Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

(2) Quốc hội thảo luận kinh tế-xã hội năm 2012 và 2013

Quốc hội thảo luận kinh tế-xã hội năm 2012 và 2013
BẢN TỔNG HỢP THẢO LUẬN TẠI HỘI TRƯỜNG
  (Ghi theo băng ghi âm)
 Buổi chiều ngày 30/10/2012
Nội dung:
Tiếp tục thảo luận ở hội trường về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội năm 2012, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2013.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng chủ trì
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân chủ trì điều khiển nội dung
  
Nguyễn Thị Kim Ngân - Phó chủ tịch Quốc hội
Kính thưa Quốc hội.
Chiều nay còn danh sách đăng ký 57 đại biểu và như đã thông báo buổi sáng trong quá trình thảo luận những vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm liên quan tới chức năng quản lý nhà nước của các bộ. Chúng tôi sẽ mời các vị Bộ trưởng trả lời giải đáp cho đại biểu Quốc hội để có không khí thảo luận trao đi, đổi lại. Nếu như chỉ có để đại biểu Quốc hội phát biểu chỉ đại biểu Quốc hội nói cho nhau nghe thì cũng không hay. Do đó sẽ xen kẽ cho các thành viên Chính phủ cùng phát biểu và rất mong đại biểu Quốc hội trên cơ sở báo cáo của Chính phủ. Phân tích tình hình những mặt được và mặt chưa được, những khó khăn tồn tại về kinh tế - xã hội của 2012.
Đề nghị đại biểu Quốc hội tập trung thảo luận và đề xuất những giải pháp cho những tháng còn lại cuối năm. Đặc biệt thảo luận về mục tiêu tổng quát về những chỉ tiêu cơ bản về kinh tế - xã hội, Quốc hội cần phải thảo luận để biểu quyết thông qua sau kỳ họp này. Do đó rất mong đại biểu Quốc hội tập trung cho những vấn đề giải pháp và đặc biệt cho 2013.
Sau đây xin mời đại biểu Lưu Thành Công - tỉnh Vĩnh Long phát biểu.


Lưu Thành Công - Vĩnh Long
Kính thưa Chủ Tọa kỳ họp.
Kính thưa Quốc hội.
Thời gian qua cử tri cả nước đánh giá rất cao vai trò của Chính phủ trong điều hành kinh tế vĩ mô. Tôi rất tán thành với báo cáo tình hình kinh tế, xã hội năm 2012 và mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 mà Chính phủ đã trình Quốc hội trong Kỳ họp lần thứ 4 này.
Năm 2013 dự báo về tình hình kinh tế - xã hội nước ta cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, nền kinh tế diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2013, tôi kiến nghị Chính phủ cần quan tâm các vấn đề sau.
Thứ nhất, ổn định sản xuất nông nghiệp phát triển nông thôn. Trong Báo cáo trình Quốc hội kỳ này Chính phủ vẫn khẳng định sản xuất nông nghiệp là ngành quan trọng đóng góp lớn cho thu nhập quốc dân, đảm bảo an ninh lương thực. Vì vậy, tôi đề nghị Chính phủ tiếp tục thực hiện chương trình đầu tư nông nghiệp, nông dân, nông thôn bằng nhiều hình thức mới. Tại kỳ họp lần thứ 3 Quốc hội có báo cáo giám sát đánh giá việc đầu tư trong lĩnh vực này, kinh phí đầu tư khác lớn nhưng hiệu quả chưa như mong muốn, nông dân hưởng lợi từ chương trình này chưa nhiều. Tôi đề nghị Chính phủ giao kinh phí này cho các địa phương trực tiếp đầu tư cho nông dân không thông qua các doanh nghiệp, tôi nghĩ như vậy hiệu quả sẽ cao hơn.
Thời gian qua việc đầu tư lĩnh vực này người hưởng lợi nhiều nhất là doanh nghiệp chứ không phải nông dân. Tôi đề nghị Chính phủ có giải pháp hỗ trợ ngay cho ngành chăn nuôi thủy sản ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trong đó có các doanh nghiệp nuôi cá tra, giá cá tra thành phẩm hiện nay từ 24 - 25 nghìn đồng nhưng giá thành thu mua của các doanh nghiệp chỉ 20 nghìn đồng. Nhiều doanh nghiệp thua lỗ, phá sản phải treo ao chuyển sang nghề khác. Để duy trì phát triển ngành chăn nuôi thủy sản, một ngành truyền thống của vùng sông nước Nam bộ, một ngành đóng góp kim ngạch xuất khẩu lớn. Tôi đề nghị Chính phủ phải có giải pháp tích cực trong đó vốn đầu ra.
Mặt khác, đồng thời tiến hành ngay nếu không ngành này sẽ bị mai một, các ao, bè sẽ chuyển sang mục đích sử dụng khác rất khó khăn cho phục hồi. Việt Nam sẽ mất đi một nguồn hàng xuất khẩu chủ lực có tiếng trên thế giới. Tôi thấy đã đến lúc Chính phủ cần phải quan tâm nhiều hơn cho nông dân trong việc hỗ trợ vốn, hỗ trợ giá, đảm bảo đầu ra cho hàng nông sản, vì nông dân hiện nay là lực lượng đông, ngành sản xuất của họ rất thiết thực, đảm bảo đời sống hàng ngày cho mọi người, nhưng họ ít được quan tâm hỗ trợ, họ là những người vất vả nhất nhưng lại là những người nghèo nhất và thiệt thòi nhất. Mục tiêu xây dựng cho nông thôn mới là nhằm đem lại những quyền, vật chất tinh thần cho nông dân nông thôn, các tiêu chí xây dựng nông thôn mới hiện nay của chúng ta rất tích cực.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số tiêu chí chưa phù hợp với thực tiễn ở các địa phương. Đề nghị Chính phủ sớm sửa đổi các tiêu chí này để các địa phương thực hiện cho dễ. Liên quan đến vấn đề này tôi đề nghị Chính phủ  cũng cần phải có một nguồn kinh phí dành cho chương trình xây dựng nông thôn mới. Vì kinh phí xây dựng nông thôn mới hiện nay quá lớn các địa phương không thể gánh nổi chương trình này. Hiện nay hàng tồn kho của chúng ta nhiều, những mặt hàng có thể phục vụ cho xây dựng nông thôn mới, Chính phủ nên có chủ trương cho các địa phương, các doanh nghiệp được quyền mua bán trả chậm như vậy chúng ta sẽ giải quyết được cùng một lúc hai mục tiêu vừa giải quyết hàng tồn kho vừa đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới.
Về vấn đề giao thông cử tri Vĩnh Long rất cám ơn Bộ Giao thông vận tải, các bộ, ngành trung ương trong kỳ họp lần thứ hai Đoàn đại biểu Vĩnh Long đã có ý kiến về thực trạng các công trình bức xúc liên quan đến Quốc lộ 54 có cầu Vĩnh Xuân, Quốc lộ 53 có cầu Gầm. Tiếp thu ý kiến của cử tri các bộ, ngành trung ương đã tích cực thực hiện các công trình này, hiện nay các công trình này đã được bố trí vốn và đang tiến hành các thủ tục để thi công. Tuy nhiên hạ tầng giao thông của các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay đang xuống cấp rất trầm trọng, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của người dân, các tuyến Quốc lộ 1A, Quốc lộ 53, Quốc lộ 54, Quốc lộ 57 hiện nay rất cần sự đầu tư nâng cấp của Bộ Giao thông vận tải.
Riêng Vĩnh Long có Tỉnh lộ 907 bộ đã có chủ trương hỗ trợ vốn nhưng tuyến đường này đã làm hơn 10 năm rồi nhưng chưa xong, gây khó khăn cho đời sống người dân, đề nghị bộ xem xét bố trí nguồn vốn để tỉnh thực hiện dứt điểm tuyến đường này.
Vấn đề thứ ba, về an sinh xã hội đề nghị Bộ Y tế có chủ trương đầu tư dứt điểm bệnh viện tuyến huyện tạo điều kiện chăm sóc tốt sức khỏe của nhân dân tại cơ sở để giảm áp lực cho các bệnh viện tỉnh và trung ương. Bộ Y tế cần chỉ đạo cho các địa phương làm thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi chỉ cần làm 1 lần tại các bệnh viện khi các em chào đời, sử dụng luôn cho đến khi các em hết tuổi hỗ trợ bảo hiểm y tế. Vì hiện nay việc điều trị bệnh cho các em phải sử dụng khai sinh, giấy chứng sinh rất khó khăn cho người bệnh cũng như cho người điều trị.
Việc đồng chi trả bảo hiểm 20% hiện nay Bộ Y tế cũng cần xem xét lại vì trong điều kiện đời sống của người dân gặp nhiều khó khăn mà phải thực hiện đồng chi trả như vậy là rất lớn đối với bệnh nặng và người nghèo.
Về lộ trình tăng lương cho cán bộ, công chức. Theo báo cáo của Bộ trưởng Bộ Tài chính và thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội thì nguồn thu năm 2013 của chúng ta rất khó khăn, khó có thể thực hiện được lộ trình tăng lương. Đội ngũ công chức rất kỳ vọng vào Chính phủ ở việc này. Đời sống của những người hưởng lương hiện nay hết sức khó khăn. Mức  lương tối thiểu hiện nay mới chỉ đáp ứng được 63% đối với đời sống của người lao động trong các doanh nghiệp và 50% trong khu vực hành chính làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng công việc cũng như hình ảnh của người công chức Việt Nam. Tôi đề nghị Chính phủ cần cân nhắc vấn đề này để làm sao chúng ta thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên cắt giảm đầu tư công với những công trình chưa bức xúc, tìm các nguồn thu khác để có thể tăng lương theo lộ trình đã dự kiến. Nếu trường hợp kinh tế diễn biến khó khăn không thể cân đối được nguồn thu thì chúng tôi đề nghị Chính phủ có chính sách hỗ trợ cho những người có thu nhập thấp, để các đối tượng này có đủ điều kiện trang trải cuộc sống và an tâm công tác.
Xin cảm ơn Quốc hội.

Y Mửi - Kon Tum
Kính thưa đoàn Chủ tịch.
Kính thưa Quốc hội.
Tại kỳ họp này, chúng tôi thống nhất cao với Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 và nhiệm vụ năm 2013. Chúng tôi xin tham gia 3 ý kiến sau.
Năm 2012 tuy có nhiều khó khăn thách thức, nhưng chính phủ đã lãnh đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đã bám sát mục tiêu nhiệm vụ đề ra trong các nghị quyết của Đảng và Quốc hội. Mặc dù một số chỉ tiêu chưa đạt như kế hoạch đề ra, nhưng điều mà cử tri cả nước ghi nhận và đánh giá cao là kinh tế và đời sống của nhân dân ổn định, không xảy ra những biến động xã hội, tác động xấu đến chính trị, xã hội của đất nước, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Báo cáo của Chính phủ đã nhìn nhận và đánh giá khá đầy đủ toàn diện những hạn chế, yếu kém đó từ việc ổn định kinh tế vĩ mô, quản lý tài nguyên môi trường, trật tự an toàn xã hội. Điều đáng lưu ý là nhận định, cải cách hành chính còn nhiều hạn chế. Vậy, tại sao việc cải cách hành chính đã và đang được tích cực triển khai hơn một thập kỷ nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, vẫn rườm rà, chậm được sửa đổi. Đây là điều kiện thuận lợi cho một số cán bộ, công chức nhũng nhiễu. Đề nghị Chính phủ đánh giá phân tích thấu đáo nguyên nhân rào cản nào cản trở quá trình thực nghiệm cải cách hành chính trong thời gian qua.
Trong Báo cáo đánh giá nợ xấu là một trong những nguyên nhân cản trở đến sự phát triển của nền kinh tế thì thủ tục hành chính rườm rà, cán bộ công chức nhũng nhiễu  cũng là một trong những lực cản trở không nhỏ đến quá trình phát triển mà hệ lụy của nó không chỉ trong kinh tế mà còn trong các lĩnh vực khác như nghiên cứu khoa học, giáo dục y tế v.v... Trong nguyên nhân của các nguyên nhân của sự chưa đáp ứng yêu cầu trong cải cách hành chính cần lưu ý đến một vấn đề trong Báo cáo có nêu tồn tại nhiều năm nay, đó là tình trạng xin, cho vẫn còn đang tồn tại nơi này, nơi khác, mức độ này, mức độ khác trong quản lý và điều hành hiện nay. Chúng ta đều biết để có nguồn vốn dự án và một số việc khác thì các địa phương, đơn vị phải đề đạt mong muốn và có một số hoạt động sao cho đáp ứng yêu cầu của cơ quan quản lý cấp trên, sự đề đạt vào hoạt động đó thường được diễn ra một cách minh bạch, theo quy định của pháp luật, nhưng cũng có lúc, có nơi chưa được thực sự quan tâm đúng mức của các bộ, ngành Trung ương. Trong các giải pháp phát triển kinh tế-xã hội năm 2013 để thực hiện tốt giải pháp đã được nêu cần có nhiều hoạt động tích cực và đồng bộ, trong đó có kế hoạch hóa rõ ràng, việc cấp vốn và dự án. Tôi đề nghị theo hướng Chính phủ phải nắm chắc thực trạng khó khăn và sự cần thiết tập trung tháo gỡ điểm nghẽn cho sự phát triển kinh tế-xã hội gắn an ninh quốc phòng của các địa phương biên giới, đơn vị cần có kế hoạch cụ thể cho từng địa phương, đơn vị trong 1 năm, 5 năm số vốn dự án. Trên cơ sở kế hoạch đó các bộ, ngành phân bổ đúng tiến độ cho các địa phương, đơn vị. Qua đó Chính phủ sẽ xác định rõ hơn, cụ thể hơn trách nhiệm của bộ, ngành khi trậm trễ hay gây khó khăn cho địa phương, đơn vị và địa phương, đơn vị nào sử dụng kém hiệu quả dự án nguồn vốn đó.
Thứ hai, thực tế hiện nay cho thấy cơ sở hạ tầng của các tỉnh Tây Nguyên nhất là vấn đề giao thông hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu phát huy tiềm năng to lớn để Tây Nguyên trở thành vùng động lực phát triển của cả nước và Kon Tum trở thành động lực quan trọng của khu vực Bắc Tây Nguyên. Mặt khác, bên cạnh vấn đề về chế độ của cán bộ chuyên trách hay bán chuyên trách cấp xã đã được các đại biểu quan tâm, bàn nhiều trong thời gian qua, nhưng cán bộ vừa thiếu, vừa yếu, không ngang tầm nhiệm vụ, góp phần tạo sự trì trệ của hệ thống chính trị cơ sở. Một trong những vấn đề khó khăn khác trong điều kiện thực hiện nhiệm vụ chương trình cơ sở, đó là sự xuống cấp của trụ sở làm việc cấp xã và sự thiếu thốn trang thiết bị phục vụ cho công tác cán bộ công chức không đảm bảo, trong khi nguồn lực cân đối của địa phương hạn chế. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến công tác tại cơ sở. Có những trụ sở xây dựng từ thập niên 80, 90 đến nay vẫn chưa được bố trí kinh phí để đầu tư. Trong khi đó việc phân bổ ngân sách Trung ương cho địa phương năm sau như năm 2011-2012 thì năm 2012 thấp hơn năm 2011, trong năm 2013 tới có hướng thấp hơn 2012.
Trong khi biến động giá cả và địa bàn khó khăn dẫn đến tổng mức đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tăng cao. Vì vậy, cử tri kiến nghị Chính phủ và các bộ, ngành liên quan sớm cụ thể hóa quy hoạch đồng thời phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên đến năm 2020 trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, nhất là trong năm 2013, thời điểm đã gần hết kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015. Bên cạnh những danh mục quan trọng như đường Hồ Chí Minh đoạn trùng Quốc lộ 14, cử tri tỉnh Kon Tum thiết tha đề nghị Chính phủ và các bộ, ngành cần quan tâm ưu tiên bố trí vốn Quốc lộ 14C, đường Quốc lộ 24 và các đường hiện đang thực hiện dở dang như tuyến đường Ngọc Hoàng -  Măng Bút - Ngọc Linh để có thể góp phần sớm đạt được mục tiêu xây dựng cơ sở hạ tầng của các tỉnh Tây Nguyên nói chung và Kon Tum nói riêng đạt mức trung bình so với cả nước, tạo tiền đề góp phần phát huy các nguồn lực vốn có của địa phương.
Thứ ba, giải quyết các tồn đọng trong quá trình xây dựng các công trình thủy điện Yaly, Pleikrông. Thực tế cho thấy một số công trình thủy điện tại các tỉnh Tây Nguyên, miền Trung nói chung, Kon Tum nói riêng đã để lại vấn đề tồn đọng hậu quả kéo dài quá lâu gây bức xúc trong nhân dân như vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng, vấn đề thiếu đất sản xuất, tái định cư và vấn đề việc làm ổn định cuộc sống của người dân tái định cư. Mặc dù chính quyền các cấp và cơ quan chức năng đã có nhiều biện pháp tháo gỡ nhưng đến nay vấn đề này qua quá trình tiếp xúc cử tri vẫn còn là thời sự nóng, cần có giải pháp thực sự tích cực để góp phần quan trọng trong việc ổn định trật tự an ninh nông thôn và an sinh xã hội. Tôi đề nghị đối với các công trình thủy điện đã hoàn thành đi vào hoạt động, các bộ, ngành chức năng cần tiếp tục phối hợp với chính quyền địa phương để giải quyết dứt điểm những vấn đề còn tồn tại trong công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
Đối với các công trình đang triển khai, chủ đầu tư cần tích cực phối hợp chặt chẽ hơn nữa với địa phương để sớm hoàn thành công tác bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng tái định cư cho nhân dân. Sau khi hoàn thành các công tác này mới được thực hiện ngăn dòng tích nước lòng hồ để đảm bảo quyền lợi cho nhân dân, hiện nay ở tỉnh chúng tôi như thủy điện Đakđrinh đang triển khai và đang chuẩn bị tích nước. Đồng thời cần nghiên cứu xây dựng hoàn thiện chính sách tái định cư cho phù hợp với từng địa phương. Tôi xin hết ý kiến, xin cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Thị Thanh - Ninh Bình
Kính thưa Quốc hội,
Cũng như nhiều đại biểu tôi cơ bản đồng tình với Báo cáo của Chính phủ và các Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Về các vấn đề xã hội.
Trước hết về tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2012 chúng tôi nhận thức sâu sắc rằng kinh tế thế giới đang ở giai đoạn trầm kha và ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế trong nước, song dưới sự lãnh đạo của trung ương Đảng, sự giám sát của Quốc hội, sự cố gắng và chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự nỗ lực của doanh nghiệp và nhân dân cả nước kinh tế xã hội đã đạt được một số kết quả, đã hoàn thành 10/15 chỉ tiêu so với kế hoạch, từ đó làm cơ sở để hoàn thành các mục tiêu Quốc hội đề ra như lạm phát được kiềm chế ở mức một con số, tốc độ tăng trưởng cả năm ước đạt 5,2%. Kinh tế vĩ mô được đảm bảo, an ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững.
Đặc biệt chúng tôi đánh giá cao trách nhiệm của Chính phủ trong điều kiện kinh tế khó khăn như vậy nhưng mục tiêu về an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo, nhất là khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, các chế độ chính sách đối với người có công và công tác xóa đói giảm nghèo được chỉ đạo thực hiện với nhiều quy định cụ thể.
Tuy nhiên tôi băn khoăn về 5 chỉ tiêu không đạt lại là những chỉ tiêu rất quan trọng, nó thể hiện sức khỏe của nền kinh tế, nhưng báo cáo chưa phân tích rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan để rút kinh nghiệm điều hành cho năm sau. Do vậy, đề nghị Chính phủ cần làm rõ nguyên nhân chủ quan vào báo cáo bổ sung tình hình kinh tế - xã hội tại kỳ họp tới.
Về phương hướng nhiệm vụ năm 2013, theo dự báo kinh tế thế giới cũng như nước ta còn nhiều khó khăn, tiềm ẩn nhiều rủi ro, Chính phủ đã đưa ra các chỉ tiêu và 9 nhóm giải pháp, tôi cơ bản đồng tình. Tuy nhiên một số giải pháp cần cụ thể rõ ràng hơn về hướng đi và biện pháp hành động, tôi đề nghị Chính phủ quan tâm:
Một là chúng tôi đồng tình và phấn khởi vì Quốc hội, Chính phủ đã có chủ trương nâng mức đầu tư công cho nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới vì đây là đối tượng địa bàn chiến lược, là chỗ dựa an toàn cho tình hình kinh tế suy giảm và chính sách an sinh xã hội. Tuy nhiên từ kinh nghiệm đầu tư về nông nghiệp trong thời gian vừa qua Chính phủ cần nghiên cứu cách thức nội dung mức đầu tư để sử dụng kinh phí đầu tư cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn thực sự có hiệu quả và quan tâm đến một số vấn đề, quản lý chặt chẽ giá cả đầu vào đối với vật tư nông nghiệp. Quan tâm đến khâu chế biến, tiêu thụ nông sản để người nông dân không rơi vào tình trạng càng tích cực sản xuất càng khó khăn vất vả và chật vật trong mưu sinh. Có chính sách khôi phục và phát triển bền vững ngành chăn nuôi để chủ động nguồn thực phẩm trong nước và tăng cường xuất khẩu.
Sửa đổi chính sách thủ tục tín dụng vốn vay ưu đãi để nông dân dễ dàng tiếp cận vốn đầu tư cho cơ giới hóa nông nghiệp và khoa học kỹ thuật để sản xuất hàng hóa, cánh đồng mẫu lớn, khắc phục tình trạng thiếu lao động ở nông thôn hiện nay. Tiếp tục đầu tư có địa chỉ để hoàn thiện hệ thống giao thông nông thôn và thủy lợi nội đồng.
Hai là tập trung giải quyết hàng tồn kho, trong đó cần thực hiện tốt chủ trương người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, thời gian qua chủ trương này mới chỉ mang tính khẩu hiệu, trong khi khu vực nông thôn nhu cầu về hàng hóa chất lượng rất lớn, nhưng hệ thống phân phối đến người nông dân chưa được quan tâm đúng mức, như kinh nghiệm ở các tỉnh để giải quyết hàng tồn kho như xi măng, địa phương đã chủ động hỗ trợ và ứng trước kế hoạch năm 2013 cho nông dân để xây dựng đường giao thông nông thôn, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và mới đây giữa Bộ Xây dựng và Bộ Giao thông vận tải cũng đã có thỏa thuận hợp tác để tiêu thụ vật liệu xây dựng trong nước để phục vụ cho xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông. Vì vậy, tôi đề nghị Chính phủ có biện pháp cụ thể để xúc tiến thương mại, phát triển thị trường trong nước, đặc biệt quan tâm đến thị trường nông thôn để đưa hàng hóa chất lượng giá tốt về khu vực này, nhân rộng việc phối hợp giữa các bộ, ngành trong vấn đề xử lý hàng tồn kho.
Ba là những hạn chế bất cập của việc triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia đến nay vẫn chưa được khắc phục, nhiều chương trình mục tiêu quốc gia năm 2012 đến nay mới được triển khai.
Đề nghị Quốc hội, Chính phủ rà soát, đánh giá lại 16 chương trình mục tiêu quốc gia và mạnh dạn cắt bỏ những dự án chưa thật cần thiết, nhất là những dự án khâu trung gian trùng lặp với kinh phí thường xuyên gây lãng phí và tập trung vào các chương trình mục tiêu đầu tư trực tiếp cho cơ sở đến đối tượng ưu tiên và mục tiêu ưu tiên. Nên cân nhắc việc kéo dài chương trình mục tiêu quốc gia năm 2012 đến tháng 3 năm 2013, tránh tâm lý cuối năm tìm cách giải ngân để hoàn thành kế hoạch dẫn đến lãng phí không hiệu quả và dành kinh phí trên cũng như các nguồn kinh phí khác để tăng lương theo lộ trình vào tháng 5 năm 2013 cho đối tượng người có công và cán bộ hưu trí.
Bốn, về nhóm giải pháp thứ chín đối với công tác thông tin tuyên truyền, thời gian qua lợi dụng những bất cập trong công tác quản lý Nhà nước về ngân hàng, về doanh nghiệp Nhà nước, các tập đoàn kinh tế, việc triển khai nghị quyết Trung ương 4, các thế lực thù địch đưa tin sai sự thật gây hoang mang lo lắng trong nhân dân, những tin xấu không đúng sự thật diễn biến và lan truyền dẫn đến lòng tin nhân dân giảm sút, thờ ơ, thiếu trách nhiệm đối với các hiện tượng tiêu cực, chỉ thấy mặt trái mà không nhận thấy mặt tích cực, vì vậy Chính phủ cần có biện pháp quản lý hiệu quả hơn, chặt chẽ hơn công tác thông tin tuyên truyền, nhất là thông tin trên mạng internet, tăng cường các thông tin định hướng như tăng thời lượng, chất lượng chương trình dân hỏi Bộ trưởng trả lời, tuyên truyền các sự kiện quan trọng trong nước và quốc tế, những giải pháp của Chính phủ điều hành kinh tế-xã hội, phòng, chống tham nhũng, tội phạm vi phạm pháp luật, trật tự an toàn xã hội, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và xử lý nghiêm minh đối với những đối tượng bịa đặt thất thiệt gây hoang mang làm mất lòng tin trong nhân dân.
Năm là về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, mặc dù Luật An toàn thực phẩm đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2011 đến nay đã được hơn 1 năm nhưng tình trạng mất vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn diễn ra phổ biến. Việc lạm dụng hóa chất trong sản xuất, chế biến bảo quản nhập khẩu thức ăn, thực phẩm chất lượng kém độc hại xảy ra thường xuyên là nỗi lo và bức xúc của nhân dân, mặc dù các cơ quan nhà nước đã tăng cường việc tuyên truyền kiểm soát quản lý nhưng tình trạng vi phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được đẩy lùi.
Vì vậy, đề nghị Chính phủ cần tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra đối với các cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm, kiểm soát chặt chẽ thực phẩm nhập khẩu, quản lý chặt chẽ hoạt động thông tin quảng cáo thực phẩm. Có biện pháp kịp thời phản hồi các thông tin sai lệch, không chính xác nhằm ổn định tâm lý người tiêu dùng, bảo vệ doanh nghiệp sản xuất thực phẩm an toàn, tăng cường việc đăng tải các thông tin về chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm. Đồng thời xử lý nghiêm minh đối với các tổ chức, cá nhân đưa thông tin quảng cáo không chính xác.
Đối với các cơ quan tư pháp cần tăng cường năng lực điều tra khởi tố các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, các tội phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm để bảo vệ đời sống cho nhân dân. Trên đây là một số ý kiến của tôi. Xin cảm ơn Quốc hội.

Hoàng Việt Phương - Tuyên Quang
Kính thưa Chủ tọa,
Kính thưa Quốc hội,
Trước tiên tôi nhất trí với Báo cáo về tình hình kinh tế xã hội năm 2012 và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2013 của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực đang gặp nhiều khó khăn, suy thoái kinh tế, lạm phát tăng cao, tăng trưởng thấp hơn so với dự báo. Chính phủ đã có nhiều cố gắng trong quản lý điều hành nền kinh tế, kiên trì các mục tiêu đã đề ra như kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, 10/15 chỉ tiêu kinh tế xã hội đạt và vượt kế hoạch giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Tuy nhiên, báo cáo của Chính phủ đã chưa phân tích sâu về những tồn tại, hạn chế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong thời gian qua và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó. Chưa phản ánh hết được mức độ khó khăn của đời sống xã hội và nền kinh tế của nước ta trong năm 2012 và những năm tiếp theo. 5 chỉ tiêu chưa đạt đều là những chỉ tiêu quan trọng. Tôi đề nghị cần bổ sung làm rõ và từ đó đề ra những giải pháp phù hợp để tháo gỡ các khó khăn.
Kính thưa Quốc hội.
Về nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, tôi cơ bản nhất trí với mục tiêu các chỉ tiêu chủ yếu và 9 nhóm giải pháp mà Chính phủ đã đề ra: ưu tiên kiềm chế  lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, gắn thực hiện tốt các mục tiêu an sinh xã hội và giải quyết hài hòa các vấn đề khó khăn trước mắt cũng như lâu dài, tôi xin có một số ý kiến sau.
Thứ nhất, về vấn đề giảm nghèo. Trong nhiều năm qua Đảng và Nhà nước đã có chủ trương, chính sách, hỗ trợ nhằm giảm nghèo và đã đạt được những kết quả nhất định. Đời sống của đồng bào nghèo đã từng bước được cải thiện. Nhiều hộ đã phấn đấu vươn lên thoát nghèo và làm giàu. Tuy nhiên, qua thực tế giám sát, chúng tôi thấy:
Một, hiện nay có rất nhiều tổ chức cùng tham gia vào lĩnh vực giảm nghèo như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Dân tộc, Ngân hàng Chính sách xã hội, các bộ, ban, ngành thông qua chương trình, mục tiêu, các tổ chức xã hội như nông dân, phụ nữ, Đoàn thanh niên, v.v, đã huy động được cả hệ thống chính trị tham gia vào công tác giảm nghèo.
Hai, mức độ hỗ trợ thì thấp và còn chồng chéo, chưa có sự phối hợp, lồng ghép giữa các chương trình, do đó, hiệu quả sử dụng đồng vốn không cao, chưa tác động tích cực trong việc xóa đói giảm nghèo, ví dụ như hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định 167 của Thủ tướng Chính phủ là từ 7 triệu đến 10 triệu đồng trên một hộ và vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 32 của Thủ tướng Chính phủ là 5 triệu đồng một hộ. Với mức hỗ trợ này thì người dân rất khó khăn để làm được nhà ở kiên cố hoặc bán kiên cố và vay vốn đầu tư phát triển sản xuất.
Ba, các chính sách quyết định hiện nay về hỗ trợ giảm nghèo nhiều nhưng chưa có sự thống nhất và chưa phù hợp với điều kiện thực tế, không khuyến khích thoát nghèo và thoát nghèo chưa thực sự bền vững, chưa có chính sách hỗ trợ cho người cận nghèo, nên người dân không muốn thoát nghèo. Tôi đề nghị.
Một, trong thời gian tới Chính phủ cần tiếp tục quan tâm đầu tư và thực hiện tốt các chính sách về hỗ trợ giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, tiếp tục hỗ trợ về đất ở, đất sản xuất, về làm nhà ở và vay vốn phát triển sản xuất theo Quyết định 167 và Quyết định số 32 của Thủ tướng Chính phủ, nâng mức hỗ trợ để phù hợp với tình hình giá cả thị trường hiện nay, đặc biệt quan tâm đến đồng bào ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo.
Hai, tập trung các nguồn lực vào một đầu mối, nên giao cho địa phương quản lý theo từng giai đoạn như phân bổ ngân sách có quy định cụ thể về tiêu chí, chỉ tiêu để địa phương chủ động thực hiện các nhiệm vụ của mình, phân bổ và quản lý nguồn vốn được tập trung, đầu tư vào những công trình thực sự cấp bách và cần thiết giúp cho việc phát triển kinh tế, an sinh xã hội của địa phương bảo đảm hiệu quả của đồng vốn đầu tư vào việc hỗ trợ giảm nghèo đem lại hiệu quả thiết thực, Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, kiểm tra giám sát việc thực hiện vừa hạn chế được cơ chế xin, cho, vừa giảm được những chi phí hành chính không cần thiết. Về ý kiến này, tôi đồng tình với đại biểu Thanh của tỉnh Bắc Kạn đã phát biểu trước tôi.
Ba là về xem xét sửa đổi lại các quy định về hỗ trợ giảm nghèo, chính sách cần hướng tới, khuyến khích người dân tích cực phát triển sản xuất để thoát nghèo và có chính sách hỗ trợ cận nghèo, quy định như hiện nay thì không hợp lý, bởi vì người dân không muốn thoát nghèo để được hưởng các chính sách quy định của Nhà nước.
Thực hiện quyết liệt về cải cách hành chính, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong điều hành quản lý xã hội, đặc biệt trong quản lý kinh tế. Trong những năm qua Chính phủ đã có nhiều cố gắng trong cải cách hành chính, đã đạt được một số kết quả nhất định như ban hành thủ tục hành chính, cơ chế một cửa v.v... Nhưng nhìn chung, cải cách hành chính mới chỉ tập trung vào lĩnh vực cải cách thủ tục là chính mà chưa quan tâm đúng mức đến cải cách về bộ máy hành chính. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, bộ máy hành chính thì ngày càng phình ra và không tương xứng với chất lượng hiệu quả giải quyết công việc. Trong thời gian tới tôi đề nghị.
Một, tiếp tục thực hiện tốt việc cải cách hành chính, chú trọng đến cải cách bộ máy hành chính, rà soát điều chỉnh lại cơ cấu tổ chức biên chế của bộ máy quản lý hành chính nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu quả, hoàn thiện cơ chế quản lý cán bộ, công chức, xác định rõ trách nhiệm quyền hạn đối với từng cán bộ, công chức, viên chức về nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất chính trị, đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ đề ra.
Hai, nâng cao năng lực quản lý điều hành của bộ máy nhà nước, nhất là trong lĩnh vực quản lý kinh tế, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, trật tự xã hội để lấy lại lòng tin của người dân.
Ba, công khai minh bạch các thông tin và đơn giản hóa các thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và các doanh nghiệp, các nhà đầu tư yên tâm phát triển sản xuất.
Bốn, tăng cường tham gia của người dân trong việc xây dựng chính quyền, giám sát việc thực thi công vụ của công chức nhà nước, hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội để nâng cao năng lực và hiệu quả của bộ máy công quyền.
Năm, Chính phủ cần nghiên cứu cải cách tiền lương một cách hợp lý, có thang bảng lương riêng cho từng đối tượng cơ quan quản lý hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp, vì hiện nay mỗi ngành ngoài thang bảng lương chung có một chế độ đặc thù khác nhau không đảm bảo sự công bằng giữa các ngành, nghề và người hưởng lương từ ngân sách nhà nước chưa sống thực sự bằng bảng lương. Cần đảm bảo tăng lương theo lộ trình tính toán cân đối nguồn, tiết kiệm chi phí tăng cường quản lý đầu tư công, chống thất thoát lãng phí để bảo đảm việc tăng lương, giảm bớt khó khăn cho người làm công ăn lương và đây cũng là một trong những giải pháp kích cầu nhằm kích thích nhu cầu xã hội, giảm lượng hàng hóa tồn kho cho các doanh nghiệp hiện nay. Xin hết, xin cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Thị Hương Thảo - Hải Dương
Kính thưa Quốc hội,
Tôi nhất trí với đa số nội dung trong Báo cáo của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế. Tôi xin tham gia một vài ý kiến như sau:
Có thể nói rằng thời gian qua chúng ta đã chứng kiến một cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới tồi tệ nhất, cuộc khủng hoảng này đã gây tác động tiêu cực không chỉ đến quốc gia đang phát triển mà cả đến quốc gia đã phát triển. Nền kinh tế nước ta cũng không tránh khỏi ảnh hưởng xấu từ cuộc khủng hoảng này. Chính phủ đã phải rất nỗ lực để chèo lái con thuyền kinh tế đất nước. Trong bức tranh toàn cảnh của nền kinh tế vẫn còn những mảng màu tối, nhưng việc đưa chỉ số lạm phát đến mức một con số cùng với sự phát triển tích cực trên một số lĩnh vực cho phép chúng ta có thể tin tưởng ở một tương lai tốt đẹp hơn. Trong báo cáo của Chính phủ tôi quan tâm nhiều tới tỷ lệ thu gom chất thải vì những lý do sau:
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn đô thị hóa nhanh chóng và là một trong những quốc gia có mật độ dân số cao nhất trên thế giới. Quá trình tăng dân số kéo theo nhu cầu đảm bảo sự hài lòng trong cuộc sống như nhu cầu nhà ở, sinh hoạt, giáo dục, chăm sóc y tế và kết quả tất yếu là lượng chất thải tăng lên làm tăng sức ép với môi trường. Vì vậy, yêu cầu bức thiết hiện nay là ngoài việc ổn định kinh tế vĩ mô để có một nền kinh tế phát triển bền vững rất cần có sự bền vững về mặt sinh thái. Sức mạnh tổng hợp của hai yếu tố này sẽ đem lại những lợi ích lâu dài và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
Chúng ta thấy rất rõ những hệ lụy của việc đô thị hóa đối với môi trường đó là phát sinh một lượng khổng lồ chất thải công nghiệp thông thường và nguy hại, trong khi công tác thu gom và tái chế còn nhiều bất cập như hình thức thu gom chất thải chưa phân loại là chủ yếu và thường là thu gom sơ cấp và thứ cấp. Chương trình phân loại rác thải tại nguồn vẫn chưa được áp dụng và triển khai rộng rãi. Tuy tỷ lệ thu gom chất thải rắn đô thị tăng lên nhưng theo thống kê của Bộ Tài nguyên và môi trường vẫn còn khoảng từ 15 - 17% lượng chất thải rắn đô thị bị thải ra môi trường, chỉ có 8 - 12% chất thải rắn đô thị được tái chế.
Trong bản Báo cáo của Chính phủ có đề ra mục tiêu về chỉ tiêu thu gom chất thải rắn đô thị vào năm 2013 và tôi kiến nghị Chính phủ cần quan tâm tới các chỉ số thu gom chất thải tại nông thôn. Bởi mỗi ngày rác thải sinh hoạt phát sinh tại nông thôn xấp xỉ 6,6 triệu tấn/1 năm, lẫn trong đó có khoảng 240 tấn bao bì hóa chất bảo vệ thực vật là chất thải nguy hại.
Bên cạnh đó công nghệ tái chế rác thải tại các làng nghề phần lớn là thủ công, lạc hậu và hầu hết là thải ra môi trường. Vì thế hệ quả tất yếu là sẽ gây ra ô nhiễm môi trường ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe của nhân dân, làm gia tăng các loại bệnh tật và tăng tỷ lệ người mắc bệnh trong cộng động dân cư sống gần các bãi chôn lấp rác. Gây thiệt hại cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản tại các khu vực lân cận, từ đó gây ra một gánh nặng lớn cho nền kinh tế quốc dân.
Trong thời gian qua các bộ, ban, ngành và các cơ quan hữu quan đã triển khai nhiều biện pháp giải pháp nhằm ngăn chặn ô nhiễm môi trường do chất thải, tuy nhiên vẫn còn có những hạn chế. Nguyên nhân có thể kể tới như do công tác quản lý chất thải còn phân tái chồng chéo, các thể chế chính sách về quản lý chất thải và rác thải chưa được thực thi hiệu quả. Đặc biệt là năm 2012 là năm đầu tiên có chương trình mục tiêu quốc gia về môi trường làng nghề nông thôn nhưng đến nay vẫn chưa giải ngân được và rõ ràng đây là một vấn đề nóng nhưng triển khai vẫn nguội. Từ thực trạng trên tôi xin đề xuất một số giải pháp:
Thứ nhất, Chính phủ cần tăng cường đầu tư cho công tác thu gom vận chuyển và xử lý rác thải trong đó chú trọng hơn nữa tới việc giảm thiểu số lượng rác thải, chất thải thông qua sự hợp tác của người dân. Có thể nói thay đổi thói quen của cộng đồng không thể làm trong ngày một, ngày hai, nhưng cần phải thay đổi trong cách tuyên truyền, kiên trì tuyên truyền sâu rộng và tránh việc hô khẩu hiệu, lời lẽ sáo mòn, để người dân thấy được quyền lợi thiết thân của họ. Bắt đầu từ những việc làm đơn giản như tự phân loại rác tại nguồn và sử dụng nguyên liệu xanh. Qua quá trình cộng đồng sẽ bắt đầu tiếp nhận chọn lọc những hành vi tốt trong xã hội, thay vì mất tiền nộp phạt hay nghỉ làm để đi lao động công ích do phạm lỗi vứt rác không đúng nơi quy định. Hoặc việc không thể làm gương cho con cái, họ sẽ thấy được rõ ràng tác hại của ô nhiễm môi trường và cộng đồng sẽ tự ý thức và hình thành những thói quen tốt bảo vệ môi trường.
Ngoài ra có thể tăng cường các buổi ngoại khóa cho học sinh về chủ đề bảo vệ môi trường và tiếp tục tổ chức nhiều hơn nữa các sự kiện có sự tham gia tình nguyện của các nghệ sỹ nổi tiếng tuyên truyền bảo vệ môi trường, bởi họ là những người có sức ảnh hưởng lớn và lan tỏa trong cộng đồng.
Thứ hai, Chính phủ cần có chiến lược phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng tại tất cả các khâu của xử lý chất thải trước khi được thải ra môi trường. Đồng thời ban hành các cơ chế chính sách, giải pháp để đẩy mạnh hơn nữa công tác xã hội hóa quản lý chất thải, rác thải.
Thứ ba, bổ sung các chế tài mạnh mẽ hơn nữa, xử lý các sai phạm gây ô nhiễm môi trường.
Kính thưa Quốc hội, ngoài vấn đề về chất thải nói chung, tôi đặc biệt quan tâm tới vấn đề chất thải y tế. Từ thực trạng nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân tăng lên thì hệ quả tất yếu là lượng rác thải y tế ngày càng gia tăng. Theo nghiên cứu của Bộ Y tế, trên toàn quốc có tổng lượng chất thải rắn y tế từ 100 đến 140 tấn/1 ngày. Trong đó có 16 đến 30 tấn/1 ngày là rác thải rắn y tế nguy hại và có nguy cơ lây nhiễm mầm bệnh và hóa chất độc hại cho con người. Một số thành phố lớn đã có những lò đốt chất thải rắn y tế nguy hại nhưng tỷ lệ đốt chất thải rắn y tế phân tán và được vận hành tốt chỉ chiếm xấp xỉ 50% và thiếu kinh phí vận hành là yếu tố quan trọng để dẫn tới các lò đốt hoạt động phân tán, không hiệu quả.
Chính phủ đã phê duyệt các đề án tổng thể xử lý rác thải y tế giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm 2020 nhằm mục tiêu xử lý các yếu tố nguy hại đến sức khỏe và môi trường của chất thải phát sinh từ các cơ sở y tế để bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Với những thực trạng cấp bách nêu trên, tôi kiến nghị Chính phủ tăng cường đầu tư, đẩy nhanh tiến độ thực hiện đề án để công tác bảo vệ sức khỏe nhân dân ngày một tốt hơn.
Tôi xin hết ý kiến.
Xin cảm ơn Quốc hội.

Chu Sơn Hà - TP Hà Nội
Kính thưa Quốc hội.
Sau khi nghiên cứu Báo cáo toàn văn và Báo cáo do Thủ tướng Chính phủ trình trước Quốc hội, tôi cơ bản đồng tình với các báo cáo đã trình trước Quốc hội. Tuy nhiên, tôi nhận thấy trong mục tiêu tổng quát năm 2013 mà Thủ tướng Chính phủ trình còn thiếu cụm từ làm lành mạnh hóa so với mục tiêu tổng quát được ghi trong báo cáo toàn văn. Tôi cho rằng, mục tiêu tổng quát được ghi trong báo cáo toàn văn mới thể hiện một cách đầy đủ. Sau đây, tôi xin tham gia một số nội dung sau.
Một là về đánh giá thực hiện mục tiêu tổng quát năm 2012.
Với nội dung ưu tiên kiềm chế lạm phát, tôi cho rằng việc điều hành chính sách tiền tệ ngoại hối đã tạo nên độc quyền trong sản xuất, kinh doanh vàng SJC, dẫn đến giá vàng tăng cao, các loại vàng khác mặc nhiên trở thành nguyên liệu, làm thiệt hại cho người dân có vàng không phải nhãn hiệu SJC. Trong quá trình điều hành kinh tế nhưng giật cục, lúc quá tả, lúc quá hữu, khi thắt chặt tiền tệ, lúc lại buông lỏng, nơi lỏng. Về việc mua sắm tài sản công cũng lúc thì cấm, lúc lại mở rộng cho mua.
Với nội dung tái cơ cấu kinh tế thực hiện thiếu quyết liệt, khẩn trương. Từ sau Kỳ họp thứ hai Quốc hội đến nay hệ thống ngân hàng mới tái cơ cấu được 3 ngân hàng, số còn lại vẫn đang nằm dở dang là đề án.
Đối với các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước mới quyết định giải thể hai tập đoàn, đó là Tập đoàn Hood và Tập đoàn Sông Đà. Tôi đề nghị Chính phủ báo cáo rõ và minh bạch những việc trên.
Với nội dung bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội, cải thiện đời sống chưa được quan tâm đúng mức. Giá cả các mặt hàng thiết yếu tăng cao. Chi phí khám chữa bệnh tăng. Giá trị tiền lương thực tế của các đối tượng hưởng lương và đối tượng hưu trí giảm. Có cử tri cho rằng cán bộ hưu đang trở lại thời kỳ bao cấp, xếp hàng nhận lương tháng và thắt chặt chi tiêu thường xuyên.
Về đánh giá nguyên nhân tồn tại trang 20. Phần nói về nguyên nhân tồn tại trong Báo cáo toàn văn của Chính phủ đã đề cập công việc triển khai chậm như tái cơ cấu kinh tế triển khai chậm, chuyển đổi mô hình tăng trưởng mô hình kinh tế triển khai chậm. Ở góc độ nào đó thì đây là số đầu việc được ghi trong nghị quyết chứ không phải nguyên nhân. Tôi cho rằng một trong nhiều nguyên nhân chủ quan có, nguyên nhân do nhận thức không đầy đủ về trách nhiệm tổ chức triển khai nghị quyết của Quốc hội giao gắn với việc tổ chức triển khai thực hiện kiểm điểm theo yêu cầu của Nghị quyết trung ương 4. Theo tôi mọi cấp mọi ngành đều phải đồng thời làm tốt nhiệm vụ xây dựng Đảng được ghi trong Nghị quyết trung ương 4 và phải đồng thời tổ chức thực hiện tốt trách nhiệm, nhiệm vụ được giao.
Trong thời gian vừa qua nhiều cán bộ Đảng viên, nhất là một số người đứng đầu của các ngành, lĩnh vực chỉ lo đầu tư suy nghĩ cho việc che chắn khuyết điểm để bản thân được tại vị dẫn đến không còn thời gian đầu tư suy nghĩ để thực hiện tái cơ cấu kinh tế và thực hiện các nhiệm vụ khác. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng góp phần vào việc hoàn thành mục tiêu kinh tế - xã hội không cao, không đồng bộ trong thời gian vừa qua.
Nguyên nhân do yếu kém trong công tác quản lý nhà nước của các cơ quan tham mưu của Chính phủ cùng với sự tồn tại của tư tưởng lợi ích nhóm đã để lại nợ xấu cao, cho vay vốn chôn vào bất động sản.
Bộ Y tế buông lỏng quản lý nhà nước trong thời gian dài về dược liệu, như vừa qua kiểm tra 400 mẫu dược liệu có loại thuốc bốc nhầm, có loại trộn cả xi măng, có loại ngâm tẩm hóa chất độc hại gây ung thư, thậm chí có cả các loại hóa chất mà không biết loại hóa chất đó là chất gì.
Bộ Công thương và Bộ Tài chính buông lỏng quản lý tạm nhập tái xuất dầu, điển hình như chênh lệch giữa số tạm nhập với tái xuất xăng dầu của Ptrolimex năm 2010 lên đến 31.200 tấn, năm 2011 là 23.300 tấn và 6 tháng đầu năm 2012 là 65.600 tấn.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn buông lỏng công tác quản lý đất đai kéo dài trong nhiều năm đối với trên 10.000 ha đất của các nông trường, trạm, trại trực thuộc bộ nằm trên địa bàn Thành phố Hà Nội v.v.....
Từ phân tích trên tôi đề nghị 3 giải pháp trong thời gian tới như sau.
Thứ nhất là cần khắc phục ngay lợi ích nhóm hiện đang tồn tại giữa một bộ phận lãnh đạo của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước với một bộ phận cán bộ có thẩm quyền trong các cơ quan quản lý nhà nước để việc tái cơ cấu nền kinh tế, tập đoàn, tổng công ty nhà nước được thực hiện khẩn trương, nghiêm túc và có hiệu quả. Tách chức năng quản lý và chức năng sở hữu của nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước để không làm méo mó thị trường và phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước với các thành phần kinh tế khác.
Cần tăng cường kỷ cương hành chính, kiên quyết xử lý những trường hợp cấp trên nói cấp dưới không nghe, có nghe nhưng không thực hiện. Ví dụ như việc Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân thực hiện nhiệm vụ được giao đến kiểm tra tiến độ dự án Đại học Quốc gia Hà Nội cho ý kiến chỉ đạo nhưng không được thực hiện. Lẽ nào Phó Thủ tướng cũng bó tay. Cần rà soát và kiên quyết cắt giảm những dự án cấp bách để đầu tư cho dự án công trình trọng điểm có tác dụng lớn đến sự phát triển kinh tế và đời sống xã hội như Đại học Quốc gia Hà Nội, Khu công nghệ Láng - Hòa Lạc, Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam, các báo cáo giám sát và khảo sát của đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội, chúng tôi đã gửi đến các cơ quan có liên quan tiếp tục theo dõi, nghiên cứu việc giải quyết những kiến nghị của đoàn trong thời gian tới.
Hiện nay chúng ta đang học tập và làm theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tôi đề nghị cần sớm xây dựng được văn hóa từ chức trong đội ngũ cán bộ công chức để không cản đường hay kéo lùi sự phát triển của đất nước. Vấn đề này không phải là mới vì cách đây 62 năm Sắc lệnh Công chức Việt Nam Số 76 năm 1950 Bác Hồ đã ký Sắc lệnh này ban hành quy chế công chức Việt Nam. Trong đó chế định từ chức quy định tại Điều 79, chế định từ chức bắt buộc quy định tại Điều 86 và thực hiện được quy định tại Điều 54 Luật cán bộ, công chức. Việc làm của chúng ta trong kỳ họp thứ 4 này đang bàn đến việc bàn giao ban hành nghị quyết về bỏ phiếu lấy phiếu tín nhiệm. Tôi nghĩ đó là một sự tiến bộ để tổ chức thực hiện Sắc lệnh trên. Trên đây là ý kiến của tôi, xin cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Thị Kim Ngân - Phó chủ tịch Quốc hội
Xin mời Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến trả lời báo cáo với các đại biểu Quốc hội về những vấn đề liên quan đến chăm sóc sức khỏe nhân dân mà ý kiến phát biểu từ sáng tới giờ đã đề cập tới.

Nguyễn Thị Kim Tiến - Thành phố Hồ Chí Minh
Kính thưa Quốc hội,
Trước tiên, tôi trân trọng cảm ơn những đóng góp, những đề nghị giải pháp và những chia sẻ của đại biểu Quốc hội đối với những vấn đề mà đại biểu Quốc hội đặt ra đối với y tế trong khuôn khổ 10 phút. Chúng tôi xin giải trình những vấn đề về:một là vấn đề quá tải bệnh viện, hai là vấn đề giá dịch vụ y tế, ba là vấn đề an toàn thực phẩm, vì thời gian có hạn.
Thứ nhất, về quá tải bệnh viện, đây là một thực trạng rất nhức nhối đối với người dân, nguyên nhân thì số giường bệnh của chúng ta quá thấp mới đạt 22,5 giường/10 vạn dân, trong khi đó yêu cầu tối thiểu là phải 33 và đối với các nước xung quanh thì 80-100, thậm chí 140 và nguyên nhân nữa là tập trung nhiều ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh do số giường, đặc biệt là 5 chuyên khoa là ung bướu, tim mạch, ngoại chấn thương chỉnh hình, nhi, sản.
Nguyên nhân nữa là sự phân bố không đồng đều của các bác sỹ cũng như trang thiết bị xuống tuyến dưới. Về vấn đề này, Chính phủ cũng rất quan tâm, Quốc hội quan tâm và Bộ Y tế đã xây dựng đề án trình Chính phủ và sắp được phê duyệt gồm những giải pháp chính là tăng số giường bệnh ở những chuyên khoa quá tải ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì trong một năm qua, Bộ Y tế đã cố gắng xây dựng được Bệnh viện ung bướu cơ sở 2 tại Thanh Trì, Hà Nội và sắp ra cơ sở 2 của Bệnh viện nội tiết, cũng như khoa ung bướu, tim mạch Bệnh viện Bạch Mai thì hiện nay đã tăng được 200 giường bệnh, các cơ sở của Thành phố Hồ Chí Minh đã tăng khoảng 500 giường ở các cơ sở bệnh viện tuyến huyện và Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đang xây dựng đề án đã trình Chính phủ trong tháng qua. Ngoài ra, chúng tôi đang xây dựng và chuẩn bị phê duyệt bệnh viện vệ tinh đối với 5 chuyên khoa ở các tỉnh có khả năng, sau khi dự án bệnh viện vệ tinh thành công thì những tỉnh này có thể tự điều trị mà không cần phải chuyển lên bệnh viện tuyến trên với sự hỗ trợ của tuyến trên cả về con người, cơ sở vật chất và kỹ thuật.
Thứ ba, chúng tôi cũng xây dựng đề án bác sỹ gia đình và triển khai ở một số tỉnh quá tải và đào tạo cán bộ trong tháng tới chúng tôi sẽ làm một đề án với khoảng 100 bác sỹ trẻ xung phong về 63 huyện nghèo đối với những bác sỹ tốt nghiệp loại Khá, Giỏi được đào tạo một năm các chuyên khoa mà 63 huyện nghèo cần thiết để giúp tăng cường chất lượng của tuyến dưới kèm theo thì Chính phủ cũng đã có những nguồn cung về trái phiếu qua Đề án 47930 đối với bệnh viện tỉnh, bệnh viện huyện và sắp tới cũng dành một số kinh phí cho bệnh viện tuyến Trung ương và căn bản là về lâu, về dài chúng tôi đã có một đề án phát triển nhân lực đã phê duyệt.
Thứ hai là vấn đề về giá dịch vụ y tế, chúng tôi rất chia sẻ những ý kiến của quý vị đại biểu nhưng cũng xin giải trình giá dịch vụ y tế được phê duyệt cách đây 17 năm từ năm 1995 và cũng chỉ tính một phần, hiện nay đã quá lỗi thời vì lương đã tăng lên 8 lần và giá lên 3 lần và thời điểm đó thu nhập của người dân chỉ khoảng 3 - 5 triệu mà hiện nay đã trên 1000 USD, vì thế không thể để giá dịch vụ quá thấp để dân phải chịu quá khổ, cho nên đã điều chỉnh 3/7 yếu tố bởi những chi phí trực tiếp là thuốc, dịch truyền, các hóa chất và những vấn đề điện, nước, vật liệu tiêu hao.
Vừa rồi giá tăng ở hai giá: thứ nhất là giá khám bệnh, ở tuyến xã từ 1000 công 1 lần tiền khám tăng lên 4000 - 7000 và ở tuyến trung ương từ 3000 tăng lên khoảng 20.000. Thứ hai là giá giường bệnh từ 10.000 tăng có thể đến 80.000 đối với tuyến cao và đã làm cho giá tăng. Tuy nhiên có ảnh hưởng đến người nghèo, người chính sách và trẻ em dưới 6 tuổi, người dân tộc thiểu số thì những đối tượng này đã được Chính phủ mua hết thẻ bảo hiểm y tế và đã bao phủ được 68% người dân, còn người nghèo Chính phủ cũng mua hết và chỉ đồng chi trả 5%. Đồng thời Chính phủ cũng đã ra Quyết định 14 để hỗ trợ cho những người nghèo, người hoàn cảnh khó khăn mà bị các bệnh mãn tính để chi phần đồng chi trả 5% và 20% là những bệnh mãn tính, ung thư, chạy thận, số còn lại là những người có điều kiện hoặc họ vào khám khoa dịch vụ, hoặc đi nước ngoài, hoặc chữa ở bệnh viện tư thì chúng tôi nghĩ phương cách tốt nhất là tất cả đều tham gia bảo hiểm y tế. Trong tháng tới Bộ Y tế sẽ trình Chính phủ một đề án tiến tới lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân do Thủ tướng Chính phủ làm trưởng ban chỉ đạo.
Chúng tôi hy vọng với sự nỗ lực các đại biểu Quốc hội giám sát thúc đẩy các địa phương, gần đây Chính phủ cũng ra quyết định hỗ trợ người cận nghèo 70%, nhiều địa phương đã bỏ ra 30% để mua bảo hiểm y tế cho toàn dân. Chúng tôi nghĩ đấy là nguồn tài chính vững bền để đảm bảo một nền y tế công bằng hiệu quả và phát triển, người dân không phải bỏ tiền và tất cả chỉ chi trả giữa bảo hiểm xã hội và nơi cung cấp dịch vụ là bệnh viện.
Vấn đề tiếp theo là vấn đề an toàn thực phẩm, những nhức nhối mà các đại biểu phát biểu chúng tôi rất chia sẻ, chúng tôi xin phép được đại diện cho 3 bộ là Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, luật đã ra đời, Nghị định hướng dẫn thực hiện cũng ra đời, kể cả Nghị định xử phạt các vi phạm hành chính đã ra đời và chúng tôi cũng đã góp ý về nghị định, Luật Thanh tra và nghị định về các thanh tra chuyên ngành, đặc biệt có sự phối hợp rất chặt chẽ với Bộ Công an và cảnh sát môi trường. Trong thời gian qua có những nguyên nhân đó thì có rất nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất, có tình trạng nhập lậu và không phải đường chính ngạch của các thực phẩm qua biên giới mà trên báo chí đã nêu. Những phát hiện này thông thường rất khó và chúng tôi cũng phải phối hợp chặt chẽ với các công an, cảnh sát môi trường để trong những xe chở hàng chất dưới đó là các thực phẩm đã nhiễm bẩn.
Thứ hai, về vấn đề hóa chất thực vật, đây là nhận thức của người dân.
Thứ ba, các hóa chất cũng như phụ gia thực phẩm đưa vào sản xuất, đấy là những người sản xuất đã tham lợi. Việc này chúng tôi đã tăng cường thanh tra cùng với các Chi cục thanh tra chuyên ngành và thanh tra của bên Bộ Công thương và của Bộ Nông nghiệp đều phối hợp. Báo cáo chắc là nghị định nó ra đời cùng với nghị định xử phạt và hiện nay chúng tôi đang làm một thông tư kết hợp chặt chẽ với Bộ Công an. Trong thời gian tới sẽ tăng cường giám sát. Tuy nhiên với an toàn thực phẩm là đã có Ban chỉ đạo quốc gia và Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân thì cũng đều đặn 3 tháng họp một lần và giao ban trực tuyến với các địa phương. Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng một đề án là chuỗi an toàn thực phẩm từ trang trại đến bàn ăn.
Còn Thành phố Hà Nội xây dựng đề án về vệ sinh đường phố. Tuy nhiên những cố gắng đó thì cũng chỉ mới một năm sau khi thực hiện Luật An toàn mới khoảng hơn nửa năm nghị định ra đời thì những yếu kém, khó khăn đó chúng tôi cũng cố gắng cùng với sự giám sát của đại biểu Quốc hội và người dân là những người tiêu dùng thông thái, nhà sản xuất cũng phải vì kinh doanh và uy tín. Chúng tôi cũng đưa ra một nghị định xử phạt rất nặng, đặc biệt sẽ rút giấy phép điều kiện kinh doanh và đưa lên phương tiện thông tin đại chúng, tất cả những nhà sản xuất không đạt yêu cầu một cách công khai để người dân từ chối sản phẩm. Có lẽ đấy là giải pháp mạnh nhất, còn nếu theo nghị định xử phạt thì với mức tiền như hiện nay thì không có tính chất được răn đe. Đấy là an toàn thực phẩm.
Ngoài ra vấn đề môi trường mà vừa rồi đại biểu vừa nói về rác thải y tế cả rác thải rắn, cả rác thải lỏng. Đây cũng là vấn đề nhức nhối mặc dù Chính phủ đã phê duyệt quyết định để hỗ trợ về đề án xử lý chất thải rắn, chất thải lỏng tuy nhiên kinh phí chưa có. Đến nay Bộ Y tế đã đề nghị được một nguồn ODA của Ngân hàng thế giới 150 triệu đôla, đang làm được khoảng 25 tỉnh và sẽ cuốn chiếu đến vòng 2 là 25 tỉnh nữa đó là xử lý chất thải lỏng. Ngoài ra chất thải rắn Bộ Y tế phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tiến hành tuy nhiên rất nhiều công nghệ khác nhau và đây là một quá trình các nước đang phát triển phải đối mặt, với nguồn ngân sách hạn hẹp các địa phương đều phải có nỗ lực từ các nguồn ngân sách, các nguồn ODA và nguồn hợp pháp, kể cả xã hội hóa, chúng tôi cũng cố gắng để đạt các mục tiêu mà Quốc hội đề ra trong vấn đề xử lý chất thải rắn hợp vệ sinh.
Về vấn đề bảo hiểm y tế toàn dân, đây là một khát vọng rất cháy bỏng nhưng cũng đầy thách thức đối với những nước đang phát triển. Việt Nam cũng tiên phong tham gia với Ngân hàng thế giới và các tổ chức quốc tế xin được cố gắng đến năm 2020 đạt ít nhất 80%, hiện nay đã phủ 68%. Đảng và Nhà nước chúng ta đã có một chính sách ưu việt mà nhiều nước đáng học tập kinh nghiệm, tức là chúng ta ưu tiên người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi, người có công, người hưu trí và hiện nay ưu tiên cho người cận nghèo là 70%. Mệnh giá của chúng ta rất thấp là hơn 500.000đ nhưng gói dịch vụ của chúng ta rất tốt, kế cả can thiệp tim mạch, kể cả bệnh ung thư, rất nhiều bệnh nhân ung thư chữa chạy mất hàng tỷ đồng mà bảo hiểm cũng thanh toán. Tuy nhiên để dự phòng vì có thể cạn quỹ chúng tôi đã cố gắng cùng với bảo hiểm xã hội lên các danh mục thuốc, danh mục các dịch vụ cùng chia sẻ với nhau để một bên cung cấp dịch vụ, một bên trả tiền mang lại quyền lợi cho người dân trong nguồn kinh phí hạn hẹp.
Trong tương lai chúng tôi cũng cố gắng đề nghị tăng tỷ lệ bao phủ cho cả hộ nông dân thuộc diện trung bình, hiện nay cũng đang đề nghị Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quan tâm đến hộ nông dân thuộc diện trung bình, tuy nhiên tiêu chuẩn này cũng khó. Thứ hai là đối với học sinh, sinh viên mà khó khăn, tuy nhiên rơi vào nhà nghèo với cận nghèo thì đã được tách. Thứ ba là một số hộ ngư dân, diêm dân và ngư nghiệp khác trong tương lai chúng tôi nghĩ rằng tỷ lệ này sẽ cố gắng đạt được như Chính phủ đã chỉ đạo. Xin trân trọng cảm ơn.

Lê Phước Thanh - Quảng Nam
Kính thưa Quốc hội.
Tôi thống nhất cao với Báo cáo của Chính phủ về thực hiện kinh tế - xã hội năm 2012 và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của năm 2013.
Có thể nói, trong điều kiện tác động của kinh tế thế giới hết sức phức tạp, nhưng năm 2012 chúng ta đã đạt nhiều chỉ tiêu quan trọng trong đó đạt được 10/15 chỉ tiêu như trong Báo cáo đã trình bày. Chúng tôi hết sức quan tâm đến chỉ tiêu hàng đầu mà chúng ta đặt ra, đó là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định an sinh xã hội.
Chúng tôi đã thấy những kết quả đạt được. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát thì dẫn đến một việc đó là chúng ta kéo dài thời gian thực hiện chính sách về thắt chặt tài chính cho nên dẫn đến tình hình sản xuất, kinh doanh hết sức khó khăn, kinh tế phát triển thì vẫn còn có những bước trì trệ và dẫn đến hệ lụy của nó như sáng nay các đại biểu đã phát biểu, đó là về tình hình nợ xấu tiếp tục phát triển, tình hình hàng tồn kho tồn đọng kéo dài.
Sáng nay, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng có đề cập đến những vấn đề chúng ta đã giảm  được lượng hàng tồn kho, nhưng trong thực tế chúng tôi vẫn thấy còn nguyên nhân cơ bản, đó là trong giai đoạn hiện nay khi tiếp xúc với các doanh nghiệp, chúng tôi thấy hiện tại việc giảm hàng tồn kho đó trong đó còn nguyên nhân nữa là trong thời gian qua tình hình sản xuất của các doanh nghiệp hết sức khó khăn cho nên một số doanh nghiệp giảm sản lượng sản xuất. Hai là một số doanh nghiệp của chúng ta dừng sản xuất, cho nên cũng tác động đến vấn đề giảm hàng tồn kho. Đây là vấn đề cảnh báo để trong tổ chức thực hiện của chúng ta trong điều hành sẽ tốt hơn.
Chúng tôi rất quan tâm đến giải pháp mà các đại biểu Quốc hội đề cập trong thời gian qua. Tôi nghĩ rằng vấn đề đầu tiên của chúng ta hiện nay đang cố gắng tập trung làm thế nào để giải quyết và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp đi vào sản xuất, trong đó có yếu tố cơ bản nhất đó là chúng ta giải quyết vấn đề nợ xấu. Chúng ta giải quyết làm thế nào đó để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận được nguồn lực sản xuất, trong đó đặc biệt là các tín dụng. Bởi vì trong thực tiễn hiện nay ngân hàng đã có điều hành bằng giải pháp, tức là khống chế, nguồn huy động vốn đầu vào, trần đầu vào. Tuy nhiên, trong thực tiễn chúng tôi vẫn thấy xuất hiện một số ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng nhỏ, ngân hàng có tiềm lực chưa mạnh về kinh tế để huy động nguồn lực lớn hơn và có khi vượt trần quy định thì vấn đề này tôi đề nghị ngân hàng phải có sự kiểm soát, đây có thể là những biểu hiện chưa tốt, cho nên cần có một sự kiểm soát để đảm bảo vấn đề thực hiện chính sách của chúng ta về vấn đề điều hành, về vấn đề tài chính tiền tệ sẽ tốt hơn.
Việc thứ hai, chúng tôi cũng xin hết sức quan tâm đó là trong năm 2012 về vấn đề cải thiện môi trường đầu tư, thực tế nền kinh tế của chúng ta đang hết sức khó khăn, chúng ta cần tăng cường huy động nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực đầu tư của nước ngoài. Tuy nhiên, tôi đánh giá một số tổ chức kinh tế thế giới cho thấy rằng năm 2012 thì kinh tế của chúng ta trong vấn đề kêu gọi vốn đầu tư của chúng ta tụt hạng. Đây là vấn đề có một sự cảnh báo cho các nhà quản lý cần có một sự quan tâm.
Người ta đánh giá vấn đề này ở đây đó là cải thiện môi trường đầu tư, trong đó các cơ chế chính sách của chúng ta chưa nhất quán, có nhiều vấn đề chúng ta cũng cần phải có một sự cải thiện, đặc biệt trong đó về vấn đề đầu tư các hạ tầng cơ bản, chúng tôi cũng hết sức lưu ý rằng trong thực tiễn thì chúng tôi thấy ngay cả kết cấu hạ tầng của chúng ta chưa đồng bộ, trong đó đặc biệt như các tuyến giao thông, ngay cả Quốc lộ 1 của chúng ta thì đường để vận tải các hàng hóa trên đường bộ mà thực ra trong thời gian qua Chính phủ đã có chính sách mở rộng để nâng cấp tuyến Quốc lộ 1 thì đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, nhưng trong giải pháp về nguồn lực thì hết sức khó khăn. Cho nên, hôm nay chúng tôi cũng kiến nghị với Quốc hội nên nghiên cứu và bổ sung thêm chương trình trái phiếu Chính phủ để ưu tiên số 1 cho vấn đề mở rộng Quốc lộ 1A, nó vừa giải quyết về vấn đề lưu thông hàng hóa, nhưng chính của nó lại giải quyết được về vấn đề tai nạn giao thông thường xảy ra, bởi vì tai nạn giao thông xảy ra ở Quốc lộ 1 chiếm tỷ lệ khoảng 30-40%, vấn đề hết sức quan trọng. Tôi cho tập trung nguồn lực trái phiếu Chính phủ cho vấn đề này hoàn toàn hợp lý và sẽ giải quyết được nhiều hoạt động của nó.
Chúng tôi cũng hết sức quan tâm đến vấn đề an sinh xã hội, đây là vấn đề lớn, trong thời gian qua bằng những chính sách, bằng những cơ chế, Chính phủ đã ban hành như vậy thì chúng ta cũng đã giải quyết được, bởi vì vấn đề xóa đói giảm nghèo cũng là một vấn đề lớn trong an sinh xã hội, thực sự ra vấn đề nghèo của chúng ta thường nằm ở những khu vực miền núi, các huyện miền núi. Vừa qua chúng ta đã thực hiện Nghị quyết 30A của Chính phủ đã giải quyết được tương đối khá tốt ở một số huyện thực hiện chính sách này. Tuy nhiên trong quá trình xét duyệt Nghị quyết 30A tôi thấy vẫn có những tồn tại do ban đầu khi chúng ta xét duyệt Nghị quyết này chúng ta dồn tỷ lệ hộ nghèo cao trên 50% cho nên bây giờ trong thực tiễn dẫn đến nhiều huyện như nhau nhưng chính sách này không được giải quyết ngang nhau.
Thứ hai là trong chính sách đó chúng tôi vẫn thấy cơ chế bình quân chủ nghĩa còn cho nên nó dẫn đến nhiều người không muốn thoát nghèo và thậm chí người ta duy trì ở mức độ nghèo và càng nghèo để hưởng chính sách. Như vậy, phải có sự đánh giá từng đối tượng hộ nghèo để từ đó chúng ta đưa ra giải pháp tốt hơn.
Ở đây liên quan đến vấn đề chúng tôi muốn đề cập đó là ở Huyện Bắc Trà My nơi có thủy điện Sông Tranh 2. Thực sự kỳ vọng ban đầu của chúng tôi khi kêu gọi các nhà đầu tư và kể cả đầu tư thủy điện, chúng tôi thấy có điều kiện giảm nghèo cho vùng Sông Tranh 2. Thực tế sau khi tích nước diễn biến Sông Tranh 2 sau một năm thì có vấn đề động đất xảy ra. Tôi nghĩ rằng theo báo cáo của các nhà khoa học là trước đó có động đất nhưng thực sự ra cường độ động đất lúc đó chưa mạnh. Đến nay sau khi tích nước nó dẫn đến động đất quá lớn.
Đặc biệt trong thời gian gần đây, chúng tôi thấy bình quân cứ 5 ngày có một trận động đất và một trận động đất gần đây nhất là 4,6 độ rich te, nó làm ảnh hưởng lớn, đến nay vấn đề an dân rất khó khăn. Chúng tôi bằng những biện pháp tích cực nhất để tổ chức được vận động nhưng nhân dân người ta hoang mang sau trận động đất 4,6 độ rich te vừa qua và làm cho người dân không ngủ được 1 đêm chạy ra đường, thậm chí nhiều tỉnh lân cận phải bỏ nơi cư trú đó để đi nơi khác. Mặc dù ảnh hưởng chưa lớn, dưới 1000 nhà bị nứt và hư hỏng nhưng chưa ảnh hưởng đến đời sống thiệt hại của dân cư. Đề nghị Quốc hội, Chính phủ cần quan tâm đặc biệt để tiếp tục nghiên cứu tốt hơn về dự báo khả năng xảy ra động đất và ảnh hưởng như thế nào đối với đời sống dân cư bởi vì hạ lưu của thủy điện này trên 100 nghìn dân, nếu nó xảy ra là hết sức nguy hại. Do vậy, tôi đề nghị phải có chính sách đối với đồng bào khu vực này, hỗ trợ những người bị thiệt hại do thủy điện Sông Tranh 2 bởi vì động đất này là do sự kích thích, tác động của thủy điện. Trong trường hợp đặc biệt đề nghị nên có chính sách riêng cho thủy điện này để an dân tốt hơn. Tôi xin hết ý kiến. Xin cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Hữu Đức - Đồng Tháp
Kính thưa Đoàn Chủ tọa,
Kính thưa Quốc hội,
Tôi cơ bản đồng thuận với những đánh giá về tình hình kinh tế xã hội năm 2012 với những nhân tố tích cực đan xen nhiều yếu tố hạn chế yếu kém. Tôi cũng tán thành những nhiệm vụ chính trong năm 2013 được nêu ra trong Báo cáo của Chính phủ. Cũng như Báo cáo thẩm tra của Quốc hội trong đó ý kiến của Ủy ban Kinh tế về nhiệm vụ những tháng còn lại của năm 2012 và cả năm 2013 là cần tập trung thực hiện quyết liệt các giải pháp để giải quyết các nút thắt của nền kinh tế là giải phóng hàng hóa tồn kho và xử lý nợ xấu.
Dưới góc nhìn của Đồng Tháp và cả vùng Đồng bằng Sông Cửu Long tôi xin phát biểu một số vấn đề sau:
Kính thưa Quốc hội, khối lượng hàng tồn kho rất lớn từ các sản phẩm nông, thủy sản chế biến không chỉ làm cho các doanh nghiệp Đồng bằng Sông Cửu Long rơi vào tình cảnh lao đao mà còn tác động trực tiếp đến sản xuất và đời sống của nhân dân trong năm qua. Người dân, doanh nghiệp có thể chia sẻ những nguyên nhân do những tác động tiêu cực từ cạnh tranh khốc liệt của các quốc gia xuất khẩu nông sản. Về thị trường tiêu thụ thế giới bị suy giảm do suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng người sản xuất và các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu nông sản lại rất bức xúc về sự điều hành xuất khẩu còn nhiều bất cập. Về sự chậm trễ và những điều kiện ràng buộc quá khó của những chính sách đối với người sản xuất lẫn doanh nghiệp.
Việc sản xuất và xuất khẩu cá tra thời gian qua đã rơi vào một hoàn cảnh hết sức khó khăn, nhiều doanh nghiệp bị khánh kiệt, trong khi các kho lạnh đều đã đầy ắp hàng tồn, nhiều doanh nghiệp khó tiếp cận được với nguồn vốn và buộc phải bán dưới giá thành dẫn đến phải mua rẻ của người nuôi hoặc giảm chất lượng gây tổn hại đến uy tín thương hiệu cá tra. Nếu không kịp thời có những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết hàng tồn kho thì tình trạng này sẽ tạo ra một vòng lẩn quẩn đưa nhiều doanh nghiệp vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan, có thể phải giải thể hoặc phá sản tác động trực tiếp chủ yếu vào ngành cá tra. Đồng tháp cũng như các tỉnh vùng Đồng bằng Sông Cửu Long là một vựa cá lớn nhất của cả nước đem về hàng tỷ USD mỗi năm, giải quyết việc làm cho hàng trăm ngàn lao động trong chuỗi nuôi trồng và chế biến. Do đó điều trăn trở bất an của chính quyền các địa phương là sự khó khăn của ngành cá tra, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói chung, doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá tra nói riêng đang đứng trước bước ngoặt của sự tồn tại và điều đó cũng đồng nghĩa đe dọa một ngành nhiều tiềm năng và sự kỳ vọng của người Đồng bằng Sông Cửu Long.
Việc điều chỉnh lãi suất khoản vay 15% là một nỗ lực rất lớn của ngành ngân hàng nhằm thực hiện Nghị quyết của Quốc hội để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và hỗ trợ thị trường của năm 2012. Tôi đánh giá cao quyết tâm của ngân hàng nhà nước trong giải pháp này, tuy nhiên để tiếp cận được nguồn vốn vay vẫn còn nhiều khó khăn, những tín hiệu gần đây cho thấy chưa có một sự nhất quán cao trong thực hiện của một số ngân hàng thương mại, nhất là cho vay trong lĩnh vực sản xuất nông sản. Hình như còn thái độ chập chờn chưa thật sự sẵn lòng của một số ngân hàng, điểm mấu chốt của nợ xấu, tín dụng, lãi suất hiện nay là nằm ở hàng tồn kho lớn trong khi thị trường đầu ra bị suy giảm.
Cần nhanh chóng ban hành đầy đủ các khung pháp lý đối với các hoạt động mua bán nợ, mua bán tài sản để bảo đảm giải thể, sáp nhập, mua bán các công ty doanh nghiệp đẩy mạnh tái cơ cấu, lành mạnh hóa về nền tài chính doanh nghiệp.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại cho vay, cần mạnh dạn xử lý những vấn đề liên quan đến lợi ích nhóm, đặc biệt là các ngân hàng không nhất quán với chủ trương hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ và ngân hàng nhà nước. Cả ngân hàng và doanh nghiệp kinh doanh đều vì mục đích lợi nhuận, không có lợi nhuận thì nền kinh tế sẽ không phát triển, nhưng lợi nhuận chỉ dành cho một phía và đẩy khó khăn về phía còn lại thì chắc chắn dẫn đến bất ổn cho nền kinh tế.
Mọi vấn đề kinh tế trong năm qua không phải không có những tín hiệu tích cực, hàng loạt doanh nghiệp vẫn trụ vững, vẫn mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, mạnh dạn đầu tư sản xuất, kinh doanh, mạnh dạn khơi thông thị trường cũ, tìm kiếm thị trường mới. Nhiều doanh nghiệp tự tái cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh phù hợp với thị trường. Nhiều doanh nghiệp vẫn đăng ký thành lập mới. Có thể số các doanh nghiệp như trên là không lớn so với những doanh nghiệp bị phá sản, ngừng sản xuất kinh doanh nhưng điều đó cho thấy niềm tin của doanh nghiệp, sự kỳ vọng vào các giải pháp, điều hành vĩ mô hết sức quyết liệt của Chính phủ trong thời gian gần đây.
Trong thời gian tới, tôi đề nghị Chính phủ tiếp tục điều hành linh hoạt hơn, nhưng cũng phải nhất quán hơn trong cả chính sách tín dụng lẫn chính sách tài khóa, để những doanh nghiệp có sự hậu thuẫn phía sau đủ mạnh sớm vượt qua khó khăn chung.
Trong những năm gần đây, đồng bằng sông Cửu Long xuất hiện nhiều doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực lúa gạo vào quy mô khép kín từ đầu tư cho nông dân, khuyến nông, bao tiêu xay sát, tồn trữ và xuất khẩu thay vì thu mua qua hệ thống thương lái. Lợi nhuận tăng thêm từ các khâu trung gian đã được phân chia lại cho nông dân hợp tác xã. Đồng Tháp và nhiều tỉnh trong vùng đã có nhiều doanh nghiệp làm theo mô hình đó.
Chúng tôi cho rằng, doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp thì giúp hình thành một mối liên kết sản xuất, tiêu thụ, vừa là cứu cánh trong thị trường lúa gạo nhiều biến động. Điều kiện tiên quyết cho một nền nông nghiệp bền vững, vừa là điều kiện nâng cao thu nhập cho người nông dân.
Một trong những tiêu chí quyết định cho sự thành công chương trình xây dựng nông thôn mới chúng ta đang triển khai thực hiện, tôi đề nghị sớm tháo gỡ những vướng mắc để giúp các doanh nghiệp đang đầu tư vào chuỗi ngành lúa gạo có thể tiếp cận dễ dàng những khoản ưu đãi từ Quyết số định 63 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 03 của Ngân hàng Nhà nước, hướng dẫn chính sách hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản. Chúng ta hãy nhìn nhận mặt tích cực của các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông thôn để các chính sách, nhất là chính sách tín dụng được ban hành kịp thời và có độ trễ quá lớn trong triển khai thực hiện. Nhưng trong thời gian qua chúng ta đang đứng ở vị trí hàng đầu về xuất khẩu lúa gạo trên thế giới. Nhưng đời sống của người trồng lúa vẫn bấp bênh, cơ cực. Đã đến lúc cần có cái nhìn mới, không chỉ đánh giá tăng trưởng nông nghiệp qua quy mô sản xuất, kim ngạch xuất khẩu mà phải hướng đến mức lợi nhuận của người nông dân qua từng mùa vụ sản xuất. Tôi xin hết ý kiến, xin cảm ơn Quốc hội.

Phùng Đức Tiến - Hà Nam
Kính thưa Đoàn Chủ tịch.
Kính thưa Quốc hội.
Trong hoàn cảnh kinh tế thế giới khó khăn nhưng chúng ta vẫn có 10/15 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, phải khẳng định đây là cố gắng lớn của Chính phủ, các bộ, ngành và các địa phương. Tuy nhiên 5/15 chỉ tiêu không đạt kế hoạch lại là những chỉ tiêu rất quan trọng, mặt khác cần phải xem xét một cách các chỉ tiêu cho sát thực và cụ thể hơn như ô nhiễm môi trường, khai thác khoáng sản, an toàn thực phẩm, lao động việc làm, hàng tồn kho, tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp, nợ xấu, tỷ lệ hộ nghèo, các chỉ tiêu tổng hợp đánh giá kinh tế vĩ mô trên cơ sở phân tích kỹ lưỡng các chỉ tiêu với thái độ cầu thị, xác định rõ nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, đặc biệt nguyên nhân chủ quan trong tổ chức thực hiện, trong điều hành từ đó mới có hệ thống giải pháp chuẩn sát với bản chất vấn đề và mới đưa lại hiệu quả cao, thực hiện được các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật đề ra năm 2013 và các năm tiếp theo.
Về 9 nhóm giải pháp, theo tôi là tương đối toàn diện nhưng cần cụ thể hơn và phải có sự đột phá theo lộ trình tái cấu trúc nền kinh tế dựa trên ba trụ cột: Nguồn nhân lực chất lượng cao, cơ sở hạ tầng, cải cách thể chế. Về nguồn nhân lực chất lượng cao trong báo cáo chưa đánh giá hết thực trạng về số lượng, về phân bổ các ngành, các địa phương thực trạng hoạt động ra sao, định hình cho phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng như thế nào? trong giải pháp cũng còn chung chung.
Đối với cơ sở hạ tầng, nhiều công trình trọng điểm quốc gia thiếu vốn hoặc không đảm bảo tiến độ, ví dụ đường Hồ Chí Minh qua ba nhiệm kỳ Quốc  hội vẫn chưa hoàn thành. Với hạ tầng tập trung vào giao thông và xây dựng như thế nào? cần xác định cho rõ.
Về tái cấu trúc ngân hàng, thương mại, cơ cấu nợ, đặc biệt nợ xấu mới có một số quyết định cần phải xem xét việc thực hiện đã có  hiệu quả chưa và đảm bảo lộ trình đến bao giờ thì xong?
Với hệ thống doanh nghiệp cần tổ chức đánh giá một cách toàn diện về mô hình tập đoàn để rút kinh nghiệm và phải định hình mô hình sắp tới là như thế nào cho phù hợp với thực tiễn, cần đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa và sắp xếp lại các doanh nghiệp một cách hệ thống, đẩy nhanh sản xuất.
Doanh nghiệp là nòng cốt của nền kinh tế đang đứng trước những khó khăn, thách thức lớn, lãi suất thấp nhưng dư nợ cho vay thấp, số lượng doanh nghiệp phá sản nhiều, nhập siêu giảm, đó là những dấu hiệu cho thấy phát triển sản xuất còn nhiều khó khăn. Đề nghị phân loại, chọn được những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả có nhu cầu vay vốn phải vay được vốn.
Về thị trường bất động sản, trong thời gian dài bị đóng băng, phần lớn vốn trong bất động sản là vốn vay ngân hàng dẫn đến nợ xấu bất động sản chiếm tỷ lệ cao. Tôi đề nghị Nhà nước có thể đứng ra mua của doanh nghiệp để bán lại cho dân, trong đó có cán bộ công nhân viên với giá hợp lý, như vậy huy động được nguồn lực lớn trong dân vào hoạt động tháo gỡ khó khăn cho ngân hàng và các doanh nghiệp. Chương trình mục tiêu quốc gia tái cấu trúc kinh tế là quá trình phân bổ lại nguồn lực, nhưng phân bổ ngân sách vẫn dàn trải theo Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính ngân sách.
Tại sao như vậy, cần xem xét việc phân bổ kinh phí, ví dụ chương trình việc làm, dạy nghề, phân bổ năm 2013 là 3131 tỷ đồng, trong đó ở Trung ương tới 1220 tỷ đồng, địa phương chỉ có 1900  tỷ đồng. Qua giám sát cho thấy các cơ quan Trung ương lại ký hợp đồng cho đơn vị địa phương. Như vậy, nguồn vốn tại địa phương không nắm được, không tập trung vào các mục tiêu chiến lược như địa phương đề ra, chất lượng dạy nghề thấp cần xem xét tổng thể chương trình này. Chương trình xây dựng nông thôn mới chỉ có 1.700 tỷ đồng, một số chương trình phục vụ cho nông dân, nông thôn có thể gộp vào chương trình xây dựng nông thôn mới để đảm bảo tính đồng bộ và hiệu quả cao.
Về khoa học, công nghệ, tiếp tục tháo gỡ cơ chế tài chính và cải cách hành chính đến nay 400 tỷ đồng cho 88 đề tài, nhiệm vụ cấp Nhà nước vẫn chưa đến tay chủ nhiệm đề tài, đổi mới công nghệ phải xác định và đánh giá một cách chính xác chỉ số đổi mới công nghệ, ưu tiên giảm thuế nhập khẩu thiết bị công nghệ cao, công nghệ tiết kiệm năng lượng, công nghệ sạch cho các doanh nghiệp để sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường.
Về sản xuất nông nghiệp, theo Báo cáo của Chính phủ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục phát triển giữ vai trò rất quan trọng trong ổn định kinh tế và đời sống nông thôn, sản lượng lúa đạt 43 triệu tấn, xuất khẩu trên 7 triệu tấn gạo, kim ngạch xuất khẩu khoảng 27 tỷ USD. Tuy nhiên, hiệu quả còn khiêm tốn do phải cạnh tranh với nông sản nhập lậu để khai thác tiềm năng to lớn trong lĩnh vực nông nghiệp, nâng cao hiệu quả của ngành, phải thực hiện tốt công tác quản lý thị trường, tăng đầu tư ngân sách cho các lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực trực tiếp sinh lời để giảm bớt gánh nặng ngân sách, huy động các nguồn lực xã hội và đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn. Đề nghị cho sửa đổi Nghị định 61 năm 2010. Về kinh tế biển đã có nhiều văn kiện về lĩnh vực kinh tế này song trong Báo cáo của Chính phủ không thấy đề cập đánh giá và không có hệ thống giải pháp cho ngành kinh tế mũi nhọn này.
Về thực hành tiết kiệm và chống lãng phí trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Hồ Chủ tịch và Chính phủ đã tổ chức hũ gạo kháng chiến, tuần lễ vàng để góp phần cho kháng chiến thành công trong kháng chiến chống Mỹ có khẩu hiệu "tất cả cho tiền tuyến". Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay việc thực hành tiết kiệm phải được thực thi một cách nghiêm túc, đề nghị Chính phủ quan tâm chỉ đạo vấn đề này một  cách có hiệu quả. Trên đây là một số ý kiến đóng góp của tôi. Xin trân trọng cám ơn Quốc hội.

Nguyễn Thị Kim Ngân - Phó chủ tịch Quốc hội
Xin mời Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Bình báo cáo, trả lời các đại biểu Quốc hội xung quanh những vấn đề liên quan tới hoạt động tín dụng ngân hàng, vấn đề nợ xấu, vấn đề thị trường vàng.

Nguyễn Văn Bình - Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo,
Kính thưa Đoàn Chủ tịch,
Kính thưa toàn thể Quốc hội,
Qua ý kiến phát biểu của các đại biểu Quốc hội chúng tôi thấy nổi lên một số vấn đề như sau:
Vấn đề thứ nhất là liên quan đến tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.
Vấn đề thứ hai là xử lý nợ xấu.
Vấn đề thứ ba là quản lý thị trường vàng.
Vấn đề thứ tư là kiểm soát lạm phát.
Vấn đề thứ năm là tín dụng ngân hàng.
Vấn đề thứ sáu là hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng.
Tuy nhiên trong thời gian 10 phút tôi cũng không nghĩ rằng có thể báo cáo và giải trình được đầy đủ các nội dung này đến các đại biểu Quốc hội, cho nên trong khuôn khổ buổi hôm nay tôi sẽ xin phép trình bày lần lượt các nội dung. Còn những nội dung chưa kịp trong thời gian hôm nay sẽ được trong các phiên tiếp theo.
Thứ nhất, tôi xin báo cáo và giải trình với đại biểu Quốc hội về chương trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Như tôi đã báo cáo và giải trình với đại biểu Quốc hội tại phiên chất vấn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới đây Chính phủ đã có đề án theo Quyết định số 254 thông qua đề án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và đề án này cũng đã được xin ý kiến của Bộ Chính trị. Hiện nay ngân hàng nhà nước đang chỉ đạo để thực hiện quyết liệt chương trình tái cấu trúc này.
Theo Đề án 254 chúng tôi có vạch ra lộ trình cho 10 năm, từ nay đến năm 2020 và đặc biệt trong giai đoạn từ nay đến năm 2015 trong đó quy định rõ nội dung cần phải làm cho từng năm một, hiện nay chúng tôi đang bám sát nội dung quy định đó để triển khai. Nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng trong Đề án 254 ngoài việc hợp nhất sáp nhập và xử lý các ngân hàng yếu kém thì đó chỉ là một nội dung trong rất nhiều nội dung của cả đề án. Do vậy, có rất nhiều nội dung khác mà chúng ta đang triển khai hết sức tích cực. Ví dụ như việc lành mạnh hóa từng bước tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại. Trong thời gian vừa qua bằng cách cải thiện thanh khoản, kiên quyết trích lập đầy đủ đề phòng rủi ro thì tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại được lành mạnh hơn. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành và sắp ban hành một loạt các văn bản quy phạm pháp luật mới cho đáp ứng được nhu cầu phát triển của giai đoạn mới.
Liên quan trực tiếp đến việc xử lý các ngân hàng yếu kém, tôi xin báo cáo với các đại biểu Quốc hội như sau:
Về  phía Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo liên ngành do một Phó Thủ tướng làm trưởng ban và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước làm phó trưởng ban thường trực và đại diện của các bộ, ban, ngành có liên quan, kể các chính quyền địa phương các cấp.
Đối với việc xử lý của từng ngân hàng thương mại thì chúng tôi cũng có ban chỉ đạo đối với ngân hàng thương mại đó có đại diện của Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công An, chính quyền địa phương các cấp và Bộ Thông tin và truyền thông.
Do vậy, có thể nói rằng, quá trình xử lý các ngân hàng thương mại thì không phải chỉ riêng ý kiến của Ngân hàng Nhà nước mà rất công khai, minh bạch, rõ ràng giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và giữa các bộ, ban, ngành.
Liên quan đến các tiêu chí đánh giá thì chúng tôi xin báo cáo với đại biểu Quốc hội là trong các Luật về Ngân hàng Nhà nước cũng như Luật về tổ chức tín dụng cũng như các nghị định, thông tư hướng dẫn về hoạt động ngân hàng thì đã có đầy đủ bộ tiêu chí đánh giá để thế nào là các ngân hàng thương mại thuộc diện phải xử lý. Cho nên chúng tôi bám sát các quy định đó của pháp luật để xử lý. Chúng tôi cũng biết rất rõ rằng quá trình xử lý các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém là quá trình hết sức nhạy cảm và có thể gây ra rất nhiều việc tranh chấp. Do vậy, để có thể có đầy đủ cơ sở để tiến hành xử lý một ngân hàng thương mại thì chúng tôi tiến hành đồng thời cả hai việc. Một mặt, chúng tôi tiến hành thanh tra tại chỗ để có được bức tranh đầy đủ, chi tiết và chính xác về hoạt động của ngân hàng đó. Đồng thời, chúng tôi cũng mời kiểm toán độc lập quốc tế vào tiến hành kiểm toán để có cơ sở chính xác cho việc quyết định.
Do vậy, qua kết quả thanh tra cũng như kiểm toán độc lập vừa qua chúng ta thấy rằng tất cả các tổ chức tín dụng mà thuộc diện phải xử lý là rất xứng đáng và rất phù hợp với các quy định của pháp luật.
Các kết quả này chúng tôi sẽ chính thức công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, tôi xin nói với các đại biểu Quốc hội là vì có những đề án do chúng tôi tôn trọng tính tự nguyện của các đối tác tham gia. Cho nên hiện nay chúng tôi đang trong giai đoạn cuối cùng để thống nhất lại với các đối tượng này về các con số cụ thể. Sau khi thống nhất được tất cả các phương án này chúng tôi sẽ công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về quá trình xử lý các ngân hàng thương mại yếu kém. Bởi vì khi các thông tin này đến với quần chúng thì có thể gây ra những hoang mang nếu như chúng ta chưa có các phương án cuối cùng, nếu chúng ta đã có phương án cuối cùng rồi thì chúng tôi sẵn sàng công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Năm nay cũng là một năm ngân hàng nhà nước tiến hành thanh tra rất lớn trên một diện rất rộng, 26 tổ chức tín dụng đã và đang được ngân hàng nhà nước thanh tra trong năm nay và kết quả về thanh tra này theo đúng quy định của thanh tra chúng tôi sẽ lần lượt công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng một cách công khai, minh bạch rõ ràng.
Nội dung thứ hai, tôi xin báo cáo với Quốc hội, xung quanh vấn đề nợ xấu và xử lý nợ xấu. Trong phiên chất vấn tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tôi đã dành rất nhiều thời gian để báo cáo và giải trình với đại biểu Quốc hội, cử tri toàn quốc về nội dung này. Do vậy tôi cũng không đi sâu vào chi tiết, tôi xin khẳng định lại một số các nội dung như sau.
Thứ nhất, nợ xấu không phải là một con số cố định mà là một con số biến động theo thời gian.
Hai, mặc dù tiêu chí để xác định nợ xấu của Việt Nam được đánh giá rất phù hợp với các tiêu chí quốc tế nhưng ngay cả Việt Nam và quốc tế thì cũng không có một quy định thống nhất nào về việc xác định nợ xấu.Trong việc xác định nợ xấu thì bên cạnh các yếu tố định lượng có rất nhiều yếu tố định tính. Do vậy, con số nợ xấu có thể là khác nhau giữa các tổ chức đánh giá và chúng ta đã thống nhất, thế giới cũng đã ghi nhận là con số đánh giá của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực đó thường được là con số tham khảo và có giá trị nhất. Do vậy, con số xác định nợ xấu mà Ngân hàng nhà nước đưa ra là con số được cho rằng có cơ sở nhất. Về con số này, chúng ta thấy rằng từ đầu năm đến nay diễn biến nợ xấu của hệ thống ngân hàng nó cũng phù hợp với mọi diễn biến của kinh tế vĩ mô của chúng ta. Chúng ta thấy đầu năm thì tỷ lệ hàng tồn đọng rất lớn và sau đó tỷ lệ này cũng dần giảm, chúng ta theo dõi cũng thấy rất rõ là tỷ lệ nợ xấu tăng trong những tháng đầu năm. Nhưng từ tháng 6 trở lại đây thì tỷ lệ nợ xấu tốc độ tăng đã chậm hẳn lại.
Về xử lý nợ xấu, chúng tôi cũng xin báo cáo đây là một công việc, chúng ta cũng phải khẳng định rằng nó cũng không phải chỉ phụ thuộc vào ý chí của hệ thống ngân hàng là đủ mà đây chúng ta phải coi là một nội dung của cả nền kinh tế của chúng ta, phải có sự phối hợp đồng bộ của tất cả các cơ quan, các lĩnh vực thì chúng ta mới có thể xử lý được nợ xấu.
Thứ nhất, nếu chỉ là nợ xấu của hệ thống ngân hàng với doanh nghiệp thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh thì trước tiên ngân hàng phải có trách nhiệm xử lý cùng với doanh nghiệp. Nhưng chúng ta cũng thấy rằng riêng hàng tồn kho của chúng ta lớn thì đấy cũng là nợ xấu, cũng có ý kiến của đại biểu Quốc hội cho rằng đang thế chấp hàng tồn kho đó để lại được vay mới của hệ thống ngân hàng. Tôi cũng xin báo cáo với Quốc hội rằng ngay hàng tồn kho đó cũng đã là hàng thế chấp đối với khoản vay đó. Do vậy, vấn đề xử lý hàng tồn kho cũng là đóng góp rất quan trọng trong vấn đề xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng hay chúng ta thấy rằng nợ đọng trong xây dựng cơ bản hiện nay mà theo báo cáo ban đầu có khoảng trên 90 nghìn tỷ, nếu chúng ta xử lý được nợ đọng xây dựng cơ bản của chính quyền các cấp, đặc biệt là chính quyền địa phương các cấp thì chúng ta đã xử lý được một khối lượng nợ xấu rất lớn hay chúng ta cũng thấy rằng một khối lượng rất lớn nợ xấu nằm trong lĩnh vực bất động sản. Nếu chúng ta có các giải pháp để khai thông được thị trường bất động sản thì chúng ta cũng góp phần vào việc xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng.
Do vậy, để xử lý được nợ xấu ngân hàng thì phải có một quyết tâm và một ý chí chính trị thống nhất trong toàn hệ thống chính trị của chúng ta. Về vấn đề này về phía ngân hàng Nhà nước, chúng tôi đã xây dựng xong đề án xử lý nợ xấu và chúng tôi đã liên hệ với Văn phòng Trung ương Đảng để Chính phủ báo cáo đề án này với Bộ Chính trị vì trong đó có rất nhiều những nội dung liên quan đến thẩm quyền của Chính phủ, nhưng cũng có những nội dung liên quan đến thẩm quyền của cả Quốc hội và các cơ quan khác. Chúng tôi hy vọng rằng, cùng với đề án này trên cơ sở phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các bộ, ban, ngành Trung ương cũng như địa phương thì chúng ta có cơ sở vững chắc để xử lý được nợ xấu.
Còn với tư cách là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, tôi không thể hứa gì về việc xử lý nợ xấu này. Vì như tôi đã nói ở trên, đây phải là quyết tâm chính trị của cả hệ thống chúng ta. Do vậy, chúng ta không thể đơn phương, nhưng theo Đề án 254 mà chúng tôi đã trình và đã được Chính phủ thông qua thì đến năm 2015, chúng ta cố gắng đưa nợ xấu của ngân hàng dưới 3% theo đúng thông lệ và chuẩn mực quốc tế.

Trương Minh Hoàng - Cà Mau
Kính thưa Quốc hội.
Tôi cơ bản tán thành với Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2012 và nhiệm vụ của năm 2013. Đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với sự nỗ lực cộng đồng trách nhiệm của toàn xã hội, sự nỗ lực cố gắng của Chính phủ với quyết tâm và những giải pháp quyết liệt đã đạt những kết quả như năm 2012 thì thật đáng trân trọng. Song, với những kết quả đó, nhìn nhận đánh giá một cách nghiêm túc, thẳng thắn mà nói về thực trạng nền kinh tế nước ta còn những điểm yếu kém làm cho chúng ta không khỏi xót xa và trạnh lòng. Với những điều đáng ra mà có thể chúng ta làm tốt hơn, phát hiện sớm hơn và khắc phục nhanh hơn nhưng chúng ta làm chưa được. Ví dụ như chúng ta vừa nghe Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trình bày. Đáng lẽ những việc đó chúng ta phải phát hiện sớm hơn, nhanh hơn và có lẽ chúng ta khẳng định là giờ này chúng ta chưa làm được nhưng đến giờ nào chúng ta làm được. Nhưng bây giờ chưa hứa được thì tôi thấy rất lo.
Trong những dự báo tình hình, định hướng phát triển nền kinh tế, đưa ra những giải pháp chiến lược, sách lược vĩ mô thì để phát triển nền kinh tế một cách căn cơ và bền vững thì chúng ta thấy vẫn còn những hạn chế. Ví dụ, năm 2012 chúng ta đưa ra phát triển tăng trưởng kinh tế thì tôi nhớ là vào kỳ họp thứ hai ngày 28/10/2011 tôi và một số đại biểu đề nghị thôi chúng ta tăng giảm kinh tế tăng trưởng vừa thôi, thấp hơn năm 2011. Nghĩa là chúng ta phải thấp hơn 5,89%, nhưng chúng ta quyết là tăng từ 6 - 6,5% và đến thời điểm chúng ta ước thực hiện đạt 5,25 như vậy chúng ta xác định định hướng dự báo chưa thật chính xác.
Thứ hai, trong điều hành kiềm chế lạm phát những tháng đầu năm chúng ta thấy quyết liệt, đạt được kết quả khá tốt. Chỉ số CPI trong tháng 9 tăng đột biến, tăng 2,2% trong khi tháng 6, 7 chúng ta giảm 0,26% và 0,29%. Những lý do nêu trong báo cáo tôi thấy chưa thật thuyết phục, trong đó chủ yếu là khách quan chứ chưa nói vì sao trong tháng 9 tăng đột biến như vậy. Ví dụ trong đó có nêu là tăng giá của bệnh viện, chúng ta biết rằng đến tháng 9 còn 20/63 tỉnh thành chưa tăng giá bệnh viện trong đó có hai thành phố lớn là Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi thấy do yếu tố khách quan như vậy cũng chưa phải.
Vấn đề thứ ba, những thiếu sót trong điều hành hệ thống ngân hàng, thị trường bất động sản chậm có giải pháp và chậm phát hiện như Thống đốc Ngân hàng vừa mới phát biểu. Đến thời điểm này chưa định hướng đến thời điểm nào thì giải quyết được. Trong đó không tránh khỏi sẽ đặt ra là có lợi ích nhóm hay không hay thị trường có thả nổi hay không, đặc biệt là bất động sản, điều đó đã góp phần tăng nhanh nợ xấu, môi trường bị ảnh hưởng nghiêm trọng và ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. Kinh tế suy giảm và tiếp tục có nguy cơ suy giảm hơn, tác động đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và lòng tin của nhân dân.
Thưa Quốc hội, để năm 2013 thực hiện đạt mục tiêu đề ra, tôi cơ bản đồng tình với 9 nhóm giải pháp như Chính phủ đã nêu trong đó cũng đã nêu những giải pháp định hướng xử lý và cũng có nhiều ý kiến phát biểu từ sáng đến giờ là góp phần cho giải pháp về nợ xấu, chỉ ra các giải pháp. Song, tôi xin đề xuất kiến nghị Chính phủ một số vấn đề như sau:
Một, ngoài những giải pháp, tầm nhìn chiến lược dài hạn để phát triển nền kinh tế đất nước bền vững cần xác định những nhiệm vụ trung hạn gắn liền với việc giao ngân sách cho địa phương, để các địa phương chủ động cần giảm nguồn quản lý tập trung ở các bộ, ngành trung ương. Có như vậy địa phương sẽ chủ động và chịu trách nhiệm dự án công trình việc gì là bức xúc, cấp bách phải làm trước. Ví như Đồng bằng Sông Cửu Long vựa lúa của cả nước, Cà Mau là vựa tôm của cả nước. Trong năm 2012 riêng thủy sản của Cà Mau đóng góp gần bằng 1/6 xuất khẩu thủy sản cả nước. Các tỉnh có biển, đảo sẽ chủ động trong việc đầu tư giống, cây con, công trình thủy lợi phục vụ tưới tiêu để ngăn triều cường và đầu tư phương tiện đánh bắt xa bờ, trong việc đánh bắt xa bờ không những việc khai thác nguồn lợi thủy sản mà là còn là trách nhiệm bảo vệ biển, đảo.
Hai là cần đẩy mạnh đầu tư những công trình trọng điểm quốc gia, công trình Quốc lộ 1A mở rộng những đoạn đường thuộc tuyến đường Hồ Chí Minh mà nơi đó chưa có đường nào thay thế. Quan tâm đầu tư đê biển, đê sông, những nơi xung yếu đã và đang có nguy cơ sạt lở nghiêm trọng.
Ba là cần đặc biệt quan tâm đến phát triển sản xuất thị trường đồng bộ nói chung lĩnh vực phát triển sản xuất và thị trường tiêu thụ nông sản thực phẩm do sản xuất từ người nông dân nói riêng. Thực tế đã qua đầu tư trực tiếp cho khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp thủy sản là ít hơn so với các khu vực khác, trong chúng ta cũng đã có giám sát đầu tư nông nghiệp nông thôn vừa rồi. Nhưng nhìn lại năm qua sản phẩm do khu vực này tăng 0,3% so với mục tiêu nghị quyết. Khu vực công nghiệp xây dựng và dịch vụ giảm 2,85% và một khu vực nữa giảm 0,5% vì vậy chúng tôi rất mong Chính phủ cần phải quan tâm đầu tư thêm tương đối công bằng trực tiếp cho lĩnh vực nông nghiệp nông dân và nông thôn. Xin cám ơn Quốc hội.

(Nghỉ giải lao)

Tôn Thị Ngọc Hạnh - Đắk Nông
Kính thưa Chủ tọa kỳ họp,
Kính thưa Quốc hội,
Kết quả đạt được về kinh tế, xã hội năm 2012 cho thấy với những giải pháp cơ bản và biện pháp thực hiện quyết liệt của Chính phủ tuy còn tiềm ẩn những bất ổn, nhưng nhìn chung đã đạt được mục tiêu lớn nhất, đó là ổn định kinh tế-xã hội năm 2012.
Về cơ bản, tôi nhất trí nội dung báo cáo tình hình kinh tế-xã hội năm 2012 và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2013 của Chính phủ thông qua tiếp xúc cử tri và thực hiện nhiệm vụ giám sát của mình. Tôi xin tham gia một số ý kiến về nội dung, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2013 như sau:
Báo cáo đưa ra 9 nhiệm vụ giải pháp phát triển các ngành, các lĩnh vực tương đối đầy đủ và toàn diện. Trong phần nhiệm vụ giải pháp thứ 3, đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tôi xin nêu 2 vấn đề.
Vấn đề thứ nhất, từ sáng tới giờ rất nhiều ý kiến quan tâm tới vấn đề nợ xấu của ngân hàng và đặc biệt qua phần Báo cáo của Thống đốc ngân hàng Nhà nước vừa rồi, tôi xin được trình bày ý kiến thứ nhất của mình như sau, tức là tại nhiệm vụ, giải pháp thực hiện tái cơ cấu hệ thống của các tổ chức tín dụng có đặt ra chỉ tiêu phấn đấu nợ xấu của các ngân hàng thương mại Nhà nước giảm xuống dưới 3%. Theo tôi, thực hiện giảm xuống dưới 3% nợ xấu của các ngân hàng thương mại Nhà nước phù hợp với lộ trình đã vạch ra trong đề án cơ cấu lại hệ thống của tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, vấn đề đánh giá nợ xấu còn dựa trên yếu tố định tính, chủ quan của các tổ chức tín dụng. Vậy Chính phủ đã có biện pháp như thế nào để các ngân hàng thương mại nói chung báo cáo đúng thực chất hoạt động hạn chế được yếu tố chủ quan từ đánh giá sai lệch nợ xấu của các ngân hàng. Từ đó hình thành số liệu thật tin cậy để công tác điều hành vĩ mô, công tác tài chính tiền tệ được hiệu quả về trước mắt, cũng như lâu dài.
Vấn đề thứ hai là Chính phủ cần quan tâm hơn đến cân đối cơ cấu đầu tư vốn để phát triển cân đối vùng, miền, cụ thể là việc bố trí vốn nói chung phải đảm bảo sự phát triển cân đối hài hòa kinh tế-xã hội giữa miền núi và đồng bằng, giữa nông thôn và đô thị, hạn chế sự phân hóa giàu, nghèo, khoảng cách giữa nông thôn và thành thị trong nền kinh tế thị trường, Tây Nguyên có trên 5 triệu dân và là vùng trọng điểm sản xuất cây công nghiệp của cả nước, trên 95% sản lượng cà phê xuất khẩu của nước ta đều sản xuất ra từ Tây Nguyên, giá trị kim ngạch xuất khẩu đứng thứ hai sau nông sản lúa gạo. Liên tục nhiều năm nước ta đứng đầu thế giới về kim ngạch xuất khẩu tiêu với sự đóng góp lớn của Tây Nguyên, bên cạnh đó các loại nông sản khác như cao su, điều sản xuất tại vùng này có kim ngạch xuất khẩu đạt thứ hạng cao của nền kinh tế.
Trong 9 nhóm hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam, Tây Nguyên có đến 6 mặt hàng tham gia, nhưng trên thực tế hạ tầng cơ sở của Tây Nguyên còn rất nhiều khó khăn. Tình hình hạ tầng cho nông nghiệp nông thôn ngày càng xuống cấp, các công trình thủy lợi từ các hồ chứa nước đến hệ thống kênh mương đều thiếu vốn đầu tư, nâng cấp, sửa chữa, bảo dưỡng. Đặc biệt, Quốc lộ 14, con đường huyết mạch kết nối giao thông vận chuyển nông sản, hàng hóa giữa 4 tỉnh Tây Nguyên là Kontum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và các tỉnh đồng bằng, nhưng hiện nay đang xuống cấp trầm trọng. Tai nạn thường xuyên xảy ra gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản hàng năm. Vấn đề này các phương tiện thông tin đại chúng đã lên tiếng và đã có nhiều hội nghị bàn đến của ban chỉ đạo Tây Nguyên. Bộ Giao thông vận tải, ngay cả Ủy ban Khoa học công nghệ và môi trường của Quốc hội đã giám sát chuyên đề và tổ chức hội thảo về hệ thống giao thông của Quốc lộ 14 qua các tỉnh Tây Nguyên vào tháng 9-2012 đều đặt ra giải pháp tháo gỡ, nhưng hiện nay vẫn chưa có chuyển biến. Trong khi đó Quốc lộ 14 ngày càng xuống cấp trầm trọng, cử tri đang mong đợi việc đầu tư, phân bổ ngân sách của Quốc hội, Chính phủ trong năm 2013.
Ngoài ra còn nhiều chương trình mục tiêu quốc gia đầu tư cho khu vực Tây Nguyên còn bất cập, như đầu tư căn cứ vào số dân có hộ khẩu, trong khi đó hàng trăm nghìn người dân từ các vùng miền, đặc biệt là các tỉnh phía Bắc đến sinh sống chưa được thống kê đầy đủ. Quy mô vốn đầu tư đối với từng chương trình còn rất thấp, khó có thể chuyển biến thực trạng cuộc sống còn rất khó khăn của khu vực nông thôn Tây Nguyên, trong đó có tỉnh Đăk Nông.
Do đó, tôi đề nghị trong nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội Chính phủ cần quan tâm đầu tư trên cơ sở cân đối phát triển giữa các vùng, miền. Trước mắt, đề nghị Quốc hội, Chính phủ cần ưu tiên bố trí vốn để đầu tư, nâng cấp Quốc lộ 14, có thể phát hành trái phiếu Chính phủ để tạo điều kiện cho kinh tế vùng Tây Nguyên phát triển bền vững, góp phần bảo đảm an ninh, quốc phòng.
Vấn đề thứ ba, cần có giải pháp tăng cường nguồn vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh khu vực nông nghiệp, nông thôn Tây nguyên. Vì với tốc độ phát triển ngày càng tăng, nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh ngày càng cao nhưng nguồn vốn huy động tại địa phương rất hạn chế. Cụ thể có trên 80% tổ chức kinh tế doanh nghiệp hộ gia đình, cá nhân ở khu vực này thiếu vốn để sản xuất, kinh doanh. Với mức vốn cần vay từ 40 đến 80% chi phí. Trong khi đó nguồn vốn tại địa phương để phục vụ nhu cầu vay vốn của các tổ chức tín dụng chỉ đáp ứng được 50 đến 60%.
Do đó, tôi đề nghị Chính phủ có giải pháp cân đối vốn cho khu vực nông nghiệp, nông thôn Tây nguyên. Có thể chuyển giao hoặc cho vay với lãi suất thấp với nguồn vốn ngân sách, các quỹ tài chính nhà nước, quỹ bảo hiểm xã hội v.v... tạm thời chưa sử dụng để đầu tư sản xuất, kinh doanh khu vực nông nghiệp, nông thôn Tây nguyên thông qua các Ngân hàng thương mại với nguyên tắc có hoàn trả và bảo toàn vốn. Vừa kích thích các ngân hàng thương mại mở rộng tổ chức mạng lưới, vừa đáp ứng nhu cầu vay vốn để sản xuất, kinh doanh ở khu vực nông thôn, Tây nguyên. Tôi xin  hết ý kiến, xin cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Văn Thịnh - Hưng Yên
Kính thưa Quốc hội.
Về cơ bản tôi bày tỏ sự đồng tình với báo cáo của Chính phủ trong việc đánh giá tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 và nhiệm vụ năm 2013 do Thủ tướng Chính phủ trình bày tại phiên họp khai mạc ngày 22/10/2012 vừa qua. Về đánh giá tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 trong báo cáo của Chính phủ cơ bản đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá khách quan tình hình kinh tế - xã hội. Tuy nhiên tôi đề nghị cần đánh giá sâu hơn làm rõ thêm ba nội dung sau:
Một là đánh giá sâu hơn để làm rõ thêm vai trò của nông nghiệp đối với ổn định tình hình và phát triển đất nước, trong báo cáo Chính phủ khẳng định nông nghiệp tiếp tục tăng trưởng cao, khẳng định vai trò quan trọng trong ổn định và phát triển đất nước. Vậy, chúng ta phải có cách đánh giá chi tiết, cụ thể về vai trò của nhà nước trong việc hỗ trợ đầu tư cho nông nghiệp để nông nghiệp tiếp tục phát triển cao. Từ đó tìm ra được nguyên nhân để chúng ta có sự tập trung đúng hướng đầu tư cho nông nghiệp trong những năm tiếp theo.
Hai là đánh giá cụ thể hơn, chi tiết hơn nguyên nhân một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả thấp, vi phạm pháp luật gây thất thoát lớn tài sản nhà nước, từ đó tìm ra lối thoát cho việc tái cơ cấu các tập đoàn, tổng công ty này có hiệu quả.
Ba là về an sinh xã hội cần đánh giá cụ thể, khách quan hơn về chỉ tiêu tạo việc làm mới cho người lao động. Trong báo cáo có đánh giá mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng qua 9 tháng đã giải quyết được 1,13 triệu việc làm mới ước cả năm đạt khoảng 1,52 triệu. Trong khi trong báo cáo không đả động gì tới số lao động mất việc làm bởi trong báo cáo có nói là trong 9 tháng chỉ có tới 51.000 doanh nghiệp đăng ký mới nhưng cũng có đến 40.000 doanh nghiệp giải thể hoặc ngừng hoạt động, ngoài ra còn có một số doanh nghiệp dừng hoạt động mà không đăng ký.
Phần b, về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2013 tôi xin đề nghị hai nội dung:
Một là về nông dân, nông nghiệp, nông thôn như trình bày ở trên vai trò của nông nghiệp là rất to lớn đối với sự ổn định tình hình, đặc biệt là trong điều kiện khó khăn như hiện nay. Kính thưa Quốc hội, kể từ khi đất nước ta đổi mới đặc biệt là những năm gần đây ta có sự chuyển dịch cơ cấu lao động một cách mạnh mẽ, tỷ lệ lao động làm công nghiệp và dịch  vụ tăng, tỷ lệ lao động làm nông nghiệp giảm nhưng nhìn tổng thể nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế và nông dân là lực lượng lao động rất đông đảo và nông thôn là địa bàn rất rộng lớn.
Nhận thức được vấn đề này Đảng đã có nghị quyết chuyên đề về tam nông, nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Chúng ta cũng đã cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng bằng rất nhiều các chính sách, các chương trình trong đó chương trình nông thôn mới là một trong những chương trình lớn được các tầng lớp nhân dân rất đồng tình đón nhận. Nhưng khi tiếp xúc cử tri tôi thấy nhận thức của nhiều cán bộ nông thôn, xã, hiểu chưa đúng vai trò của địa phương, của các ban ngành đoàn thể, của từng gia đình trong việc thực hiện chương trình này mà họ hiểu rằng việc xây dựng nông thôn mới chỉ là xây dựng cơ sở hạ tầng và việc xây dựng hạ tầng lại do ngân sách của trên cấp, bởi vậy có rất nhiều ý kiến cử tri nói là đề án đã được duyệt nhưng trên cấp tiền chậm vì vậy không thực hiện được. Do đó, tôi đề nghị chương trình xây dựng nông thôn mới phải được cụ thể hóa bắt đầu bằng việc tuyên truyền để mọi cấp, mọi nghành, mọi người phải hiểu việc nào là mỗi người mỗi nhà phải làm, việc nào là cộng đồng phải làm và việc nào là phối kết hợp giữa Nhà nước và nhân dân cùng làm và có cơ chế tháo gỡ khó khăn về vốn để địa phương thực hiện, có như thế thì chương trình xây dựng nông thôn mới mới đi vào cuộc sống và mới có thể trở thành hiện thực trong vài thập niên tới.
Hai là về tái cấu trúc các doanh nghiệp, Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước, trong những năm qua chúng ta rất hy vọng vào những quả đấm thép, tạo sức bật cho nền kinh tế, nhưng đến nay chúng ta đang thất vọng bởi như có đại biểu nói là những quả đấm thép thì đang tan chảy mà theo Báo cáo đánh giá của Chính phủ thì một số Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước hoạt động kinh doanh hiệu quả thấp, vi phạm pháp luật, gây thất thoát lớn tài sản Nhà nước. Do đó, tôi đề nghị không thể dùng ý chí chủ quan mà trong năm 2013 rút từ 21 Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước xuống còn dưới 10 Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước mà phải có một sự đánh giá phân tích làm rõ nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn đến Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước trong thời gian qua kinh doanh hiệu quả thấp, vi phạm pháp luật gây thất thoát lớn tài sản của Nhà nước, có như thế mới có giải pháp thích hợp cho tái cơ cấu các Tập đoàn, Tổng công ty này. Tôi xin hết ý kiến, xin cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Anh Sơn - Nam Định
Kính thưa Chủ tọa kỳ họp,
Kính thưa Quốc hội,
Tôi xin phát biểu về kết quả triển khai nhiệm vụ quốc phòng năm 2012 và những kiến nghị cụ thể về triển khai nhiệm vụ quốc phòng năm 2013. Đây là nội dung mà các đại biểu Quốc hội phát biểu trước tôi, còn ít đề cập đến.
Trước hết, tôi xin thể hiện sự tán thành cao đối với Báo cáo chung của Chính phủ và Báo cáo bổ sung về kết quả triển khai nhiệm vụ quốc phòng, an ninh năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ của công tác này năm 2013. Trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới đang diễn biến phức tạp đầy bất ổn, đặc biệt là khu vực biển Đông hết sức căng thẳng do tranh chấp chủ quyền biển đảo của các quốc gia liên quan, tình hình đó có tác động rất lớn đến triển khai nhiệm vụ quốc phòng của nước ta.
Cùng với việc tập trung nguồn lực và sự chỉ đạo điều hành quyết liệt vào nhiệm vụ kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, chúng ta đã luôn dành sự quan tâm thích đáng đến nhiệm vụ triển khai thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ với nòng cốt là Bộ Quốc phòng và sự phối hợp đồng bộ chặt chẽ của các bộ, ngành, các địa phương. Chúng ta đã tiếp tục xây dựng và củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc trên các địa bàn trọng điểm, giữ vững môi trường hòa bình để đảm bảo chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Trong điều kiện nguồn ngân sách nhà nước hết sức khó khăn, chúng ta đã đảm bảo nhiệm vụ chi cho triển khai nhiệm vụ quốc phòng, nhất là mua sắm vũ khí, trang thiết bị cho các lực lượng vũ trang.
Việc mua mới, đóng mới những con tàu hiện đại, máy bay và vũ khí thế hệ mới trang bị cho hải quân, cho cảnh sát biển, cho không quân đã góp phần nâng cao sức chiến đấu, khả năng tác chiến của lực lượng vũ trang trong tình hình mới và góp phần củng cố nâng cao niềm tin của nhân dân cả nước về ý chí và quyết tâm của chúng ta trong việc sẵn sàng bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Nhiều chế độ chính sách, chủ trương mới được ban hành và triển khai tích cực, đã góp phần nâng cao đời sống của lực lượng vũ trang. Tuy nhiên, trong triển khai nhiệm vụ quốc phòng năm 2012 vẫn còn bộc lộ một số hạn chế bất cập.
Một là một số chế độ chính sách quy định của pháp luật khi triển khai chưa có nguồn lực tài chính để đảm bảo đồng bộ tương xứng nên hạn chế kết quả đạt được. Ví dụ nguồn ngân sách đảm bảo cho việc triển khai Luật dân quân tự vệ, việc huấn luyện các dự bị động viên phục vụ các cuộc diễn tập phòng thủ ở các địa phương có lúc còn khó khăn, có những quy định ngày càng tỏ ra không phù hợp với thực tế nhưng vẫn chậm được điều chỉnh. Ví dụ quy định diện miễn, hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự quá rộng dẫn đến bất bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ quân sự ở các nhóm dân cư, các vùng, miền ảnh hưởng đến chất lượng công tác tuyển quân. Đây là một nội dung cử tri các địa phương và một số ủy ban của Quốc hội đã kiến nghị nhiều lần nhưng vẫn chậm được sửa chữa.
Hai, nhiệm vụ kết hợp kinh tế quốc phòng có nơi, có lúc, có địa phương chưa được quan tâm đúng mức nếu như không nói là còn bị xem nhẹ. Ví dụ việc để người nước ngoài kinh doanh nuôi trồng thủy sản ở những vùng biển nhạy cảm về quân sự, việc tham gia ý kiến của Bộ Quốc phòng, của các quân khu, của Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh và các dự án phát triển kinh tế ở các địa phương có lúc chưa được coi trọng đúng mức.
Ba, công tác giáo dục quốc phòng an ninh chưa đạt được kết quả như mong muốn, tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo tuy được quan tâm nhưng cũng có những nội dung chưa kịp thời làm cho một bộ phận nhân dân chưa hiểu rõ dẫn đến những lo lắng, băn khoăn không đáng có về chủ quyền biển đảo. Chúng ta cũng chưa có lực lượng đủ mạnh để hỗ trợ cho ngư dân yên tâm đánh bắt ở các vùng biển xa. Nguồn ngân sách đảm bảo cho nhiệm vụ quốc phòng tuy lớn nhưng mới chỉ đáp ứng được cho nhiệm vụ nuôi quân huấn luyện cơ bản, phần chi cho mua sắm mới tuy có cố gắng nhưng vẫn còn hạn chế.
Thứ tư, đời sống lực lượng vũ trang còn khó khăn cả về vật chất và tinh thần. Mức ăn của chiến sỹ bộ binh mới chỉ tương đương một bát phở ở mức trung bình cao ở Hà Nội. Ra thăm các chiến sỹ Trường Sa chúng ta gặp ở đấy những người lính, những người chiến sỹ, người dân và các lực lượng bảo vệ biển đảo họ rất quyết tâm, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì chủ quyền biển đảo. Nhưng chúng ta không khỏi nhói lòng khi biết rằng có những cán bộ chiến sỹ do nhiệm vụ nhiều năm không được trở về đất liền, ở quê xa họ có cha già, mẹ yếu, con đau mà không có điều kiện về chăm sóc. Như thế chúng ta thấy sự  hy sinh của những người chiến sỹ ở biển đảo, ở biên cương thật lớn lao, đáng trân trọng. Nhưng sự quan tâm của xã hội, của nhà nước đối với gia đình, người thân của họ cũng còn nhiều hạn chế. Để tiếp tục triển khai thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng năm 2013, chúng tôi xin kiến nghị Chính phủ quan tâm một số nội dung sau đây.
Một, tiếp tục tăng cường việc chỉ đạo chặt chẽ hơn nữa nhiệm vụ kết hợp kinh tế, quốc phòng ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, kiên quyết không vì nhiệm vụ kinh tế mà sao nhãng nhiệm vụ quốc phòng, nhất là ở các địa bàn trọng điểm, vùng biên giới, vùng hải đảo.
Hai, sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách liên quan đến nhiệm vụ quốc phòng cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Ba, dành sự quan tâm nhiều hơn đến yếu tố con người trong lực lượng vũ trang, đảm bảo điều kiện sinh hoạt cho cán bộ, chiến sỹ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng và có những chính sách để chăm lo cho gia đình người chiến sỹ để họ yên tâm chắc tay súng bảo vệ Tổ quốc.
Bốn, tiếp tục triển khai các dự án trọng điểm thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Năm, đảm bảo nguồn tài chính ngân sách để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh năm 2013.
Kính thưa Quốc hội, theo dõi Kỳ họp thứ 4 đang diễn ra, cử tri ở một số địa phương có chuyển cho chúng tôi và đề nghị chúng tôi chuyển tới Quốc hội, tới Chính phủ, tới các bộ, ngành liên quan một kiến nghị sau đây:
Vừa qua cơn bão Sơn Tinh tràn vào một số địa phương và đã gây hậu quả rất nặng nề. Cử tri của các địa phương trân trọng đề nghị Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành liên quan có biện pháp hỗ trợ các tỉnh, các địa phương chịu ảnh hưởng trực tiếp của cơn bão này sớm khắc phục hậu quả cơn bão, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Quốc hội.

Bùi Quang Vinh - Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư
Kính thưa Chủ tọa kỳ họp.
Thưa các vị đại biểu Quốc hội.
Theo chỉ đạo của Chủ tọa kỳ họp, tôi xin phát biểu về vấn đề đầu tư công. Trước khi vào nội dụng cụ thể này, tôi thay mặt cho Bộ Kế hoạch đầu tư cũng như Chính phủ rất trân trọng tiếp thu những ý kiến của các đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ cũng như tại hội trường về các vấn đề kinh tế, xã hội. Trong đó, đặc biệt phân tích những nguyên nhân hạn chế, yếu kém và đặc biệt là những giải pháp để khắc phục những hạn chế này trong năm 2013. Chúng tôi sẽ tiếp thu đầy đủ, sẽ nghiên cứu chọn lọc để bổ sung thêm, làm rõ thêm những vấn đề trong giải pháp thực hiện chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2013, làm sao chúng ta có thể vượt qua những khó khăn của năm 2013 thực hiện tốt hơn. Đấy là những vấn đề chung chúng tôi xin tiếp thu.
Rất cảm ơn các đại biểu Quốc hội.
Về vấn đề đầu tư công. Đây là vấn đề chúng ta nói rất nhiều và đã nói rất nhiều trong nhiều năm.
Một trong những vấn đề bức xúc là vấn đề đầu tư dàn trải và hiệu quả kém. Đó là một thực tiễn mà chúng ta rất trăn trở. Ở đây chúng tôi chỉ muốn nói thêm một vấn đề là vừa qua Bộ Kế hoạch đầu tư cũng như Chính phủ và các bộ, ngành có liên quan đã cố gắng hết sức làm sao để đưa được những giải pháp để từng bước ngăn chặn tình trạng này, làm sao đầu tư tập trung hơn và nâng cao hiệu quả đầu tư. Trước hết, Quốc hội đã quyết định tại kỳ họp trước, một trong những giải pháp là trong trái phiếu Chính phủ thì chúng ta đã phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ, rà soát lại cho bốn năm 2012 đến 2015.
Đến nay thì toàn bộ danh mục và tiền của trái phiếu Chính phủ đã được phân bổ cho từng danh mục một. Như vậy, các địa phương thì rõ ràng mình có danh mục nào được đầu tư và cũng không bị đầu tư quá, cũng rõ ràng những việc là những danh mục, công trình nào sẽ hoàn thành và danh mục nào sẽ phải dùng nguồn khác để bù đắp. Đấy là một việc rất minh bạch, rõ ràng, tôi nghĩ làm được như vậy thì rất tốt, từ nay đến năm 2015 chúng ta không cần phải phân bổ.
Trong khi báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội của vốn trái phiếu Chính phủ năm 2013, Chủ tịch Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã quyết định đưa ra kỳ họp lần này, trong Báo cáo thẩm tra của Ủy ban kinh tế nêu vì vốn đã phân bổ cho từng danh mục, cho nên để cuốn chiếu, làm nhanh, hiệu quả, chúng ta có thể tính toán khả năng về phát hành thêm khoảng 60 nghìn vốn trái phiếu Chính phủ để có thể bổ sung cho các danh mục mà trái phiếu Chính phủ đã bố trí trong năm 2013 thì có thể để tiết kiệm và các đơn vị làm nhanh lên và nó cũng không lãng phí thì đấy là một điều chúng tôi cho rằng rất tốt. Đề nghị các đại biểu Quốc hội cho ý kiến.
Một vấn đề nữa trong đầu tư, tôi muốn nêu một ý, năm 2013 nhu cầu đầu tư của các địa phương và các bộ, ngành Trung ương là vô cùng to lớn, có thể nói nguồn lực của chúng ta đáp ứng rất thấp so với nhu cầu, cho nên rất nhiều vấn đề bức xúc mà các địa phương, các bộ, ngành nêu thì chúng tôi rất thông cảm và thực tế cơ quan phụ trách vấn đề này, chúng tôi cũng bị rất nhiều áp lực và chúng tôi rất chia sẻ với các địa phương, khi mà những tuyến đường dở dang như vậy, xấu như vậy mà không được đầu tư, rõ ràng nguồn lực của chúng ta rất hạn hẹp. Năm nay Chính phủ đề xuất là 180 nghìn tỷ, mặc dù rất thấp so với nhu cầu, nhưng đây cũng là mức rất cố gắng của ngân sách Nhà nước, có thể nói là rất cố gắng của ngân sách Nhà nước và nếu như chúng ta xem xét vẫn tiếp tục tăng lương thì có khả năng con số này còn phải giảm đi nữa, chứ không phải ở con số này còn thấp hơn rất nhiều so với nhu cầu.
Ở đây tôi muốn nêu trong số 180 nghìn tỷ này thì có 39 nghìn tỷ dự kiến là tiền thu từ bán đất, tiền sử dụng đất, cho nên thực chất số thật nếu các địa phương không thu được trong điều kiện tình hình kinh tế đang khó khăn, bất động sản đóng băng như thế này thì con số thực tế chỉ có thể đạt 140.000 - 141.000 tỷ thôi còn thấp hơn rất nhiều số này,  và tôi chắc rằng số 39.000 tỷ này rất khó khăn thực hiện vào năm 2013. Trong 180.000 tỷ này Bộ Tài chính cùng Bộ Kế hoạch và đầu tư đã trình Chính phủ là cân đối trong ngân sách của các địa phương là 93.100 tỷ chiếm trên 50% tổng số vốn này, như vậy số này nằm trong cân đối ngân sách của địa phương do địa phương hoàn toàn chủ động quyết định, Hội đồng nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định, các địa phương quyết định, trên Trung ương không phân bổ.
Thứ hai, trong báo cáo về phân bổ ngân sách năm 2013 của Bộ Tài chính do đồng chí bộ trưởng trình bày thì ngoài số 93.000 tỷ cân đối cho các địa phương thì trừ đi phần chi chung của ngân sách nhà nước là chi bù đắp cho ngân hàng chính sách xã hội, các ngân hàng phát triển Việt Nam, dự trữ v.v... mất khoảng 10%, khoảng 20.000 tỷ, số thực tế còn lại của ngân sách Trung ương chỉ có 66.000 tỷ, và tiếp tục hỗ trợ các chương trình mục tiêu quốc gia và hỗ trợ chương trình có mục tiêu 39.000 tỷ cho các địa phương nữa, nên địa phương đã chiếm tới 73% trên tổng số vốn của 180.000 tỷ, của Trung ương chỉ có 27.000 tỷ cho tất cả các nhu cầu cùa trung ương. Tôi nói cơ cấu này để các địa phương rất chia sẻ là trong điều kiện ngân sách rất nhỏ này thì tất cả đều cân đối cho địa phương, tỷ trọng rất lớn.
Như vậy, đặt ra vấn đề là trong dàn trải này vừa qua chúng tôi có đi kiểm tra theo tinh thần Chỉ thị 1792 thì thấy rằng hầu hết cân đối trên Trung ương hỗ trợ cho các địa phương. Sau Chỉ thị 1792 của Thủ tướng Chính phủ được siết chặt nhiều, và có thể nói cơ bản giảm rất nhiều đầu tư mang tính chất dàn trải và tập trung cho cho công trình dở dang và hoàn thành, cơ bản số liệu này giảm bớt rất nhiều, nhưng phần rất lớn là nằm ở các địa phương cân đối và do chủ quyền các địa phương cân đối vẫn còn dàn trải. Qua kiểm tra có một số tỉnh làm tốt như Bà Rịa - Vũng Tàu rất nghiêm túc nhưng có rất nhiều địa phương vẫn tiếp tục bố trí phần mình quản lý. Cho nên tôi muốn nói ở đây một trong nguyên nhân dàn trải ở đâu? là các địa phương phải có nhận thức rất mạnh và rõ ràng về vấn đề thực hiện chỉ thị mà không bố trí dàn trải tập trung.
Tôi đề nghị để một trong những biện pháp khắc phục vấn đề này thì các đoàn đại biểu Quốc hội của các địa phương sẽ giám sát việc bố trí vốn của các Ủy ban nhân dân ở địa phương mình. Bởi vì hiện nay Chính phủ đã giao toàn bộ tiền đó do Ủy ban nhân dân địa phương tự bố trí danh mục công trình và hoàn toàn quyết định, chỉ có phần bố trí chương trình hỗ trợ các mục tiêu thì cũng tự bố trí và chỉ đưa lên trên này thẩm định thôi. Cho nên phần thẩm định của Trung ương thì làm chặt. Đây là một nguyên nhân chúng tôi muốn để khắc phục vấn đề này thì đề nghị đoàn đại biểu các địa phương, các đồng chí giám sát cho việc này, kiểm tra việc này. Đấy là một biện pháp rất tốt để chúng ta làm chặt lại. Hiện nay vẫn còn hiện tượng dàn trải ở nguồn vốn này. Đấy là ý thứ hai tôi muốn nêu.
Về vấn đề nợ xấu. Trong báo cáo hiện nay của Bộ Tài chính thống kê thì có khoảng 91.000 tỷ đồng nợ xây dựng cơ bản. Tuy nhiên, trong này Bộ Tài chính đưa ra có 26.000 tỷ đồng là nợ các công trình đã hoàn thành, còn lại là nợ các công trình đang chuyển tiếp, nhưng theo số liệu của Bộ Kế hoạch đầu tư đến 31-12 thì con số này chỉ là 85.000 tỷ. Chúng tôi loại ra một số nguồn vốn không thuộc ngân sách Nhà nước. Trong đó phần nợ xây dựng cơ bản các công trình đã hoàn thành mà nợ chưa thanh toán là 15.457 tỷ. Còn lại 69.000 tỷ là cấp các đồng chí đang chuyển tiếp, đang thi công, đang thanh toán dần. Tổng cộng là như vậy. Cho nên ở đây vấn đề đặt ra là chính phần nợ này của những năm về trước thì như vậy. Nhưng trong thời gian gần đây, Chỉ thị 1792 ra rất chặt.
Chúng tôi tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội thì Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư đã tham mưu cho Chính phủ ra chỉ thị về giải quyết vấn đề nợ đọng xây dựng cơ bản. Trong này quy định, bộ trưởng, chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh mà bố trí vốn, quyết định đầu tư công trình mà không có đủ vốn để thi công, để gây ra nợ thì phải tự chịu trách nhiệm. Bây giờ một trong những biện pháp mà chúng tôi đề nghị là trong ngân sách của 3 năm 2013-2015 còn lại thì chúng tôi đề xuất với Chính phủ và đề xuất với Quốc hội cho phép xây dựng kế hoạch trung hạn 3 năm 2013-2015 tương tự như làm với trái phiếu Chính phủ. Như vậy, tất cả các địa phương sẽ biết được đến năm 2015 thì địa phương của mình có được bao nhiêu vốn. Từ đó cộng với nguồn thu được từ ngân sách địa phương thì có thể chủ động biết được.
Như vậy, trong thứ tự ưu tiên thì ưu tiên thanh toán phần nợ cơ bản trước rồi mới được bố trí các công trình chuyển tiếp, sau đó mới là khởi công mới. Ý của chúng tôi là như vậy. Tôi cho đây là giải pháp rất quan trọng để chúng ta có thể làm cho các địa phương biết được mình có khả năng bao nhiêu thì không bố trí dàn trải nữa, cộng với 2 giải pháp này thì tôi cho đấy là một giải pháp có thể giải quyết được, hiện nay cũng chưa chính thức có quy định để có thể công bố vấn đề này, nhưng trong quyển xanh gửi đến các đại biểu Quốc hội thì chúng tôi đã dự kiến 3 năm còn lại tổng vốn đầu tư dự kiến cho năm 2014 khoảng 222 nghìn tỷ là tối đa, năm 2015 tối đa không quá 244 nghìn tỷ, như vậy cộng lại chỉ có khoảng trên 600 nghìn tỷ và trong dự kiến phân bổ thì trừ đi 10% dự phòng rủi ro là chúng ta không thu đủ thì còn lại chỉ phân bổ 90% thì đang dự kiến như vậy cũng là một con số sẽ trình Chính phủ để có thể thông báo cho các địa phương biết, có thể pháp lý thì chưa rõ ràng, nhưng thông báo là tối đa chúng ta chỉ có từng đó để các địa phương có thể bố trí chặt chẽ hơn và các bộ, ngành bố trí chặt chẽ hơn. Tôi xin báo cáo có 2 vấn đề như vậy, thời gian có hạn, tôi muốn nêu một vấn đề và đồng thời cũng là một giải pháp để chúng ta có thể khắc phục được tình trạng nợ xây dựng cơ bản. Xin cảm ơn Quốc hội.

Huỳnh Phong Tranh - Tổng thanh tra Chính phủ
Kính thưa Quốc hội,
Từ sáng tới giờ Quốc hội thảo luận nhiều vấn đề, nhưng có một vấn đề liên quan đến công tác của ngành thanh tra, chúng tôi xin báo cáo lại với Quốc hội một số liệu của đại biểu Lê Như Tiến hồi sáng phát biểu tại hội trường. Báo cáo Quốc hội, đối với Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Vinashin thì Chính phủ đã chỉ đạo, thanh tra Chính phủ đã thành lập đoàn thanh tra, thanh tra từ tháng 7 đến tháng 11 năm 2010, thời điểm thanh tra là 4 năm, 2006 - 2009 và thanh tra 3 nhóm vấn đề.
Thứ nhất là thể chế tổ chức hoạt động của Tập đoàn Vinashin.
Thứ hai là tài chính Tập đoàn Vinashin thì huy động vốn, quản lý và sử dụng vốn.
Về hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty mẹ và 14 đơn vị chủ lực.
Thứ ba, quản lý thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản, kiểm tra dự án và mua sắm tàu biển. Như vậy, qua thanh tra trong thời gian 4 năm thì số liệu đến ngày 31/12/2009 có các con số như thế này:
Thứ nhất, số nợ phải trả của Tập đoàn Vinashin đến ngày 31/12/2009 là 86.745 tỷ.
Thứ hai, về số lỗ của Tập đoàn Vinashin, tổng số lỗ 4.985 tỷ trong thời gian lũy kế cho đến cuối năm 2009. Ngoài ra các khoản lỗ tiềm ẩn khác có thể gây lỗ 8.512 tỷ. Như vậy, hai khoản này thì khoản thực lỗ 4.985 tỷ và có khả năng gây lỗ 8.512 tỷ nữa thì hai khoản này cộng lại khả năng lỗ sẽ có thể lên tới 13.400 tỷ. Vậy, trong cái lỗ khả năng tiềm ẩn này thì trong đó gồm chi phí là 2.787 tỷ. Chi phí cho sản xuất dở dang chênh lệch các khoản thu nội bộ không xác định được là 4.688 tỷ và 1.035 tỷ phải phạt trả lãi tiền đặt cọc do các chủ tàu Tập đoàn vi phạm hợp đồng.
Thứ ba, về bảo toàn vốn, đến 31/12/2009 thì Tập đoàn Vinashin không bảo toàn được vốn nhà nước để thâm hụt là 5000 tỷ đồng vốn điều lệ. Như vậy, con số mà chính xác đến thời điểm thanh tra cho đến kết thúc giai đoạn cuối năm 2009 thì nợ của Tập đoàn Vinashin lên 86.000 tỷ chứ không phải là thất thoát. Cho nên chúng tôi cũng muốn nói rõ con số này, riêng lỗ là trên 4000 tỷ. Xin báo cáo với Quốc hội.

Trương Văn Vở - Đồng Nai
Kính thưa Quốc hội,
Tôi đánh giá cao quyết tâm của Chính phủ trong những tháng đầu năm năm 2012 trong bối cảnh khó khăn nhưng đã duy trì được ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát một con số đã nỗ lực khởi động cơ cấu được các khu công nghiệp, khu kinh tế, các tập đoàn kinh tế nhà nước. Tuy nhiên, nhìn tổng thể quản lý điều hành vẫn mang tính tình thế, phản ứng ngắn hạn, thiếu tính hệ thống. Điều này ngoài nguyên nhân Chính phủ đã xác định còn nguyên nhân chủ quan cần lưu ý thêm đó là việc ban hành hoàn thiện các thể chế chính sách chưa kịp thời, chưa thống nhất, chưa đồng bộ, việc phối hợp quản lý điều hành các bộ, ngành địa phương vẫn chưa chặt chẽ thiếu cơ chế trách nhiệm cá nhân. Từ thực trạng này tôi đề nghị ngoài tập trung xử lý những vấn đề cấp bách trong thời gian còn lại của năm 2012 cần quyết tâm tạo sự chuyển động mạnh mẽ trong quản lý điều hành thực hiện quy hoạch, kế hoạch phân bổ nguồn lực theo hướng thoát khỏi tầm nhìn hàng năm nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu nhiệm vụ kinh tế - xã hội và bảo đảm an dân ngay từ năm 2013. Theo đó tôi quan tâm 4 vấn đề như sau:
Một, việc cần làm ngay đó là tháo gỡ nút thắt ngân hàng thừa thanh khoản, doanh nghiệp thiết vốn thông qua thực hiện cơ chế bảo lãnh tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ theo Quyết định 193 của Thủ tướng từ năm 2001. Đây là công cụ lãng quên từ nhiều năm nay. Chỉ đạo xử lý ngay việc thanh toán nợ đọng các công trình đầu tư công cùng với việc giải ngân các công trình từ nguồn vốn tạm ứng trước của năm 2013 đưa vào sử dụng năm 2012. Đây là giải pháp thúc đẩy giải quyết nợ xấu, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công.
Hai, kịp thời sửa đổi, bổ sung đồng bộ thể chế chính sách nhằm tạo môi trường thuận lợi trong sản xuất nông nghiệp, bảo vệ phát triển rừng cụ thể là quan tâm hoàn thiện thể chế pháp lý về chính sách khuyến khích nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo Quyết định 176 năm 2010 của Chính phủ để nâng cao giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp. Chính sách khuyến khích liên kết sản xuất chế biến, tiêu thụ nông sản giữa nông dân và doanh nghiệp, thay thế Quyết định 80/2002 của Thủ tướng Chính phủ theo lời hứa của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn từ kỳ họp thứ hai đến nay chưa được ban hành.
Đi đôi với việc xử lý ngăn chặn thương nhân nước ngoài mua nông sản trái phép trong nước theo Nghị định 90/2007 của Chính phủ. Kịp thời rà soát sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật về lộ trình thực hiện kế hoạch, bảo vệ phát triển rừng giai đoạn 2011 - 2020 theo Nghị quyết 18 của Quốc hội nhằm hạn chế thấp nhất tình trạng chặt phá rừng, bảo vệ môi trường rừng, không vì thủy điện mà làm ảnh hưởng đến rừng đặc dụng, rừng vườn quốc gia. Liên quan vấn đề này tôi xin kiến nghị Thủ tướng Chính phủ quan tâm xem xét và báo cáo tại kỳ họp này của Quốc hội về cơ sở pháp lý triển khai dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6a liên quan đến chuyển mục đích sử dụng rừng vườn quốc gia Cát Tiên.
Ba, về an dân, trước tình hình sức mua thị trường nội địa giảm nếu loại trừ yếu tố giá cả 9 tháng chỉ tăng trên 6% so với cùng kỳ cùng với áp lực thuế, phí cao, số lượng quyết toán ngân sách nhà nước năm 2011 là trên 20%GDP cao gấp từ 2 - 3 lần so với các nước trong khu vực chưa kể phí, thuế, trong cơ cấu giá xăng, dầu cao, đây là mối lo lớn đối với sự phát triển dài hạn của nền kinh tế. Để tháo gỡ khó khăn chung của doanh nghiệp và cải thiện sức mua thị trường nội địa cần quan tâm rà soát cắt giảm các loại phí, lệ phí không phù hợp. Theo đó tôi đề nghị việc thu phí sử dụng đường bộ vào ngày 1/1/2013 cần hết sức cân nhắc tính toán nhằm góp phần bảo đảm an dân. Mặt khác việc thu phí sử dụng đường bộ nhưng người sử dụng lại không được cung cấp dịch vụ là không phù hợp với bản chất là phí.
Bốn, tôi kỳ vọng với quyết tâm đổi mới bộ máy quản lý nhà nước, phân định rõ cơ chế trách nhiệm cá nhân của các cấp các ngành từ Trung ương đến cơ sở để thực hiện 3 đột phá chiến lược trong năm 2013. Không để lợi ích nhóm chi phối sẽ tạo được chuyển biến trong quá trình tái cơ cấu kinh tế đáp ứng được lòng mong đợi của cử tri. Xin cám ơn Quốc hội.

Phạm Thị Phương - Hà Tĩnh
Kính thưa Quốc hội,
Tôi xin phát biểu về 2 vấn đề mà tôi quan tâm là tình hình và kết quả thực hiện bảo hiểm y tế và vấn đề đảm bảo công bằng giới tính khi sinh.
Thứ nhất, về kết quả thực hiện bảo hiểm y tế. Bảo hiểm y tế là sự chia sẻ rủi ro của những người tham gia bảo hiểm y tế, là một chính sách quan trọng trong hệ thống chính sách đảm bảo an sinh xã hội của nước ta, Chính phủ đã có đề án thực hiện lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân giai đoạn 2011 - 2015 và 2020, mục tiêu của đề án là đến 2015 trên 75% dân số tham gia bảo hiểm y tế. Trong Báo cáo của Chính phủ ước đến hết năm 2012 tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 68%. Tuy nhiên tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế ở một số địa phương còn thấp, 7 tỉnh có tỷ lệ dưới 50%, qua tìm hiểu chúng tôi được biết các khó khăn trong thực hiện đề án.
Một, sự thiếu đồng bộ trong công tác chỉ đạo và phối hợp giữa các cấp, các ngành, sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm y tế của hệ thống chính trị đóng vai trò rất quan trọng, thế nhưng cho đến nay vẫn chưa có những chỉ đạo cụ thể, mạnh mẽ của các cấp chính quyền, sự tham gia còn hạn chế của các hội, các đoàn thể, công đoàn trong công tác bảo hiểm y tế, tăng tỷ lệ bảo hiểm y tế là nhiệm vụ kinh tế-xã hội của địa phương mình.
Hai, một số nhóm đối tượng có trách nhiệm tham gia bảo hiểm y tế, nhưng không thực hiện nghiêm các quy định của Luật bảo hiểm y tế, đồng thời trong thực thi Luật bảo hiểm y tế còn thiếu đồng bộ về phương pháp, cũng như phối hợp giữa các cấp, các ngành dẫn đến hạn chế trong việc mở rộng đối tượng tham gia, cụ thể như đối với người lao động trong các doanh nghiệp mới chỉ có 55% người lao động có bảo hiểm y tế, nguyên nhân là do nhận thức của chủ sở hữu, chủ sử dụng lao động về chính sách bảo hiểm y tế chưa đầy đủ, trách nhiệm thực thi pháp luật chưa nghiêm, nên còn nhiều doanh nghiệp không đóng, trốn đóng hoặc đóng không đầy đủ bảo hiểm y tế cho người lao động. Người lao động còn thiếu hiểu biết để đòi hỏi quyền lợi là vì việc làm mà không dám đòi hỏi quyền lợi, trong khi đó lực lượng kiểm tra, thanh tra và xử lý của thanh tra lao động còn quá mỏng để phát hiện và xử lý các vi phạm.
Đối với đối tượng cận nghèo với nhóm đối tượng này mặc dù đã được ngân sách nhà nước hỗ trợ 70%, có tỉnh hỗ trợ thêm người cận nghèo chỉ phải đóng 10 - 20% nhưng kết quả thực hiện chưa cao. Hiện nay cả nước mới chỉ có 25% người cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế, vai trò, trách nhiệm của ngành thương binh xã hội và Ủy ban nhân dân các cấp trong việc tổ chức thực hiện bảo hiểm y tế cho người cận nghèo chưa kịp thời, đầy đủ. Bên cạnh đó nhận thức về lợi ích của việc tham gia bảo hiểm y tế của người dân chưa đầy đủ đã hạn chế số người tham gia. Đối với người tự nguyện tham gia bảo hiểm y tế, chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm đến việc vận động hay tổ chức phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội trong tuyên truyền, vận động, do vậy người dân thiếu thông tin để tham gia bảo hiểm y tế. Thực tế người tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện còn thấp, đa số chỉ là những người mắc bệnh mãn tính, bệnh có chi phí điều trị cao.
Thứ ba, công tác truyền thông, tuyên truyền chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tuyên truyền về chính sách bảo hiểm y tế được phân công cho nhiều cấp, nhiều ngành nhưng chưa cụ thể, rõ ràng, do vậy hiệu quả của công tác này còn hạn chế. Công tác tuyên truyền chưa thường xuyên và sâu rộng nên việc tiếp cận các thông tin về bảo hiểm y tế của người dân còn hạn chế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa nhiều người dân không biết mua bảo hiểm y tế tự nguyện ở đâu và được hưởng quyền lợi gì khi tham gia bảo hiểm y tế.
Thứ bốn, hạn chế trong công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân, thủ tục khám chữa bệnh bảo hiểm y tế còn phức tạp, chất lượng khám chữa bệnh còn hạn chế, quy trình chuyển tuyến còn phiền hà làm giảm đi phần nào ý nghĩa và giá trị khi đi khám bệnh thông qua con đường bảo hiểm y tế. Đây cũng là nguyên nhân làm cho người dân không mong muốn tham gia bảo hiểm y tế.
Từ thực tế đó chúng tôi đề nghị trong báo cáo của Chính phủ cần làm rõ tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế ở các nhóm đối tượng để từ đó có lộ trình cụ thể cho từng nhóm đối tượng. Trong những năm tiếp theo lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân mới có thể hoàn thành theo mục tiêu của đề án. Ở mỗi nhóm đối tượng cần giao trách nhiệm cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương. Trong thực thi đề nghị bổ sung thêm chỉ tiêu tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế và chỉ tiêu nhiệm vụ kinh tế - xã hội hàng năm để phấn đấu thực hiện.
Vấn đề đảm bảo cân bằng giới tính khi sinh. Tỷ lệ giới tính khi sinh ở nước ta đang bị mất cân đối trầm trọng, đang diễn ra với tốc độ gia tăng nhanh. Tỷ lệ giới tính khi sinh bình thường là 106 bé trai/100 bé gái, tỷ lệ này ở Việt Nam năm 2006 là 110/100, năm 2008 là 112/100; năm 2010 là 111,2/100 và chỉ sau 5 tháng năm 2012 tỷ lệ này là 113,2/100, đưa số tỉnh thành phố mất cân bằng giới tính từ 50 năm 2010  lên đến 54 tỉnh thành phố năm 2012, mất cân bằng giới tính khi sinh chưa tạo lên bức xúc hiện tại nhưng là vấn đề nghiêm trọng sau 15 - 20 năm. Khi đó thiếu phụ nữa sẽ gây áp lực về kết hôn, tăng nhu cầu mại dâm, mua bán phụ nữ, bạo hành là nguy cơ phụ nữ và các bé gái phải đối mặt, nguy cơ gây mất trật tự và an toàn xã hội. Nguyên nhân thì đã rõ, do ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo, coi trọng việc nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ ở nhiều vùng nông thôn và vùng biển cần có sức lao động cơ bắp, nhưng chúng tôi không bàn luận về nguyên nhân muốn nói đến giải pháp cho vấn đề này. Chúng ta phải mất gần 40 năm để thực hiện mỗi cặp vợ chồng sinh 1 - 2 con vì thế việc kiểm soát giới tính khi sinh không phải là chuyện ngày một, ngày hai mà là một quá trình liên tục bền bỉ và việc kiểm soát giới tính khi sinh không phải chỉ là trách nhiệm riêng của ngành y tế mà cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự quyết tâm của toàn xã hội. Chúng tôi đề nghị Chính phủ nghiên cứu bổ sung chỉ tiêu phát triển dân số tự nhiên cho phù hợp vào các chỉ tiêu về nhiệm vụ kinh tế xã hội hàng năm để có các giải pháp mạnh mẽ kiểm soát tỷ lệ giới tính khi sinh, đảm bảo phát triển dân số bền vững. Tôi xin hết ý kiến. Xin cảm ơn Quốc hội.

Hoàng Đăng Quang - Quảng Bình
Kính thưa Quốc hội,
Những khó khăn của nền kinh tế đất nước đang là một nỗi lo lớn của Quốc hội, Chính phủ và nhân dân cả nước. Nhiều đại biểu Quốc hội và Báo cáo của Chính phủ đã phân tích khá rõ, tôi phát biểu gần sau cùng tôi xin không đề cập lại chỉ thể hiện sự nhất chí cơ bản với những đánh giá khái quát nêu trong Báo cáo Chính phủ và đánh giá rất cao về sự nỗ lực cố gắng điều hành của Chính phủ trong thời gian qua.
Tuy nhiên có thể thấy rằng hiện nay nền kinh tế đất nước đang còn nhiều yếu kém, dấu hiệu rõ nhất là tổng cầu của nền kinh tế và khả năng sản xuất kinh doanh suy giảm, nợ xấu tăng cao, hàng tồn kho lớn. Đây là những điểm yếu, những căn bệnh kéo dài, làm cản trở quá trình chu chuyển nguồn lực của quốc gia, vì vậy đề nghị Chính phủ đánh giá một cách toàn diện phân tích kỹ hơn những điểm yếu này để có sự chấn chỉnh và lựa chọn  chính sách phù hợp nhất là đối với hệ thống ngân hàng hiện nay. Tôi xin đề cập 3 vấn đề như sau.
Thứ nhất, về tác động của các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Như nhiều đại biểu đã phát biểu, song phải khẳng định rằng trong điều kiện kinh tế đất nước suy giảm từ đầu năm 2011 đến nay Chính phủ đã liên tiếp có các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp giảm bớt được một số áp lực về tài chính trong tình hình khó khăn hiện nay. Tuy nhiên, tác động của một số chính sách có mặt đạt hiệu quả chưa cao, độ trễ của chính sách làm chậm triển khai một số ưu đãi cho doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp thua lỗ, nợ ngân hàng, không vay được vốn, các doanh nghiệp nhỏ ở địa phương hầu như chưa nhận được lợi ích từ gói hỗ trợ 29.000 tỷ đồng của Chính phủ. Chính sách giảm, giãn thuế chưa có sự tác động mạnh mẽ, chưa thực sự cứu giúp doanh nghiệp thoát khỏi khó khăn. Việc tăng giá các mặt hàng điện, xăng, dầu có thời điểm không thích hợp, có những động thái đi ngược lại với một số chính sách đã ban hành làm ảnh hưởng đến niềm tin của doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Từ thực tế nói trên, tôi đề nghị Chính phủ đánh giá lại tác động của các chính sách vừa qua để có sự biến đổi bổ sung kịp thời. Trước mắt đề nghị Chính phủ cho kéo dài thực hiện áp dụng Nghị quyết 13 của Chính phủ đến hết năm 2013 và mở rộng phạm vi áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng có biện pháp kích cầu các mặt hàng tồn kho sản xuất trong nước, bình ổn giá điện, xăng dầu, điều chỉnh tiền thuê đất cho doanh nghiệp để phù hợp với khả năng sản xuất kinh doanh trong điều kiện khó khăn về nguồn vốn. Chính phủ cần khẩn trương chỉ đạo xử lý nợ xấu, có thể nói nợ xấu là vấn đề nóng trong Quốc hội qua nhiều kỳ, được nhiều đại biểu quan tâm nói nhiều nợ xấu ngày càng tăng, các đại biểu đã thảo luận nhiều về cơ chế xử lý, đề xuất nhiều phương án. Tôi cho rằng để giải quyết nợ xấu vấn đề trước hết và có tính quyết định đó là con người. Đề nghị Ngân hàng nhà nước kịp thời chấn chỉnh rà soát và tái cơ cấu lại cán bộ chủ chốt trong hệ thống ngân hàng thương mại, phải đảm bảo có năng lực, có trách nhiệm cao nhằm thiết lập lại một kỷ cương nghiêm ngặt, làm lành mạnh hóa lúc đó mới giải quyết được nợ xấu. Thực tế vừa qua hệ thống ngân hàng thương mại có nhiều cán bộ sai phạm nghiêm trọng.
Vấn đề thứ hai, về các chỉ tiêu chủ yếu năm 2013. Về chỉ tiêu tăng trưởng GDP năm 2013 dự báo tình hình tiếp tục có nhiều khó khăn hơn, vì vậy đề nghị cân nhắc kỹ các nguồn lực đầu tư vì khả năng phục hồi nền kinh tế rất chậm. Do đó tăng trưởng kinh tế năm 2013 phải đặt trong tổng thể mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế và phải căn cứ vào lộ trình đầu nhiệm kỳ mà Quốc hội đã xác định đó là trong 2 - 3 năm đầu tập trung ổn định vĩ mô kiềm chế lạm phát, còn 2 - 3 năm sau tập trung đẩy mạnh tăng trưởng. Do đó tôi đề nghị mức tăng trưởng năm 2013 dao động trong khoảng từ 5 - 5,5% là hợp lý.
Về chỉ tiêu tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tôi cho rằng nếu tăng 30% GDP sẽ khó đạt mức tăng trưởng hợp lý. Năm 2013 cần bố trí vốn để giải quyết các dự án triển khai dở dang bị cắt giảm và đề nghị phát hành trái phiếu công trình để mở rộng Quốc lộ 1A, đây là vấn đề cần thiết và cũng là sự mong muốn của nhân dân. Vì vậy, tôi đề nghị đưa tổng vốn đầu tư toàn xã hội cao hơn 30% GDP đó là một thực tế cần chấp nhận.
Thứ ba, về nhiệm vụ, giải pháp, tôi nhất trí với 9 nhóm nhiệm vụ, giải pháp mà Chính phủ đã đề ra, ở đây tôi xin đề xuất 2 nhóm giải pháp cụ thể như sau:
Một, về chủ trương đầu tư công, tôi cho rằng tái cơ cấu đầu tư công không có nghĩa chỉ tập trung cắt giảm nguồn vốn, đổi lại vốn chỉ là một giải pháp trước mắt, điều quan trọng phải có một cơ chế, một chế tài nghiêm ngặt trong phê duyệt các dự án đầu tư. Vừa qua chúng ta đã thực hiện tương đối tốt việc bố trí vốn ngân sách theo Chỉ thị 1792 của Thủ tướng Chính phủ, song qua theo dõi thực tế hiện nay nợ đọng xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách và trái phiếu vẫn còn lớn, đó là hệ lụy của một quá trình đầu tư dàn trải trước đây, nay thắt chặt cắt giảm vốn dẫn đến nhiều công trình dở dang lãng phí, thất thoát, gây khó khăn cho doanh nghiệp, đây là bài toán dở dang chưa được giải quyết dứt điểm. Vì vậy, tôi đề nghị rà soát phân loại các công trình, dự án để ưu tiên bố trí vốn, giải quyết nợ đọng xây dựng cơ bản. Quốc hội đã xác định xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông là một trong ba khâu đột phá chiến lược. Song điều kiện hiện nay đối với các tỉnh Duyên hải miền Trung còn rất khó khăn thu hút đầu tư ít. Vì vậy, đề nghị Chính phủ có cơ chế hỗ trợ đầu tư một số dự án giao thông quan trọng cho những địa phương có điều kiện khó khăn không cân đối được ngân sách. Đồng thời tiếp tục rà soát các khu kinh tế ven biển, các khu du lịch có tính động lực để bố trí nguồn vốn hợp lý, trong đó có cơ chế ưu đãi cho những vùng có lợi thế.
Hai, về đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, đây là vấn đề cần đặc biệt quan tâm, nhiều ý kiến cũng đã đề cập, tôi cho rằng tăng mức đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn là một kế sách bền lâu của nền kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh lương thực, ổn định xã hội nông thôn. Có thể nói khi kinh tế đất nước khó khăn, nông nghiệp là bà đỡ cho nền kinh tế, song thực tế vừa qua đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn còn thấp. Từ năm 2010 đến nay, đầu tư bình quân toàn xã hội cho nông nghiệp chưa đến 3% GDP. Đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp cũng chỉ khoảng 1,4% GDP. Nhiều năm liền nông nghiệp liên tục tăng trưởng giảm. Giai đoạn 1995-2005, nông nghiệp tăng trưởng 4%, đến nay giảm xuống chỉ còn khoảng 2,48%.
Với tiến độ như vậy, dự báo đến năm 2020, nông nghiệp đất nước sẽ rơi vào tình trạng tăng trưởng âm. Vì vậy, tôi đề nghị phải có một chiến lược đầu tư dài hạn, năm sau cao hơn năm trước và phải cân đối giữa các vùng miền. Trước mắt, đầu tư cho nông nghiệp nông thôn năm 2013 phải cao hơn năm 2012. Cùng với nông thôn nhiều vùng trong cả nước, nông thôn các tỉnh duyên hải miền Trung còn có mức sống thấp, cơ sở hạ tầng còn yếu, kém. Vì vậy, cần ưu tiên tăng vốn Nhà nước và thu hút nguồn vốn xã hội cho đầu tư xây dựng hạ tầng nông thôn. Có các chính sách ưu đãi đặc biệt hỗ trợ cho người nông dân trồng lúa, đánh bắt thủy, hải sản và các sản phẩm nông nghiệp có lợi thế nhưng còn bế tắc thị trường tiêu thụ.
Đối với chương trình xây dựng nông thôn mới đã có nhiều đại biểu đề cập, song phải khẳng định rằng tỉ lệ đầu tư của Nhà nước còn thấp, nhiều chỉ tiêu khó đạt, nhất là chỉ tiêu xây dựng cơ sở hạ tầng. Tâm lý người nông dân thiếu phấn khởi do vốn đầu tư của Nhà nước ít, chính sách nhiều, nhưng thực thi kém hiệu quả. Trong lúc nhiều doanh nghiệp thừa các mặt hàng tồn kho vật liệu xây dựng. Vì vậy, đề nghị Chính phủ cần có cơ chế hỗ trợ các mặt hàng xi măng, sắt thép cho nông dân để xây dựng các công trình giao thông thủy lợi nhằm góp phần giải quyết hàng tồn kho cho doanh nghiệp và đó cũng là sự mong đợi của nông dân trong điều kiện khó khăn hiện nay.
Xin cảm ơn Quốc hội.

Lê Minh Thông - Thanh Hoá
Kính thưa Quốc hội.
Qua nghiên cứu báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 và nhiệm vụ 2013, tôi xin phát biểu thêm một số vấn đề sau đây.
Trước hết, tôi cho rằng chúng ta phải nhận diện cho đúng thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay. Kể cả nhận diện cho chính xác những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong năm 2012. Đặc biệt cần lưu ý phân tích cho thấu đáo các vấn đề đang đặt ra, những vấn đề nổi cộm trong tình hình kinh tế 2012. Trên cơ sở đó chúng ta mới có thể đề ra được những giải pháp thích hợp.
Tôi cho rằng có hai vấn đề rất căn bản mà nhiều nhà kinh tế cũng như nhiều đại biểu Quốc hội đã phân tích, đó là vấn đề nợ xấu và tồn kho. Chúng ta nói nợ xấu nhưng điều quan trọng nhất là phân tích được cái nợ xấu ấy như thế nào. Nợ xấu giữa ai với ai. Nợ xấu chủ yếu tập trung ở lĩnh vực nào để có những giải pháp căn cơ cho từng mối quan hệ nợ. Các nhà kinh tế đã cho rằng chúng ta có rất nhiều mối quan hệ nợ, nợ giữa ngân hàng với doanh nghiệp, nợ giữa ngân hàng với ngân hàng, nợ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, nợ giữa chính quyền, tức là công quyền với các doanh nghiệp, trong các quan hệ này thì tính chất nợ rất khác nhau. Vì vậy, nếu gọi chung nợ xấu không mà không có giải pháp căn cơ cho từng mối quan hệ nợ xấu này thì chúng ta giải quyết không trúng vấn đề. Cho nên, tôi đề nghị Chính phủ cần phân tích thấu đáo thực trạng của mối quan hệ nợ giữa từng cặp quan hệ. Như vậy, trên cơ sở đó có đề án tổng thể việc xử lý từng mối quan hệ một cách đồng bộ. Bởi vì nợ xấu của lĩnh vực này sẽ kéo theo nợ xấu của lĩnh vực kia, nếu chúng ta không đặt nó trong một mặt bằng tổng thể để giải quyết mà chỉ giải quyết trên khái niệm chung chung như vậy, tôi cho rằng giải pháp đó không trúng. Cho nên vấn đề không chỉ là vấn đề trách nhiệm của ngân hàng mà trách nhiệm của Chính phủ, của các bộ, ngành và của cả xã hội chúng ta trong việc giải quyết vấn đề nợ xấu, chứ không riêng của ai. Tôi đề nghị như vậy.
Vấn đề thứ hai là vấn đề hàng tồn kho, nợ xấu dẫn đến câu chuyện hàng tồn kho, nhưng cũng cần phân tích rõ hàng tồn kho là hàng gì và vì sao lại có tồn kho như vậy, chúng ta cần phải nói như vậy.
Có thể nói hàng tồn kho nhiều ở lĩnh vực bất động sản, nhưng những lĩnh vực khác cũng tồn tại, chúng ta hãy vào các siêu thị thấy không khí rất đìu hiu ở nhiều trung tâm mua sắm. Tại sao như vậy, nó không chỉ ở bất động sản mà kể cả hàng hóa tiêu dùng. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng tồn kho. Ở đây chúng ta cần phải kiểm điểm nghiêm túc gốc gác của vấn đề, công tác dự báo của chúng ta như thế nào, công tác kế hoạch của chúng ta như thế nào, công tác đầu tư của chúng ta như thế nào để cho tình trạng doanh nghiệp sản xuất ra không tiêu thụ được hàng hóa. Bởi vì tồn kho còn nguy hại hơn là không sản xuất, vì ở đó khê đọng sản phẩm và vốn găm vào đấy. Tôi nghĩ rằng chúng ta cần phân tích thấu đáo cho từng lĩnh vực tồn kho và xác định rõ nguyên nhân vì sao chúng ta tồn kho như vậy. Nguyên nhân vì sao hàng hóa sản xuất ra không bán được, có phải chỉ vì chất lượng của chúng ta thấp, hay vì chúng ta quản lý thị trường kém, hay vì chúng ta để hàng lậu nước ngoài nhập vào nước ta chất lượng thấp, trà trộn vào hàng Việt Nam. Hàng loạt những vấn đề, tôi nghĩ rằng cần phải mổ xẻ nguyên nhân và trách nhiệm của các cơ quan, các bộ, ngành.
Vấn đề thứ hai, tôi cho rằng trong Báo cáo thẩm tra của Ủy ban kinh tế nói một quan điểm. Tôi rất đồng ý đó là những nguyên nhân chủ quan và trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ngành chưa được phân tích thấu đáo trong Báo cáo của Chính phủ. Tôi cho rằng đã đến lúc cần phân tích trách nhiệm vì sao những điều này chúng ta đã được cảnh báo từ trước, mà vẫn không giải quyết được. Tôi lấy ví dụ bên cạnh những giải pháp mà Chính phủ và các bộ, ngành áp dụng để xử lý các tình huống cụ thể, cấp bách thì chúng ta đồng thời giải quyết các vấn đề căn cơ lâu dài có chiến lược. Như vậy chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu doanh nghiệp, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, tái cơ cấu đầu tư công đã được đặt ra từ rất sớm, nhưng vì sao đến bây giờ vẫn chậm và kết quả chưa được như mong muốn, trách nhiệm này thuộc về ai cũng cần phải phân tích. Vì sao chiến lược tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu doanh nghiệp chúng ta không đạt được kết quả mong muốn, có phải vì trách nhiệm, tôi nghĩ rằng chủ trương phải làm rõ, quyết tâm chính trị chúng ta có, nhưng tại sao chúng ta không đạt được kết quả mong muốn. Tôi nghĩ Chính phủ cũng cần phải phân tích rõ điều này. Đặc biệt trong mối quan hệ trách nhiệm thì các Bộ trưởng, người đứng đầu các cơ quan ngang bộ, các ngành, các cấp và các chính quyền địa phương ở chỗ này như thế nào, cũng cần phải được phân tích cho rõ.
Hàng loạt những vấn đề nổi cộm, vấn đề kinh tế thị trường, nhưng tôi cảm giác rằng không ai chịu trách nhiệm, chúng ta chỉ nói chung chung. Bởi vì rất nhiều mệnh đề được vang lên là hãy là một người tiêu dùng thông minh, hãy là một bệnh nhân thông minh, vậy làm thế nào để trở thành nhà tiêu dùng thông minh, làm thế nào để trở thành bệnh nhân thông minh. Vậy thì đương nhiên người dân vẫn tự lo cho mình, nhưng nhân dân trả thuế cho chúng ta, trả thuế cho bộ máy nhà nước làm việc, chúng ta phải có trách nhiệm đảm bảo điều đó cho nhân dân. Chúng ta thấy rằng an ninh, an toàn trong sản xuất cũng không được đảm bảo, an toàn trong sinh hoạt cũng không được đảm bảo, an toàn trong bữa ăn cũng không được đảm bảo, vậy nhân dân biết hỏi ai bây giờ. Rõ ràng ở đây là trách nhiệm của các bộ, các ngành, trách nhiệm của các tư lệnh ngành là phải được nói rõ. Nếu chúng ta  không có mổ xẻ những yếu tố này một cách mạnh mẽ quyết liệt thì câu chuyện vẫn nói cho vui, lúc nào cũng nói như vậy, tôi nghĩ rằng niềm tin của nhân dân đối với thị trường sẽ khó khăn, khi người tiêu dùng quay lưng vào thị trường thì chúng ta đừng nói giải pháp gì để phát triển sản xuất.
Vì thế tôi cho rằng trong báo cáo của Chính phủ là cần phải thể hiện được báo cáo hoạt động của Chính phủ, hoạt động của các bộ, ngành để Chính phủ cần phải đưa ra đánh giá hoạt động của mình, đặc biệt là đánh giá về hoạt động của các bộ trưởng, người đứng đầu các cơ quan bộ ngành. Để trên cơ sở đó cung cấp thông tin các đại biểu Quốc hội rằng trong năm qua các bộ trưởng đã hành động như thế nào, bộ trưởng nào làm tốt, bộ trưởng nào có vấn đề cần phải lưu ý. Trên cơ sở đó cũng cấp thông tin với các đại biểu Quốc hội để chúng ta làm căn cứ để có thể lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm theo nghị quyết mà Quốc hội chúng ta sẽ thảo luận và sẽ thông qua trong kỳ họp này. Tôi nghĩ điều đó rất cần thiết. Có lẽ hàng năm, bên cạnh các báo cáo tình hình kinh tế, xã hội, chúng ta cần có báo cáo về Chính phủ về hoạt động của mình và đánh giá cho rõ hoạt động của các bộ, các ngành, đặc biệt là các bộ trưởng. Trên cơ sở đấy các cử tri cũng như Quốc hội thấy rõ rằng bộ trưởng của mình là người như thế nào, trách nhiệm ở đâu. Trên cơ sở đó chúng ta bỏ phiếu tín nhiệm cho tốt được.
Vấn đề thứ ba tôi xin bày tỏ thêm. Chúng tôi kiến nghị Quốc hội, kiến nghị Chính phủ cần phải giữ lộ trình tăng lương theo quan điểm là đầu tư cho con người phải được xem là ưu tiên số một và thứ tự ưu tiên phải là số một. Chúng ta khắc phục tình trạng là chúng ta đầu tư, còn khoản gì mới đầu tư cho con người thì tôi cho là không đúng.
Xin cám ơn Quốc hội.

Bùi Mạnh Hùng - Bình Phước
Kính thưa Chủ tọa kỳ họp.
Kính thưa Quốc hội.
Tôi cơ bản nhất trí với Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2012 và kế hoạch của năm 2013 và cũng rất đồng cảm với các ý kiến đã phát biểu trước. Tôi phát biểu cuối cho nên cũng chỉ xin được phát biểu một ý kiến rất cụ thể, đó là dự án Đường Hồ Chí Minh.
Kính thưa Quốc hội.
Dự án Đường Hồ Chí Minh với mục tiêu chung là đến năm 2015 sẽ thông toàn tuyến với hai làn xe từ Pắc Bó, Cao Bằng cho đến mũi Cà Mau. Đây là dự án có ý nghĩa về kinh tế, chính trị, xã hội rất lớn. Trong đó chúng tôi quan tâm đến đoạn đấu nối và nâng cấp quốc lộ 14 từ Kon Tum qua Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông về đến Đồng Xoài và Châu Thành của Bình Phước. Tuyến đường này dài 540km, là tuyến đường giao thông huyết mạch của Tây Nguyên, nối giữa Tây Nguyên với khu vực kinh tế trọng điểm phía nam Đông Nam Bộ, có ý nghĩa rất quan trọng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh cho cả khu vực Tây nguyên và cả miền Đông Nam bộ. Nhưng thực tế cho đến nay, đoạn đường này có nhiều đoạn xuống cấp rất trầm trọng, tình trạng vừa thi công, vừa khai thác với một tiến độ cầm chừng và có nhiều lúc, nhiều nơi, nhiều đoạn đã dừng thi công để lại những ổ voi, những cái bẫy cho các phương tiện lưu thông rất nguy hiểm, tình trạng giao thông rất khó khăn, đặc biệt đoạn từ Đắk Nông đến Đầm Soài. Việc này đã làm ảnh hưởng và thiệt hại đến kinh tế không nhỏ, tuy rằng chưa có  một tính toán của cơ quan nào, của cá nhân nào về thiệt hại này, nhưng cũng gây ra bức xúc trong xã hội rất lớn. Mặt khác còn ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh mà theo tôi nghĩ đây cũng là vấn đề đáng lưu tâm.
Để giải quyết vấn đề này, vừa qua chúng tôi rất phấn khởi ngày 25 tháng 9 vừa rồi Bộ trưởng Bộ Giao thông cũng có mời các tỉnh, các nhà đầu tư BOT, đại diện một số đoàn đại biểu Quốc hội của khu vực họp để bàn giải pháp khắc phục khó khăn. Song chúng tôi thấy những giải pháp đề ra trong hội nghị đó vẫn còn phải chờ ý kiến của Chính phủ, của các bộ, ngành nó vẫn còn là những giải pháp còn dừng lại ở kiến nghị. Trong báo cáo của Chính phủ lần này về phương hướng chúng tôi thấy chưa nhắc đến vấn đề này.
Để tìm các giải pháp này tôi cơ bản thống nhất với ý kiến của Bộ Giao thông vận tải và đặc biệt chúng tôi có nghiên cứu báo cáo của Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội về dự án này. Đặc biệt giải pháp cho tuyến giao thông từ Kon Tum cho đến Châu Thành của Bình Phước. Tôi đề nghị Chính phủ cũng đã đến lúc Chính phủ chúng ta phải trực tiếp vào cuộc, phải quan tâm chỉ đạo đặc biệt cho tuyến đường này, không nên chỉ giao cho Bộ Giao thông vận tải cùng với các tỉnh trên tuyến đường này tự xoay xở trong tình trạng thiếu vốn đầu tư mà công trình thì đã khởi công rồi nhưng lưu thông rất khó khăn.
Trước mắt tôi đề nghị phải ưu tiên cho việc thông tuyến để đảm bảo an toàn giao thông, hiện nay giao thông trên tuyến này không an toàn, rất chậm. Vì trên tuyến này cũng không có tuyến thay thế, đặc biệt là tuyến từ Đắc Nông đến Đồng Xoài không có tuyến thay thế, cho nên phải thông tuyến, ách tắc giao thông diễn ra hàng ngày. Đồng thời, tôi cũng đề nghị cần phải có giải pháp cụ thể về cơ chế, cũng như vốn để giúp cho các nhà đầu tư BOT tháo gỡ những khó khăn, vừa qua các nhà đầu tư BOT cũng đã phát biểu: Khó khăn nhất vẫn là lãi suất cao, phải có giải pháp để hỗ trợ lãi suất.
Mặt khác, tôi cũng đề nghị Chính phủ cũng có thể phải xem xét lại việc chọn phương thức đầu tư cho phù hợp, để cần thiết, tôi nghĩ rằng Chính phủ cũng có thể đề nghị với Quốc hội cho phép phát hành trái phiếu công trình. Bởi vì, chúng tôi đề nghị chúng ta cũng không vì thiếu vốn mà cũng không vì quá lệ thuộc vào các hình thức BOT, nếu như năng lực của các nhà đầu tư này không đáp ứng yêu cầu. Đồng thời chúng ta cũng phải cân nhắc về số lượng, cũng như mật độ các trạm thu phí, sau khi tuyến đường này hình thành làm sao cho nó phù hợp, không để các trạm thu phí quá nhiều ở trên cùng một tuyến đường mà đây lại là Quốc lộ, đây là những băn khoăn của rất nhiều cử tri ở khu vực Bình Phước cũng như Đắc Nông. Tôi xin có một số ý kiến như vậy, xin cám ơn Quốc hội.

Nguyễn Thị Kim Ngân - Phó chủ tịch Quốc hội
Kính thưa Quốc hội,
Ngày hôm nay đã có 48 đại biểu phát biểu ý kiến, trong đó có 5 thành viên Chính phủ, số đại biểu đăng ký còn lại là 42 đại biểu, sáng ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục thảo luận, bây giờ xin mời Quốc hội nghỉ. Xin cám ơn Quốc hội.

Quốc hội nghỉ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét