơ cấu vốn đầu tư giữa các vùng miền cho phù hợp, thu hẹp khoảng cách đầu tư giữa các vùng.
Thứ tư, về cải cách thủ tục hành chính đã có chuyển biến tích cực, tuy nhiên còn chậm khắc phục những bất cập đặt ra, chậm sửa đổi, tháo gỡ những khó khăn khi địa phương kiến nghị, nhất là việc thẩm định vốn, điều chỉnh tổng mức đầu tư đối với các dự án trong thời gian vừa qua.
Về lộ trình cải cách tiền lương theo đề nghị của Chính phủ cần xem xét lại lộ trình tăng lương hợp lý để đảm bảo đời sống cho người hưởng lương, đồng thời đề nghị Chính phủ sớm ban hành đề án cải cách tiền lương đến giai đoạn 2015 cho phù hợp đồng bộ giữa thang bảng lương trong hệ thống chính trị, sớm khắc phục tình trạng ban hành nhiều chính sách ưu đãi ngành, chính sách ngành, nghề đặc thù, phụ cấp ưu đãi nghề tràn lan trong thời gian vừa qua. Cải cách tiền lương phải gắn với cải cách bộ máy hành chính, tinh giản biên chế là giải pháp hữu hiệu để thực hiện tăng lương theo lộ trình. Đề nghị Chính phủ xem xét sớm ban hành chính sách mới về tinh giản biên chế thay thế Nghị định 132 đã hết hiệu lực và có xem xét đến đội ngũ cán bộ, công chức xã. Tôi xin cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Cao Phúc - Quảng Ngãi
Kính thưa Quốc hội.
Tôi tán thành với Báo cáo của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế trong năm 2012 kinh tế thế giới có nhiều bất ổn, tăng trưởng phục hồi chậm, thất nghiệp tăng ở nhiều quốc gia, một số ngành kinh tế lớn có nguy cơ tiến sâu vào trì trệ suy thoái đã ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế - xã hội nước ta. Bên cạnh đó, những khó khăn trong tồn tại nền kinh tế kết tụ nhiều năm làm cho kinh tế - xã hội năm 2012 gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng với sự điều hành linh hoạt quyết liệt và kịp thời của Chính phủ chúng ta đã đạt được những thành tựu, kết quả nhất định và đúng hướng, kinh tế vĩ mô đã dần ổn định, lạm phát bước đầu đã được kiềm chế, an sinh xã hội đã được quan tâm, 10/15 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra. Đây là kết quả của sự nỗ lực rất lớn của hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước. Tuy nhiên kinh tế xã hội năm 2012 vẫn còn những tồn tại hạn chế đó là kinh tế vĩ mô chưa thực sự ổn định, nguy cơ lạm phát vẫn tiềm ẩn, thị trường sụt giảm, hàng tồn kho tăng, sản xuất đình trệ, nợ xấu của hệ thống ngân hàng tăng, số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động và tình trạng thất nghiệp tăng cao làm cho đời sống nhân dân, nhất là nông dân gặp rất nhiều khó khăn. Chính phủ đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp cho những tháng còn lại của năm 2012 và năm 2013. Tôi tán thành cao các giải pháp này và xin đề cập 3 vấn đề mà bản thân tôi quan tâm cụ thể như sau.
Thứ nhất, về quản lý nợ xấu. Hiện nay nợ xấu của hệ thống ngân hàng đã tăng đến mức báo động và không có dấu hiệu dừng lại đã làm tắc nghẽn quá trình trung chuyển của nguồn lực quốc gia, tính thanh khoản của ngân hàng kém. Đây là nguyên nhân có thể đẩy lãi suất tăng trong thời gian tới. Vì vậy, xử lý nợ xấu là một yêu cầu bức thiết cần phải tập trung triển khai trong thời gian tới đến để giải cứu ngân hàng và nền kinh tế cũng như đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu ngân hàng, các tập đoàn cũng như các tổ chức kinh tế. Nhưng hiện nay nợ xấu của các ngân hàng thương mại là bao nhiêu thì cũng chưa được xác định cụ thể. Để giải quyết nợ xấu có hiệu quả theo tôi cần phải rà soát nợ xấu của từng ngành, từng lĩnh vực, từng ngân hàng là bao nhiêu. Xác định nguyên nhân và trách nhiệm cụ thể của từng tổ chức, cá nhân, có như vậy thì mới có hướng tháo gỡ và giải pháp phù hợp như quy trách nhiệm cá nhân để thu hồi nợ, cơ cấu lại nợ, bán nợ. Đồng thời khẩn trương thành lập công ty mua bán nợ hoạt động theo nguyên tắc thị trường để xử lý nợ xấu, nhưng đây là hoạt động rất nhạy cảm, dễ dẫn đến thất thoát tài sản quốc gia. Vì vậy, hoạt động mua bán nợ cần phải minh bạch, đặt dưới sự giám sát đặc biệt của các bộ, ngành liên quan và các ủy ban của Quốc hội.
Thứ hai là giải quyết hàng tồn kho và hỗ trợ sản xuất giải quyết việc làm do đình trệ sản xuất và hạn chế về dự báo nên một số ngành đầu tư vượt năng lực so với nhu cầu trong nước dẫn đến hàng tồn kho tăng cao so với cùng kỳ năm trước như plastic, vật liệu xây dựng, căn hộ chung cư. Xử lý hàng tồn kho là yêu cầu cấp bách nhằm thực hiện hai mục tiêu đó là hỗ trợ sản xuất tạo việc làm, vừa xử lý một phần lớn nợ xấu của ngân hàng thương mại, nhất là trong lĩnh vực bất động sản. Vì vậy, theo đôi để giải quyết vấn đề này cần phải khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, thực hiện có hiệu quả cuộc vận động người Việt Nam dùng hàng Việt Nam.
Bên cạnh đó chúng ta cần có giải pháp mạnh để kích thích thị trường như sau: Cân nhắc việc phát hành vốn trái phiếu Chính phủ của năm 2013 và phát hành vốn trái phiếu công trình để đầu tư các công trình có tính lan tỏa đột phá thu hút đầu tư của xã hội. Đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm, các công trình cần thiết bức xúc khác để phát huy hiệu quả công trình, giải quyết lao động việc làm, tiêu thụ hàng tồn kho của các doanh nghiệp. Nếu việc huy động vốn và quản lý cấp phát thanh toán một cách linh hoạt hợp lý thì sẽ không ảnh hưởng nhiều đến mục tiêu kiềm chế lạm phát của năm 2013.
Hiện nay nhu cầu nhà ở của người có thu nhập thấp, của cán bộ công chức ở các thành phố lớn rất bức xúc và rất lớn, trong khi đó có đến khoảng 70.000 căn hộ đang đóng băng. Để giải quyết vấn đề này theo tôi cần có cơ chế để các doanh nghiệp bất động sản điều chỉnh quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản phẩm đáp ứng nhu cầu thực tế của phân khúc căn hộ trung bình và thấp. Đồng thời có giải pháp hỗ trợ sức mua như sớm triển khai đề án quỹ tiết kiệm nhà và ban hành chính sách tín dụng nhà ở hợp lý để hỗ trợ cho người dân vay để mua nhà thì mới giải quyết được nhu cầu nhà ở của nhân dân đô thị và giải quyết hàng tồn kho của doanh nghiệp, nợ xấu của ngân hàng.
Thứ ba, hỗ trợ nông dân và hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp. Theo đánh giá của Ủy ban kinh tế của Quốc hội, trong thời gian vừa qua sản xuất nông nghiệp, nhất là chăn nuôi gặp nhiều khó khăn do chi phí đầu vào liên tục tăng nhưng giá bán không tăng, có trường hợp giảm sâu. Là một nước nông nghiệp nhưng chúng ta lại nhập 70% nguồn nguyên liệu để sản xuất thức ăn chăn nuôi. Năm 2011 chúng ta nhập khẩu xấp xỉ 89 triệu tấn.
Do phụ thuộc vào nhập khẩu nên không kiểm soát được giá và chất lượng, không tận dụng được lợi thế của sản phẩm và phụ phẩm nông nghiệp rẻ của đất nước. Vì vậy, cử tri kiến nghị Chính phủ cần có giải pháp khắc phục tình trạng này để phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, phụ phẩm nông nghiệp trong nước, chủ động giải quyết lao động việc làm và tăng hiệu quả cho người chăn nuôi.
Trong thời gian vừa qua tình trạng vật tư nông nghiệp làm giả không đảm bảo chất lượng gia tăng đã ảnh hưởng đến  năng suất và hiệu quả của sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó tình trạng nông dân bị tư thương ép giá đầu vào, giảm giá đầu ra, giá mua nông sản, thực phẩm của nông dân thấp nhưng ở siêu thị, ở chợ lại quá cao. Tình trạng nhập lậu một số lượng lớn thực phẩm không đảm bảo chất lượng, sản phẩm thải loại gia tăng làm ngành chăn nuôi trong nước lao đao, điều này thể hiện sự bất cập trong hệ thống phân phối và quản lý thị trường, quản lý nhập khẩu, nông dân thiệt đơn, thiệt kép, đời sống đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Cử tri kiến nghị Chính phủ trong thời gian tới cần quan tâm chỉ đạo quyết liệt công tác này, đồng thời có chính sách tạm trữ, xây dựng quỹ bình ổn, phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm nông nghiệp để hạn chế tình trạng tư thương ép giá, được mùa mất giá, tạo điều kiện cho nông dân yên tâm sản xuất và nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, cải thiện đời sống. Xin hết.

Trần Thị Hoa Sinh - Lạng Sơn
Kính thưa Quốc hội.
Về thảo luận tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 và kế hoạch 2013, tôi xin phát biểu một số ý kiến như sau:
Thứ nhất, tôi cơ bản nhất trí với báo cáo của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của Ủy ban kinh tế, tôi xin phát biểu một số ý kiến.
Một, về kiểm điểm lại Nghị quyết số 11 năm 2011 của Quốc hội, về tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2012. Trong nghị quyết này chúng ta đưa ra mục tiêu tổng quát và 15 chỉ tiêu cụ thể và trong báo cáo của Chính phủ, tôi thấy đã đánh giá trên cơ sở thực hiện mục tiêu tổng quát cũng như 15 chỉ tiêu và qua đánh giá chúng tôi thấy có 5 chỉ tiêu dự báo của chúng ta có khả năng không đạt, đây là dự báo. Nhưng tôi tin chắc rằng trong 5 chỉ tiêu này kết thúc đến 30 tháng 12 thì có chỉ tiêu sẽ đạt. Tuy nhiên ở đây chúng tôi thấy có những chỉ tiêu chúng ta thấy đã diễn ra trong nhiều năm nay và chúng ta đã không đạt được, một là tôi đưa con số:
Năm 2011 tăng trưởng kinh tế 5,89%.
Năm 2012 chúng ta đưa ra kế hoạch 6 đến 6,5% và ước thực hiện 5,2%, tôi tin chắc sẽ cao hơn một chút.
Năm 2013 là 5,5%. Ở đây tại sao tôi lại đưa ra con số này, bởi vì trong tổ chức triển khai thực hiện của Chính phủ cũng như cả bộ máy của chúng ta từ cơ sở, cả một hệ thống chính trị của cả nước chúng ta. Tuy nhiên có một vấn đề mà tôi băn khoăn và suy nghĩ, chúng ta cũng cần được đánh giá ở đây mà trong nghị quyết chúng ta có đề cập, đó là công tác dự báo của chúng ta và đặc biệt các ý kiến thảo luận của đại biểu Quốc hội và hôm qua tôi có xem lại biên bản thảo luận tháng 11/2011, tôi thấy cũng có nhiều ý kiến đưa ra mức tăng trưởng kinh tế của chúng ta thấp hơn 6 - 6,5% và có những ý kiến tăng trưởng đưa ra cũng gần sát như kế hoạch trong dự báo của Chính phủ đã thực hiện được trong năm nay thì đó là vấn đề, tôi thấy chúng ta cần xem xét và chúng ta rút kinh nghiệm trong biểu quyết nghị quyết của Quốc hội năm 2013 để làm sao chúng ta đưa ra chỉ tiêu này đạt được và nó không cách xa trong kế hoạch của Quốc hội biểu quyết thì tôi thấy có tính thuyết phục rất cao mà trong chỉ đạo của Chính phủ và hệ thống chính trị của chúng ta rất sát trong dự báo của chúng ta. Đấy là ý thứ nhất.
Ý thứ hai, ở đây chúng tôi cũng đề nghị Chính phủ cũng cần phải làm rõ những nguyên nhân mà 5 chỉ tiêu này có thể khả năng không đạt được. Đặc biệt chúng ta thấy có một số chỉ tiêu ở đây chúng tôi thấy cũng cần phải chỉ rõ chỗ này. Tuy nhiên, tôi khẳng định là 9 giải pháp của năm 2011 đề ra cho năm 2012 thì tôi thấy cơ bản là đầy đủ. Nhưng để kiểm điểm đánh giá lại vấn đề này thì tôi đề nghị cần phải kiểm điểm, đánh giá từng nhóm vấn đề của giải pháp và trong các nhóm vấn đề đó cái gì chúng ta làm được và cái gì chúng ta không làm được. Từ đó, chúng ta có giải pháp cho năm 2013. Đó là ý kiến thứ nhất. Nhưng tôi vẫn lưu ý một nguyên nhân là dự báo của chúng ta không sát. Thứ hai là tiếp thu, giải trình ý kiến của đại biểu Quốc hội. Thứ ba là công tác điều hành của các cấp chính quyền từ Trung ương cho đến cơ sở.
Nội dung thứ hai, về chính sách dân tộc miền núi. Đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số đâu đó còn nhiều khó khăn. Thu nhập dân cư của vùng miền này có sự chênh lệch rất lớn so với các vùng phát triển trong cả nước. Về việc đầu tư thì tôi cho rằng chúng ta đã phát biểu rất nhiều nhưng chưa tương xứng. Có những hộ gia đình ở vùng sâu, vùng xa, báo cáo với các vị đại biểu Quốc hội là 1 ngày không thể thu nổi được 50.000 đồng. Đấy là những vấn đề mà chúng tôi thấy chúng ta cần quan tâm.
Vậy thì trong năm 2012 thì chúng ta đã quan tâm thế nào. Chúng tôi thấy trong Nghị quyết 11 của Quốc hội thì chúng ta đã đề cập là ưu tiên vốn cho các vùng này. Nhưng trong thực tế, chúng tôi thấy quá nhiều chương trình, đặc biệt trong năm 2012 chúng ta có 16 chương trình, mục tiêu. Mỗi một chương trình thì chúng ta chia xé lẻ ra kinh phí nguồn vốn rất ít. Trong tổ chức triển khai thực hiện thực tế thì không giải quyết ra tấm, ra món gì cả.
Chính vì vậy, tôi đề nghị phải nghiên cứu, ưu tiên và tăng mức vốn đầu tư hàng năm cho các tỉnh miền núi, biên giới để tạo điều kiện cho các tỉnh sớm hoàn thành các mục tiêu của các chương trình mục tiêu quốc gia và chương trình dự án cấp bách như xây dựng nông thôn mới, nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn, ổn định dân cư, xây dựng đường tuần tra biên giới, kè, bảo vệ bờ sông, suối biên giới, về phát triển kinh tế - xã hội với các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Kỳ họp trước tôi đã phát biểu đặc biệt quan tâm đến vùng biên giới. Hôm này tôi lại nhắc lại ý này. Chúng tôi thấy chúng ta cần phải quan tâm đến các vùng này. Bởi vì đấy là phên giậu bảo vệ vùng biên cương của chúng ta.
Ý kiến thứ ba là cần có các giải pháp để thực hiện lộ trình tăng lương, hôm qua tôi cũng xem lại toàn bộ văn bản của các năm gần đây nhất, chúng ta thấy năm nào chúng ta cũng điều chỉnh được lương tối thiểu và Chính phủ cũng có quy định như vậy hàng năm chúng ta thực hiện. Tôi xem dự báo thu ngân sách năm 2012, tôi thấy trong Báo cáo của Chính phủ đề cập dự báo thu ngân sách sẽ tăng 0,14% so với dự toán, tăng 5,3% so với năm 2011, vậy thì tại sao chúng ta không điều chỉnh được lương tối thiểu. Tôi thấy rằng kỳ này trong Báo cáo về ngân sách chúng ta đề nghị tăng với mức hơn 200.000đ, tôi cũng đồng nhất với một số quan điểm cũng như Báo cáo thẩm tra, chúng ta không tăng được hơn 200.000đ thì tăng hơn 100.000đ, không tăng được nhiều thì chúng ta tăng ít. Đó là vấn đề chúng ta cần phải suy nghĩ, tôi thấy chúng ta có thể tiết kiệm phần khác để giải quyết việc này, bởi vì đây là vấn đề an sinh xã hội, đó là đời sống của một bộ phận cán bộ, công chức làm công hưởng lương, việc đó chúng ta phải tính toán.
Cuối cùng, tôi đề nghị phải tăng cường giám sát của các cơ quan của Quốc hội, giám sát này phải thực chất, chỉ ra được những vấn đề tồn tại, yếu kém, phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy công quyền từ trung ương đến địa phương, tiếp tục xây dựng, củng cố nền tảng giá trị đạo đức xã hội, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền để tạo sự đồng thuận, niềm tin trong xã hôi.
Trên đây là một số ý kiến của tôi, xin cảm ơn Quốc hội.

La Ngọc Thoáng - Cao Bằng
Kính thưa Quốc hội,
Về cơ bản tôi tán thành với Báo cáo thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Chính phủ trình Quốc hội về các chỉ tiêu phần lớn đạt được kế hoạch đề ra. Tuy nhiên tôi vô cùng lo lắng trước những tồn tại trong điều hành nền kinh tế mà Báo cáo của Chính phủ chưa phân tích sâu, chưa cụ thể. Tôi xin tập trung đi sâu góp ý một số vấn đề như sau.
Thứ nhất, CPI có xu hướng tăng trở lại, tổng dư nợ tăng thấp so với chỉ tiêu đề ra và chênh lệch lớn so với tốc độ huy động vốn. Việc quyết liệt thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ đã giúp kiềm hãm tốc độ lạm phát xuống 1 con số, tuy nhiên khi bắt đầu có dấu hiệu thả lỏng như hạ thấp lãi suất vay vốn, kéo lãi suất tối đa đến 15%, cùng với thực hiện các biện pháp giảm thuế, hỗ trợ thuế thì lập tức CPI có xu hướng tăng trở lại. Đáng ngạc nhiên khi thực hiện biện pháp kích cầu do tình trạng suy thoái nặng nề thì tình trạng lạm phát ở nước ta lại theo xu hướng tăng, ngược với xu thế của thế giới là giảm phát. Các chuyên gia đã cảnh báo một số doanh nghiệp có xu hướng nhận được hỗ trợ để thực hiện đảo nợ vào đầu tư sản xuất.
Hai, về nợ xấu hệ thống ngân  hàng chậm được giải quyết. Tình trạng tín dụng đen, giá vàng tăng đột biến, tình trạng lợi dụng quy định về tạm nhập, tái xuất, buôn lậu, tình trạng vi phạm pháp luật về hình sự trong ngân hàng đã khiến người dân lo lắng. Những thông tin thiếu minh bạch, thiếu độ tin cậy về nợ xấu ngân hàng làm cho chúng ta đáng phải suy nghĩ. Các tổ chức ngân hàng báo cáo là 4%, trong khi đó tại kỳ họp thứ 3 ngân hàng Nhà nước lại nói 10%, hiện nay Báo cáo của ngân hàng Nhà nước là 8,6%, nhiều chuyên gia đã nhận định đây là vấn đề tắc nghẽn dòng lưu thông tín dụng cho nền kinh tế phát triển cần được giải quyết kịp thời, các giải pháp và chính sách đưa ra thời gian qua đã phát huy được tác dụng để khơi thông tắc nghẽn này. Việc khơi thông dòng tín dụng là cấp bách để giải cứu doanh nghiệp, giải cứu nền kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước là đầu tàu kéo nền kinh tế đi lên và phát triển, nhưng ngân hàng Nhà nước cũng chưa đủ tin cậy và những giải pháp mình đưa ra khi trả lời chất vấn Chủ tịch Quốc hội tại phiên họp gần đây. Câu hỏi mong muốn Chủ tịch Quốc hội về khả năng đẩy lùi nợ xấu vào cuối năm 2012 hay giữa năm 2013 thì ngân hàng Nhà nước trả lời từ giờ đến cuối nhiệm kỳ nợ xấu ngân hàng sẽ đưa về chuẩn quốc tế.
Mặc dù lãi suất ngân hàng đã giảm liên tục, khoảng 12-15% cho năm 2012, thanh khoản dồi dào, nhưng doanh nghiệp không tiếp cận được vốn, chủ yếu do nợ xấu, trong tổng dự nợ tiền gửi của các tổ chức tín dụng tăng 12,7%, báo cáo Chính phủ cũng quyết tâm giải quyết nợ xấu ngân hàng trong nhiệm vụ từ giờ đến hết năm 2012 và năm 2013, nhưng Báo cáo cũng không đưa ra được giải pháp cụ thể có tính khả thi nào. Theo tôi, các ngân hàng cần phải có trách nhiệm chia sẻ với các doanh nghiệp trong giải quyết tình trạng nợ xấu này bằng các hình thức khoanh nợ, giãn nợ kể cả các giải pháp hữu hiệu khác hơn. Khi các doanh nghiệp ăn nên làm ra chính các doanh nghiệp là người nuôi ngân hàng và nuôi sống nền kinh tế, nếu các doanh nghiệp phá sản thì ngân hàng không những không thu hồi được vốn mà còn liên quan đến nhiều hệ lụy khác. Về thị trường vàng nhiều đại biểu phát biểu nhưng chúng tôi xin đi sâu phân tích thêm.
Diễn biến thị trường vàng trong nước vừa qua chúng ta không phải lo ngại, các chính sách đưa ra dường như không đạt được kết quả như mong muốn nếu không nói là thất bại. Thị trường vàng không được ổn định, giá cả lên xuống bất thường, giá vàng trong nước đã không được khơi thông với thị trường và quốc tế. Giá vàng trong nước luôn cao hơn giá vàng thế giới trên 3 triệu đồng. Đặc biệt quyết định sử dụng vàng SJC làm thương hiệu độc quyền đã tạo ra khoảng cách giữa vàng miếng SJC và các thương hiệu vàng khác trong nước từ vài trăm đến 2 triệu đồng một lượng, gây thiệt hại to lớn cho người dân và các doanh nghiệp kinh doanh vàng.
Khi sở hữu vàng miếng cùng có chất lượng giống nhau nhưng thương hiệu khác nhau thì chỉ một quyết định của nhà nước người dân đã mất đi một số tiền không nhỏ. Vậy, mỗi chính sách ban hành cần phải đảm bảo không để thiệt hại cho người dân. Tại sao ngân hàng nhà nước không đặt ra khoảng thời hạn từ 6 tháng đến 1 năm chuyển đổi tất cả các vàng thương hiệu khác sang vàng SJC bằng cách mua lại của người dân theo giá vàng SJC trên thị trường có tính đầy đủ tất cả các loại phí chuyển đổi cần thiết. Làm được như vậy trước tiên quyền lợi của người dân được bảo vệ sẽ không tạo lên sự khan hiếm vàng nói chung và vàng miếng SJC nói riêng như hiện nay, không đẩy giá vàng SJC lên cao, tạo sự ổn định của thị trường vàng, đặc biệt không có khả năng xuất hiện vàng SJC giả như hiện nay.
Có người so sánh rằng với lượng vàng thương hiệu SJC tổ chức có thẩm quyền chỉ cần bỏ ra 50.000 đồng để dập lại vàng thương hiệu SJC thì đã tạo khoảng lợi nhuận từ 1 - 2 triệu đồng. Đây thực sự là một câu hỏi mà người dân cần câu trả lời từ ngân hàng nhà nước. Trên cơ sở phân tích các vấn đề như trên tôi xin có một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, về tài chính tiền tệ Chính phủ cần chỉ đạo giám sát chặt chẽ công tác quản lý vàng, thận trọng và cân nhắc kỹ khi ban hành chính sách để tránh làm thiệt hại đến lợi ích của người dân. Đẩy mạnh việc tái cơ cấu hệ thống tín dụng gắn với giải quyết nợ xấu buộc phải thúc đẩy chính sách giảm hàng tồn kho, chấm dứt việc sở hữu chéo. Đồng thời với việc minh bạch hóa các thông tin liên quan tới thị trường tín dụng, kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức tín dụng không thực hiện đúng hoặc lách luật, trái với các quy định của Ngân hàng Nhà nước. Nhân đây tôi cũng đề nghị Chính phủ chỉ đạo việc quản lý chặt chẽ các hình thức cầm đồ, thế chấp, cho vay dân sự, vì các quy định này đang bị những kẻ lợi dụng thực hiện cho vay nặng lãi, tín dụng đen.
Thứ hai, khẩn trương thực hiện các nội dung đã thông qua tại kỳ họp thứ hai hoặc thứ ba của Quốc hội khóa XIII. Khẩn trương xây dựng, ban hành đề án tái cơ cấu nền kinh tế, làm cơ sở cho việc tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, tạo sự phát triển cho nền kinh tế, tránh sa vào bẫy thu nhập trung bình. Tăng tỷ trọng TFP trong GDP, tăng cường hơn nữa việc sử dụng nguồn vốn, nguồn lực lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nghiêm túc thực hiện các kiến nghị của Quốc hội về giải quyết kết quả giám sát về chương trình đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn, có biện pháp thu hút đầu tư, đặc biệt là vốn FDI cho khu vực nông nghiệp, mở rộng sản xuất, xuất khẩu cho sản xuất nông nghiệp, tăng dần hàm lượng trí thức trong sản phẩm nông nghiệp để tăng khả năng cạnh tranh cho tam nông.
Thứ ba, thực hiện việc tăng lương trong năm 2013 phải đúng kỳ hạn, đúng lộ trình cải cách tiền lương, không vì lý do khó khăn như hiện nay mà Nhà nước không tăng lương để đảm bảo an sinh xã hội, cắt giảm các chi tiêu khác chứ không thể không tăng lương. Tôi xin hết, xin cảm ơn Quốc hội.

(Quốc hội nghỉ)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét