Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

(3) Quốc hội thảo luận kinh tế-xã hội năm 2012 và 2013

Quốc hội thảo luận kinh tế-xã hội năm 2012 và 2013
BẢN TỔNG HỢP THẢO LUẬN TẠI HỘI TRƯỜNG
  (Ghi theo băng ghi âm)
 Buổi sáng ngày 31/10/2012
Nội dung:
Tiếp tục thảo luận về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội
năm 2012, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2013.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng chủ trì
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân chủ trì điều khiển nội dung

Nguyễn Thị Kim Ngân - Phó chủ tịch Quốc hội
Kính thưa Quốc hội.
Ngày hôm nay theo chương trình Quốc hội sẽ thảo luận tiếp ở Hội trường về kinh tế, xã hội 2012 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2013.
Chiều nay Quốc hội sẽ thảo luận ở Hội trường về ngân sách nhà nước 2012, dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách Trung ương năm 2013.
Tới chiều ngày hôm qua đã có 48 đại biểu phát biểu, trong đó có 5 thành viên Chính phủ. Theo danh sách đăng ký ngày hôm qua còn lại, cho tới giờ phút này có 43 đại biểu đăng ký. Trong đó có 15 đại biểu ở 15 đoàn chưa phát biểu ngày hôm qua và do đó sáng nay Đoàn Chủ tịch sẽ mời 15 đại biểu ở 15 đoàn chưa có phát biểu ngày hôm qua thì tiếp tục phát biểu và xen kẽ trong phát biểu của đại biểu Quốc hội sẽ mời Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải báo cáo về thủy điện Sông Tranh và mời một số thành viên Chính phủ sẽ báo cáo thêm những vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm nói nhiều trong phiên thảo luận ngày hôm qua.
Trước hết mở đầu phiên thảo luận sáng nay xin mời Hòa thượng Thích Chơn Thiện - Thừa Thiên Huế phát biểu.


Thích Chơn Thiện (Nguyễn Hội) - Thừa Thiên - Huế
Kính thưa Quốc hội.
Trong báo cáo của Chính phủ tại trang 4, trang 13 có ghi ba điểm đáng chú ý.
Điểm thứ nhất, Chính phủ đã trình Hội nghị Trung ương 6, Khóa XI đề án đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đề án phát triển khoa học và công nghệ, tạo cơ sở đột phá chiến lược về phát triển nguồn nhân lực, tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Điểm thứ hai, đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, coi trọng nhân cách đạo đức, lối sống cho học sinh.
Điểm thứ ba, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý. Trong bài nói chuyện với Bộ Giáo dục và đào tạo ngày 17.08.2012, Tổng Bí thư có nói: "Triết lý giáo dục của chúng ta là dạy làm người". Phải chăng đổi mới toàn diện là đổi mới tư duy đến mô hình hệ thống tổ chức giáo dục của chúng ta sắp tới như thế nào?. Đây là những tư duy về đổi mới giáo dục của chúng ta có giá trị nhất, nhân văn nhất trong giai đoạn vừa qua và hiện nay. Qua đó chúng tôi hình dung ra một số điểm cơ bản của nội dung đổi mới giáo dục và toàn diện nhất như sau:
Mục thứ nhất, về khung sườn của tổ chức hệ thống, chúng ta cần có một khung sườn của hệ thống tổ chức giáo dục ổn định, vì mục tiêu phát triển giáo dục lâu dài cần có:
Thứ nhất, Hội đồng giáo dục quốc gia làm việc bền bỉ và lâu dài, bao gồm các nhà giáo dục trải nghiệm đương đại, trong đó có mặt của các chuyên gia về tâm lý giáo dục, quản trị và quá trình giáo dục đặt dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng. Hội đồng này bên cạnh có nhà thống kê giáo dục hoạch định đường hướng giáo dục, đổi mới giáo dục, nội dung của giáo dục các cấp từ mẫu giáo đến hậu đại học và kế hoạch đào tạo nhân sự cho ngành giáo dục.
Thứ hai, Bộ giáo dục đại học và cao đẳng chuyên trách tổ chức và quản lý giáo dục ngành đại học, cao đẳng và hậu đại học, thành phần lãnh đạo bao gồm các chuyên gia giáo dục đại học và hậu đại học, trong đó có mặt chuyên gia về tâm lý quản trị. Bộ này chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục ngành cao đẳng, đại học và hậu đại học, trách nhiệm đào tạo sinh viên các ban, ngành theo yêu cầu của phát triển xã hội, đất nước. Bộ này chịu trách nhiệm phát triển ngành khoa học giáo dục và đại học sư phạm.
Thứ ba, Bộ giáo dục phổ thông chuyên trách giáo dục từ mẫu giáo đến lớp 12, thành phần lãnh đạo gồm các cán bộ chuyên trách về mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông, trong đó có mặt các chuyên gia về tâm lý giáo dục, quản trị giáo dục, quá trình giáo dục. Bộ giáo dục phổ thông chịu trách nhiệm giáo dục hình thành nhân cách và hoàn mỹ nhân cách của học sinh, truyền đạt kiến thức về thực nghiệm phổ thông thích ứng với từng độ tuổi. Bộ cũng chịu trách nhiệm về dạy nghề cho một số học sinh phổ thông học nghề không đi vào đại học, trách nhiệm về tu nghiệp cho các giáo viên từ mẫu giáo cho đến lớp 12.
Thứ tư, các cơ sở giáo dục tại các tỉnh, thành được lãnh đạo bởi các Bộ chuyên trách về giáo dục từ mẫu giáo đến lớp 12, trong đó có mặt các chuyên gia về tâm lý giáo dục, quản trị giáo dục và quá trình giáo dục.
Thứ năm phát triển các trách nhiệm về tâm lý, về nghề nghiệp, chỉ số thông minh, khả năng sáng tạo và các công cụ khác về đánh giá chất lượng giáo dục các cấp học ngành học, phần này ngân sách do nhà nước phụ trách chỉ đạo tiến hành do Hôi đồng giáo dục quốc gia chịu trách nhiệm.
Mục thứ hai, về giáo dục, giáo dục con người toàn diện đầy đủ hai mặt phát triển. Thứ nhất là phát triển con người nó, thứ hai là phát triển con người xã hội vì con người chính nó là con người hiểu biết tự thân với sự phát triển vật lý, sinh lý, tâm lý, hiểu biết mối liên hệ giữa cá nhân và gia đình tập thể, môi trường sống và hiểu biết sống hạnh phúc và  hoàn mỹ nhân cách của một công dân xã hội, xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Con người xã hội là con người được trang bị các kiến thức chuyên môn về khoa học nhân văn, khoa học xã hội, khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ, nghề nghiệp và kiến thức hội nhập về thời đại để phục vụ đời sống bản thân gia đình và đất nước.
Mục thứ ba, về hệ thống cơ sở trường ốc, thư viện, phòng thí nghiệm, ngân sách, sách giáo khoa, giảng dạy học tập và thi cử. Về nội dung này do ngân sách nhà nước đài thọ. Về giảng dạy học tập thi cử cần thể hiện tính nhân văn nhằm giáo dục tốt đẹp cho mục tiêu giáo dục nhân cách con người. Hoàn thiện các điểm nêu trên chúng ta sẽ có một kế tục giáo dục, hệ thống giáo dục được đổi mới căn bản và toàn diện. Xin cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Thành Tâm - Tây Ninh
Kính thưa Quốc hội,
Trước hết, tôi xin bày tỏ quan điểm về việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2012 theo Nghị quyết của Quốc hội. Theo tôi, trong năm vừa qua Chính phủ đã điều hành rất quyết liệt và đã thực hiện đúng theo mục tiêu tổng quát mà Quốc hội đã đề ra là chúng ta phải kiềm chế được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và duy trì mức tăng trưởng hợp lý. Xem xét lại tình hình cuối năm 2011 đến lúc này chúng ta thấy những vấn đề bất ổn và những cơn sốt nền kinh tế đã được cơ bản kịp thời kiềm chế lại và duy trì ở mức ổn định hơn. Những vấn đề này trong quá trình thảo luận năm 2011 có rất nhiều ý kiến của đại biểu Quốc hội đã thống nhất với cách điều hành chúng ta tập trung vào mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Đến thời điểm hiện nay trong nền kinh tế của nước ta bắt đầu phát sinh một số vấn đề cần quan tâm giải quyết. Tôi đồng ý với Báo cáo của Chính phủ và Báo cáo của Ủy ban Kinh tế về đánh giá tình hình triển khai nhiệm vụ và những giải pháp trong thời gian qua. Tuy nhiên, tôi có thêm một số ý kiến phân tích như sau.
Thứ nhất, về cách thức Quốc hội xem xét, quyết định các mục tiêu, nhiệm vụ hàng năm và các chỉ tiêu kinh tế cơ bản. Hàng năm Chính phủ sẽ trình mục tiêu tổng quát trên cơ sở đánh giá thực hiện kế hoạch của năm trước. Đồng thời các chỉ tiêu cơ bản, trong đó chỉ tiêu quan trọng là tăng trưởng và mức lạm phát và các chỉ tiêu liên quan khác.
Tuy nhiên, như ý kiến của nhiều đại biểu đã phát biểu là trong những năm gần đây liên tục các chỉ tiêu này chúng ta không đạt như nghị quyết của Quốc hội đặt ra. Như vậy, cần xem xét lại tại sao có tình trạng này. Theo tôi cần phải phân tích là có phải do các chỉ tiêu của chúng ta đưa ra thiếu căn cứ, không được phân tích thấu đáo, mang tính chủ quan hay là các chỉ tiêu đưa ra không được dự báo, nắm bắt, đánh giá các nhân tố đóng góp vào trong mức tăng trưởng thiếu chính xác. Nên các chính sách, các giải pháp đưa ra không đúng hoặc đưa ra chính sách, giải pháp chung thì đúng nhưng quá trình áp dụng thì các lực lượng không phù hợp cho nên nó gây ra tác động tiêu cực.
Trong quá trình thảo luận, các đại biểu Quốc hội đưa ra các ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, trong quá trình giải trình, tiếp thu thì chưa thật thấu đáo, cho nên khi đến quyết định thì có những vấn đề sau khi triển khai thực hiện xong thì trình ra Quốc hội chưa nhận được sự đồng thuận.
Từ thực trạng trên, tôi đề nghị, đối với việc đánh giá thực hiện nhiệm vụ năm 2012 thì Chính phủ và các ủy ban liên quan, Quốc hội có nghiên cứu, đánh giá sâu sắc hơn về các nguyên nhân và kết quả đạt được cũng như không đạt được. Tập trung vào đánh giá các nhân tố tác động và mức độ tác động vào sự tăng trưởng, mối liên quan giữa các nhân tố, các chỉ tiêu cơ bản và đánh giá tác động của các chính sách, nhất là các chính sách về tài khóa, tiền tệ, cả mặt tích cực và mặt tiêu cực tác động vào việc thực thi trong thời gian vừa qua. Quan trọng hơn là đánh giá mức độ chịu đựng của nền kinh tế đối với những tác động tiêu cực.
Nội dung thứ hai, Chính phủ cần phải tổng kết, đánh giá và báo cáo toàn diện hơn về việc thực hiện tái cơ cấu đầu tư, trong đó tập trung vào tái cơ cấu đầu tư công. Các nội dung cần đánh giá về việc ban hành các tiêu chí, tiêu chuẩn, thứ tự ưu tiên trong rà soát, sắp xếp lại đầu tư công theo quan điểm đầu tư mới đó là đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, chống dàn trải và đầu tư theo trung hạn. Thực trạng các dự án công trình chịu ảnh hưởng bởi các chính sách đổi mới đầu tư này như thế nào, cả ở cấp bộ, ngành và ở cấp địa phương, bởi vì rất nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội hiện nay cho rằng khi thực hiện chính sách như vậy thì nó gây ra tình trạng lãng phí, như vậy phải có phân tích đánh giá rất sâu sắc về chuyện này để khoản chính sách cho phù hợp.
Việc tổ chức triển khai cụ thể hóa chủ trương này, hướng dẫn để các địa phương thực hiện đặc biệt là khi chuyển đổi cơ chế. Bởi vì có thực trạng hiện nay là khi chuyển đổi cơ chế như vậy thì trong quá trình triển khai hướng dẫn thực hiện rất chậm, như chương trình mục tiêu quốc gia tháng 5 mới có phân bổ kinh phí. Nhưng theo quy định đầu tư của Chỉ thị 1792 của Thủ tướng Chính phủ các dự án công trình muốn triển khai được thì phải có nguồn vốn rồi mới được lập dự án, như vậy khi lập dự án từ tháng 5 phân bổ về địa phương, địa phương phân bổ cho các chủ đầu tư vào tháng 7, lập dự án xong, triển khai xong, có thể triển khai được thì đã hết năm rồi. Như vậy, có khả năng là không giải ngân được, nhưng không giải ngân được theo quy định hiện hành là không cho phép chuyển nguồn, tôi cho rằng những cơ chế như vậy nó chưa đồng bộ trong việc tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương nên rất khó khăn. Còn bây giờ nếu dồn vốn vào năm sau như vậy tổng mức đầu tư dồn qua năm sau nó có ảnh hưởng đến việc giải ngân ồ ạt và gây ra lạm phát hay không.
Chính phủ cần phải có đánh giá kết quả ban đầu, khả năng các nguồn lực và các nguy cơ hậu quả có thể xảy ra khi thực hiện đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng đối với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế trước mắt cũng như mục tiêu dài hạn. Bởi vì hiện nay khi thực hiện vấn đề này chúng ta thấy bước vào thực hiện tái cơ cấu môi trường bên ngoài khó là một chuyện nhưng nội tại nền kinh tế của chúng ta cũng gặp vấn đề khó khăn nên phải đánh giá lại và phải khẳng định lại quan điểm, mục tiêu và các giải pháp để làm sao chúng ta thực hiện vừa giải quyết những khó khăn trong ngắn hạn nhưng cũng thống nhất với nhau là chúng ta kiên trì mục tiêu chung và dài hạn để chúng ta có sự phát triển bền vững tránh sự không thống nhất trong cách thực hiện.
Trên cơ sở đánh giá sâu sắc toàn diện như trên thì Chính phủ và các ủy ban liên quan của Quốc hội sẽ cung cấp thông tin, cơ sở thuyết minh cho các đề xuất chỉ tiêu tăng trưởng và các chỉ tiêu liên quan do Chính phủ trình. Đặc biệt là Ủy ban Kinh tế cũng đưa ra 3 mức tăng trưởng khác nhau. Tôi đề nghị cũng phải có những thông tin thuyết minh cụ thể vể ba ý kiến này để có cơ sở Quốc hội quyết định. Riêng những vấn đề trong quá trình thảo luận trong ngày hôm qua và ngày hôm nay, tôi đề nghị việc tiếp thu, giải trình của các cơ quan liên quan của Chính phủ, của các ủy ban của Quốc hội phải hết sức khách quan. Trong đó chúng ta phải nói rõ những nội dung nào tiếp thu, những nội dung nào không tiếp thu và lý do tại sao không tiếp thu? đặc biệt những ý kiến đề xuất những chính sách, những cơ chế mới và thậm chí có những mục tiêu, những yêu cầu nhiệm vụ mâu thuẫn với nhau. Như vậy, phải giải trình rõ để tạo sự thống nhất và khi Quốc hội quyết định đó là trách nhiệm của Quốc hội, bởi vì mục tiêu, nhiệm vụ do Quốc hội quyết định.
Thứ hai, Quốc hội phân bổ ngân sách, cho nên Quốc hội phải chịu trách nhiệm về các chỉ tiêu này. Khi quá trình triển khai thực hiện những nội dung được giải trình rõ ràng, biện pháp được quyết định rõ ràng thì có cơ sở cho Quốc hội giám sát, Chính phủ triển khai thực hiện nó cũng dễ và cử tri cả nước cũng có điều kiện hiểu và theo dõi hoạt động của các cơ quan nhà nước. Tôi xin hết ý kiến, xin cảm ơn Quốc hội.

Mai Thị Ánh Tuyết - An Giang
Kính thưa Quốc hội.
Trước nhất tôi đồng tình với báo cáo của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của Ủy ban kinh tế Quốc  hội về tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 và nhiệm vụ năm 2013. Để góp phần tháo gỡ khó khăn nền kinh tế, tôi xin có một số ý kiến.
Để thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và hoàn thành mục tiêu, kế hoạch năm 2012 và năm 2013, tôi thấy Chính phủ cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Trong đó ưu tiên hỗ trợ khu vực sản xuất và tập trung giải quyết vấn đề hàng tồn kho và khai thác tốt thị trường. Do đó cũng là một bài toán để giải quyết một cách căn cơ về nợ xấu, cụ thể các giải pháp này xin đề xuất như sau:
Thứ nhất, về giải quyết vốn cho sản xuất thì thực hiện nhanh vấn đề khơi thông thị trường, giải quyết hàng tồn kho thông qua giải quyết tăng cho vay tiêu dùng, cho vay khôi phục cho nền sản xuất và cho vay mua nhà để thúc đẩy thị trường bất động sản, tăng đầu tư cho vùng nông thôn. Các ngân hàng cũng tập trung vào giải cứu doanh nghiệp và xem giải cứu doanh nghiệp như giải cứu mình. Vì vậy, ngân hàng cần xem xét tiếp tục khoanh nợ, tiếp tục cho vay ngân hàng. Ngân hàng không vì quá lo lắng nợ xấu trong quá trình cải tổ ngân hàng đồng loạt thu hẹp nguồn vốn của doanh nghiệp, như thế doanh nghiệp mới có khả năng phục hồi và trả nợ cho ngân hàng. Do đó, ngoài vấn đề hạ lãi suất ngân hàng, cần xem xét đối với một số dự án, lĩnh vực cần ưu tiên, tiến hành khoanh nợ, giãn nợ gốc và lãi, hạ lãi suất xuống 11% để phát huy sớm tác dụng nguồn vốn, nguồn lực giải cứu doanh nghiệp cần sắp xếp doanh nghiệp, thực hiện các chính sách theo trọng tâm, trọng điểm và xếp thứ tự ưu tiên, kích hoạt vào đúng điểm yếu hiện nay.
Trên quan điểm này, đề nghị ưu tiên giải cứu thị trường bất động sản để tạo sức phát triển mới cho nền kinh tế, đồng thời ưu tiên các doanh nghiệp thủy sản, trong đó doanh nghiệp sản xuất chế biến cá tra của tỉnh đồng bằng sông Cửu Long như một số đại biểu của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã có ý kiến.
Thứ hai, đề nghị tạo niềm tin cho doanh nghiệp để huy động nguồn vốn xã hội. Qua Báo cáo của Chính phủ cho thấy phát triển đầu tư nước ta gặp khó khăn, đầu tư xã hội đã giảm so với các năm trước đây. Vì vậy, Chính phủ và các Bộ, ngành cần soát xét các chính sách để tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp, người sản xuất, đồng thời các chủ trương chính sách cần nhất quán, không vì lý do nhất thời nào đó lại thiếu nhất quán trong quá trình điều hành, chỉ đạo, làm ảnh hưởng đến sản xuất của doanh nghiệp cũng như mất lòng tin của doanh nghiệp. Điển hình như Nghị định 109 về các doanh nghiệp về xuất khẩu gạo có điều kiện, hiện nay Chính phủ đã ban hành nghị định này và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo đã khẩn trương vay vốn để đầu tư hệ thống bóc vỏ, xay sát và kho đạt tiêu chuẩn quy định, các doanh nghiệp phải vay vốn đầu tư với quy mô từ 200 - 300 tỷ đồng để đầu tư vấn đề này. Nhưng vừa qua Chính phủ lại khống chế 100 đầu mối, điều này làm cho các doanh nghiệp không an tâm và lo lắng. Vấn đề nâng cao chất lượng doanh nghiệp xuất khẩu và thu hẹp đầu mối và việc làm phù hợp, nhưng càng phải có cơ sở, có lộ trình phù hợp với pháp lý để doanh nghiệp yên tâm, đặc biệt là tạo niềm tin cho doanh nghiệp trong việc huy động vốn đầu tư xã hội, đầu tư phát triển, nhất là giai đoạn khó khăn hiện nay.
Trước tình hình khó khăn của các doanh nghiệp, sản xuất chế biến thủy sản của các tỉnh đồng bằng sông Cửu long rơi vào vô cùng khó khăn. Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo tại Công văn Số 1149 ngày 08/08/2012 về chính sách khẩn cấp hỗ trợ giãn nợ, hạ lãi suất xuống 11% cho doanh nghiệp sản xuất và chế biến mặt hàng cá tra. Nhưng chủ trương này đã triển khai rất chậm và chính sách khẩn cấp này ràng buộc các điều kiện về thế chấp không khác gì các điều kiện bình thường như trước đây, trong khi các doanh nghiệp đã rơi vào điều kiện khó khăn, tài sản đã thế chấp hết các ngân hàng, làm gì có tài sản để thế chấp cho các ngân hàng này để tiếp cận được với nguồn vốn chính sách hấp dẫn này. Vậy xem chính sách khẩn cấp của Chính phủ đã làm cho doanh nghiệp đi vào vô vọng. Đây là điển hình từ chủ trương không nhất quán trong điều hành tổ chức thực hiện của Chính phủ, đã làm mất lòng tin trong lực lượng doanh nghiệp đã gây lãng phí trong đầu tư, từ đó đã không huy động được nguồn lực đầu tư từ khối doanh nghiệp để phát triển kinh tế.
Thứ hai là chính sách hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp. Trong thời gian qua nông nghiệp nước ta đã có một bước phát triển đáng kể, đó là nền tảng để phát triển đất nước. Tuy nhiên ngành nông nghiệp nước ta luôn đứng trước những thách thức, giá cả sản phẩm nước ta luôn thấp hơn và bị cạnh tranh gay gắt của thị trường các nước, nông dân thường xuyên bị áp lực được mùa mất giá và mất mùa được giá. Nhiều nông sản đã tăng sản lượng hàng năm nhưng người dân vẫn không tăng lợi nhuận và đời sống người dân tiếp tục khó khăn, sản xuất thiếu quy hoạch và công tác dự báo chưa định hướng tốt cho phát triển ngành, người nông dân phổ biến là nôn nóng chạy theo xu hướng lợi ích kinh tế tự phát gây ra lãng phí tác động xấu đến môi trường. Đặc biệt nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.
Chính vì vậy, một nghịch lý của nước ta là nước nhiệt đới phù hợp với phát triển cây trái nhưng lại nhập khẩu hoa quả, thực phẩm từ các sản phẩm nông nghiệp khác của các nước gây ra hiện tượng thực trạng hiện nay trái cây không an toàn vệ sinh thực phẩm và bị nhiễm chất độc, luôn bị người dân bức xúc. Do đó, để nâng cao hiệu quả nền nông nghiệp nước ta, việc đầu tư việc phát triển công nghệ cao là nhiệm vụ tất yếu đẩy mạnh phát triển trong năm 2013 và những năm tiếp theo. Trong điều kiện ngân sách của Việt Nam chúng ta còn khó khăn, việc đẩy mạnh hỗ trợ các chính sách giúp doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đầu tư công nghệ cao là việc cần thiết, do đó đề nghị Chính phủ cần sắp xếp các chính sách bất cập không phù hợp trong chính sách ban hành để thu hút doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, vì hiện nay doanh nghiệp chưa mạnh để tham gia các khu vực này.
Chính phủ nên xem xét các chính sách về thuế, về vốn vay, ưu đãi lãi suất, bảo hiểm rủi ro, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, về chính sách cũng như về thủ tục để kích thích doanh nghiệp đầu tư, đồng thời Chính phủ cho xây dựng thí điểm mô hình doanh nghiệp đầu tư ứng dụng công nghệ cao, từ đó tổng kết và nhân rộng.
Để đảm bảo nguồn lực về đất đai, Nhà nước cần tạo điều kiện để nông dân góp quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp như mua cổ phiếu để nông dân yên tâm giao đất và tham gia cùng với doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển cho đất nước.
Tôi xin hết ý kiến.
Xin cám ơn Quốc hội.

Thích Thanh Quyết (Lương Công Quyết) - Quảng Ninh
Kính thưa Quốc hội.
Tôi cơ bản nhất trí với Báo cáo do Thủ tướng Chính phủ trình bày và Báo cáo Thẩm tra của Ủy ban Kinh tế đều khẳng định năm qua do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan nền kinh tế nước ta suy giảm mạnh. Nhưng Thủ tướng Chính phủ cùng Chính phủ đã quyết tâm chỉ đạo. Cơ bản đến nay đã kiềm chế được lạm phát, ổn định được kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, chính trị nước ta được ổn định, an ninh, quốc phòng được vững chắc, đối ngoại được mở rộng, đặc biệt việc thực hiện chính sách an sinh xã hội rất tốt. Tôi xin có ý kiến sau.
Một, nhiều cử tri là gia đình chính sách rất bức xúc. Khi đất nước có chiến tranh, họ tham gia không điều kiện, khi đất nước thống nhất, họ vui vẻ về quê không nghĩ gì đến đãi ngộ, khi kinh tế phát triển, các nước có chính sách đối với người có công, họ phấn khởi đón nhận. Có người có đủ giấy tờ, có người thiếu phải bổ sung, một số cán bộ cơ sở đã làm giả. Khi phát giác, Nhà nước cho dừng lại, cuối cùng cũng oan cho nhiều người. Phần đông, họ đều ở độ tuổi rất cao. Tôi đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Lao động, thương binh và xã hội triển khai thật nhanh vấn đề này, nếu chậm, nhiều người sẽ không được hưởng gì.
Hai, tôi được phụ trách phật giáo vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số, ngoài lúc đi tiếp xúc cử tri thì nhiều cử tri cũng thường đến tiếp xúc tôi. Có một vấn đề sau vào những năm 60 -70 của thế kỷ trước nghe theo tiếng gọi của nhà nước nhiều gia đình miền xuôi lên xây dựng kinh tế mới của miền núi, nhiều người không chịu nổi khó khăn đã quay trở về miền xuôi, nhiều người bám trụ ở lại giờ đã trải qua 3 - 4 thế hệ. Con cháu họ từ phong tục tập quán, lễ nghi cho đến văn hóa ngôn ngữ như người dân tộc thiểu số, con em họ cùng học với nhau nhưng đãi ngộ lại không như nhau. Ví dụ trong lớp có 50 cháu trong đó có 5 cháu là người Kinh, nhà nước có chế độ ưu tiên cho học sinh dân tộc thiểu số thì 45 cháu kia được hưởng còn 5 cháu kia không được hưởng gì trong khi đó họ cũng khó khăn như nhau. Như vậy, người dân tộc đa số đã trở thành thiểu số, người dân tộc thiểu số đã thành đa số. 5 cháu kia tự thấy tủi thân chỉ vì bố mình là dân tộc Kinh, tôi đề nghị Chính phủ có cơ chế chính sách phủ khắp cho học sinh miền núi và dân tộc.
Thứ ba, phong trào xây dựng nông thôn mới đã được toàn dân hưởng ứng rất cao vì nông thôn là nền tảng vững chắc của xã hội Việt Nam, nó khẳng định sự tiến bộ của một xã hội phát triển. Thời gian qua có những lúc nhiều công nhân mất việc phải về nông thôn nhưng nông thôn vẫn dung nạp được hết, xã hội vẫn rất an sinh. Tôi đề nghị khi xây dựng nông thôn mới chúng ta cần phải quan tâm:
Thứ nhất, quan tâm nâng cao đời sống và nhận thức của người dân.
Thứ hai, tăng cường hỗ trợ cho cán bộ cơ sở ở cấp thôn vì họ là chân rết.
Thứ ba, điều chỉnh một số tiêu chí cho phù hợp với từng vùng miền.
Thứ tư, nhà nước nên đầu tư thẳng không thông qua doanh nghiệp.
Thứ năm, tôi rất đồng cảm với đại biểu Kim Bé ở Kiên Giang đã rất vất vả đem cả tranh lẫn ảnh ra để ôn nghèo, kể khổ, nhưng theo tôi vẫn cứ phải ưu tiên đặc biệt đến miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo vì đây là sự toàn vẹn của lãnh thổ của Tổ quốc.
Vấn đề thứ tư, qua báo cáo của Chính phủ có phần lo, nhưng phần mừng vẫn nhiều, mừng bởi Thủ tướng Chính phủ đã thay mặt các thành viên của Chính phủ chân thành nhận lỗi trước toàn Đảng, toàn dân trong công tác lãnh đạo chỉ đạo điều hành và thể hiện quyết tâm cao để khắc phục những yếu kém đó. Tư tưởng nhà phật biết lỗi, sám hối quyết tâm sửa lỗi là đệ nhất giác ngộ. Mừng bởi dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta trong đó có mấy chục triệu đồng bào có đạo luôn nhất tâm tin tưởng vào Đảng, sẻ chia cùng Chính phủ quyết tâm vượt qua cơn gian khó này.
Kính thưa Quốc hội, 26 năm đổi mới và phát triển đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực, đây là lần đầu tiên và lớn nhất nền kinh tế nước ta gặp phải, đó cũng là quy luật tất yếu của sự phát triển. Có những quốc gia khi bắt tay vào xây dựng phát triển đất nước đã phải trả một giá rất đắt. Như Trung Quốc 10 năm động loạn Đại cách mạng văn hóa năm 1966 - 1976, Cách mạng dân chủ năm 1989 Thiên An Môn và gần đây là Pháp Luân Công, Tây Tạng, Tân Cương liên quan đến các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ nhân quyền đã để lại vết hằn sâu đậm trên lịch sử nhân loại.
Để khắc phục những vấn đề trên tôi đề nghị chúng ta đoàn kết toàn dân tộc, thống nhất mọi ý chí, cả hệ thống chính trị vào cuộc tránh mọi sự lợi dụng chia rẽ của các thế lực thù địch. Tạo nguồn sinh khí mới để tập trung xử lý những vấn đề còn tồn đọng như nợ xấu, tái cơ cấu ngân hàng, khai thông thị trường bất động sản, giải quyết hàng tồn kho bằng mọi cách phải cứu lấy doanh nghiệp, tránh sự mặc cảm đối với các tập đoàn kinh tế lớn. Vì chính những tập đoàn này có công rất lớn trong các cuộc chiến tranh vệ quốc và thời kỳ đầu của đổi mới của thế kỷ trước. Khi bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế chưa theo kịp, theo tôi nếu không xuất hiện Vinashin, Vinaline thì cũng sẽ xuất hiện vina khác.
Trước mắt nền kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, thách thức, chúng ta phải đặt nhất tâm vượt khó, ổn định chính trị toàn vẹn lãnh thổ cùng bình yên của Biển Đông lên hàng đầu, vì sự ổn định phát triển của đất nước, hạnh phúc của nhân dân. Xin cảm ơn Quốc hội

Vương Đình Huệ - Bộ trưởng Bộ tài chính
Kính thưa Đoàn Chủ tịch.
Kính thưa Quốc hội.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn các vị đại biểu Quốc hội đã đóng góp nhiều ý kiến liên quan đến lĩnh vực tài chính và tài khóa. Chúng tôi sẽ tổng hợp đầy đủ để nghiên cứu tiếp thu làm sao cho công tác về tài chính, ngân sách ngày càng được tốt hơn. Hôm nay tôi xin phép chỉ phát biểu về 4 nội dung:
Một là vấn đề tỷ lệ động viên thuế và phí.
Hai là quản lý các giá và kiểm soát lạm phát.
Ba là liên quan đến ý kiến trong việc quản lý tạm nhập, tái xuất.
Bốn là vấn đề cải cách tiền lương.
Nếu Quốc hội và Đoàn Chủ tọa cho phép tôi xin phép được phát biểu nhiều hơn một chút và trường hợp không có thời gian tôi xin đăng ký phát biểu lại lần thứ hai.
Thứ nhất, về tỷ lệ động viên thuế và phí, một số ý kiến cho rằng tỷ lệ động viên thuế và phí ở nước ta cao hơn nhiều nước trong khu vực và thế giới. Xin báo cáo với Quốc hội cụ thể như sau. Về tỷ lệ động viên ngân sách của các nước thường chỉ tính trên thu của ngân sách Trung ương. Ở nước ta ngân sách là thống nhất gồm cả thu của ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương.
Thứ hai, thu ngân sách của Việt Nam được tính cả thu từ dầu thô, từ quyền sử dụng đất, từ bán nhà thuộc sở hữu nhà nước, từ viện trợ, trong khi bản chất các nguồn thu này không phải là khoản động viên từ nền kinh tế, các nước theo thông lệ không tính vào các khoản động viên, chỉ tính các khoản thu từ vốn. Nếu tính trong năm 2006 - 2010, tỷ lệ động viên từ thuế, phí bao gồm cả dầu thô của Việt Nam là 24,9% GDP, nhưng nếu chỉ tính ngân sách trung ương chỉ bằng 17,9% GDP. Nếu loại trừ thu dầu thô thì tỷ lệ động viên ở Việt Nam tính chung là 19,2%, riêng ngân sách trung ương là 12,2%. Nếu loại trừ tiếp các khoản thu không mang tính chất động viên như ở các nước là thu sử dụng đất, bán nhà thuộc sở hữu nhà nước, thu từ viện trợ thì tỷ lệ động viên chung là 13,4% GDP là mức thấp và mức trung bình thấp trong khu vực.
Tuy nhiên, chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2020 đã xác định tỷ lệ động viên ngân sách nhà nước ở mức hợp lý theo hướng giảm tỷ lệ động viên để tăng khả năng cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế cũng như từng sắc thuế, tăng tích tụ vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của người dân. Trong kỳ họp này, Chính phủ đã trình Quốc hội xem xét Luật Thuế thu nhập cá nhân, đầu năm sau cũng sẽ trình xem xét sửa đổi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, trong đó có vấn đề về thuế suất.
Về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xăng, sắc thuế này được Quốc hội quyết định thông qua trong Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt từ năm 1996 và áp dụng thống nhất cho đến nay. Do xăng, dầu là nguyên liệu gốc hóa thạch, không có khả năng tái tạo, thông lệ các nước trên thế giới đều thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với cả xăng, dầu, Việt Nam ta mới chỉ thu xăng, không thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với dầu, cũng chỉ thu ở mức thấp, khoảng 0,1 đôla/l, hầu hết các nước thu ở mức 0,4 - 0,7 đôla/l. Tất nhiên các loại thuế tiêu thụ đặc biệt cũng sẽ được rà soát lại ý kiến của đại biểu Quốc hội khi chúng ta xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt.
Đối với phí sử dụng đường bộ, Bộ Tài chính đang dự thảo Thông tư để lấy ý kiến theo quy định của Luật giao thông đường bộ ngày 13/11/2008 và Nghị định số 18/2012 tháng 3/2012 về phí bảo trì đường bộ. Phí sử dụng đường bộ dự kiến áp dụng từ 1/7/2012, tuy nhiên do điều kiện có khó khăn Nghị quyết 13 của Chính phủ đã quy định hoãn trong thời gian 6 tháng và tại Thông báo số 161 ngày 3/5/2012 Chính phủ đã giao cho Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông vận tải và các bộ, cơ quan địa phương xây dựng thông tư để áp dụng từ ngày 1/1/2013. Tại đề án trình Chính phủ ban hành Nghị định 18 Bộ Giao thông vận tải cũng dự kiến khi đưa thu phí sử dụng đường bộ vào áp dụng thì sẽ xóa bỏ tất cả các trạm thu phí nộp ngân sách Nhà nước. Đối với các trạm thu phí chuyển giao quyền thu phí, trạm thu phí BOT cũng sẽ được xóa bỏ khi hết thời gian chuyển giao và tham gia hoàn vốn BOT, hiện nay Bộ Tài chính và Bộ Giao thông vận tải đang tiếp thu ý kiến góp ý của các bộ, ngành, địa phương về đối tượng thu và mức thu để có quyết định cho phù hợp.
Vấn đề thứ hai, về quản lý giá, kiềm chế lạm phát. Vấn đề này chúng tôi đã có báo cáo chi tiết gửi Văn phòng Quốc hội để gửi các đại biểu Quốc hội. Tôi xin nói vắn tắt một vài ý: Thực hiện nghị quyết của Chính phủ và Quốc hội về điều hành giá điện, than, xăng dầu, dịch vụ công theo cơ chế thị trường, phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Bộ Y tế, ngân hàng Nhà nước cho chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, phối hợp quản lý điều hành giá theo đúng quy định của pháp luật, bám sát diễn biến giá thế giới, các yếu tố đầu vào và sử dụng các công cụ bình ổn giá nên đã đạt được mục tiêu kéo lạm phát ở mức cao, 18,13% năm 2011 xuống mức 6,02% tính đến hết tháng 10/2012. Đây là một cố gắng lớn và thành công bước đầu như đánh giá của các đại biểu Quốc hội.
Về ý kiến cho rằng giá xăng, dầu chưa bám sát giá thế giới, khi tăng thì tăng nhiều, giảm thì không tương xứng. Ý kiến này của đại biểu Quốc hội về hiện tượng  hoàn toàn đúng, tuy nhiên về bản chất do Nghị định 84 quy định chu kỳ tính giá cơ sở xăng, dầu là 30 ngày. Khi giá tăng cao thì Chính phủ phải sử dụng công cụ giảm thuế nhập khẩu. Trong một thời gian dài, chúng ta đã giữ thuế nhập khẩu ở mức 0%, trong khi biểu thuế nhập khẩu đối với xăng, dầu là từ 20%-30% và sử dụng quỹ bình ổn giá. Thậm chí phải sử dụng cả định mức của các doanh nghiệp kinh doanh xăng, dầu đầu mối 300 đồng/lít. Nên khi giá thế giới giảm phải khôi phục lại một phần thuế và quỹ bình ổn, nên giảm giá thì trước cũng tính vào phần đã tăng.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Bộ Tài chính chủ động đánh giá Nghị định 84 vào cơ chế quỹ bình ổn giá. Cuối năm 2011, đầu năm 2012 đã đề nghị Chính phủ cho nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Nghị định 84. Chính phủ đã giao Bộ Công thương chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan để xem xét, sửa đổi, bổ sung nghị định này. Trong năm 2011, Kiểm toán Nhà nước đã kiểm toán và công khai về quỹ bình ổn giá. Năm 2012, Kiểm toán Nhà nước đã kiểm toán toàn diện Tổng công ty xăng, dầu Petrolimex.
Tại kỳ họp hôm nay, tôi rất tán thành với ý kiến của một số đại biểu Quốc hội. Tôi cũng đề nghị Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, nghiên cứu giao cho Ủy ban Kinh tế hoặc Ủy ban Tài chính ngân sách phối hợp với Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội để tiến hành một cuộc giám sát chuyên đề toàn diện về lĩnh vực quản lý giá, nhất là đối với giá xăng, dầu ngay trong năm 2013 để chúng ta có thể phát huy được những thành tích, những kết quả, đồng thời góp phần chỉ ra những bất cập, kể cả những tồn tại, những khuyết điểm làm cho công tác điều hành giá được tốt hơn và công bố cho đại biểu Quốc hội và cử tri được biết về vấn đề này.
Ba là có hay không việc buông lỏng vấn đề quản lý việc tạm nhập, tái xuất. Từ cuối năm 2011, Bộ Tài chính đã chỉ đạo thanh tra toàn diện trong toàn quốc về quản lý thuế tạm nhập, tái xuất. Lần đầu tiên được công bố các số liệu về kinh doanh tạm nhập, tái xuất và tình hình thuế thu nhập đối với tạm nhập, tái xuất, nhất là tạm nhập, tái xuất xăng, dầu như đại biểu Chu Sơn Hà của đoàn Hà Nội đã nói.
Đã có văn bản gửi Bộ Công thương và Bộ Tài chính cũng đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 23 ngày 7-9-2012 về việc tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu và gửi kho hải quan. Bộ Tài chính đã ban hành Chỉ thị về kế hoạch số 03 ngày 31-8-2012 và đang phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương, các bộ, ngành, các địa phương. Triển khai thực hiện quyết liệt chỉ thị này của Thủ tướng Chính phủ.
Trước đó, để tăng cường công tác đấu tranh điều tra chống buôn lậu, Bộ Tài chính đã chỉ đạo cuộc điều tra chống buôn lậu của Tổng cục Hải quan, điều tra, bắt giữ quả tang 4 tàu vào ngày 28/07/2012, thẩm lậu xăng, dầu vào nội địa, vi phạm nghiêm trọng kinh doanh tạm nhập, tái xuất xăng, dầu, thu giữ 1650 tấn xăng trị giá 27 tỷ đồng và tiến hành khởi tố vụ án chuyển cho cơ quan điều tra Bộ Công an điều tra để xử lý theo quy định của pháp luật. Trước đó, Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ Quốc phòng ban hành Thông tư liên tịch Số 25 ngày 30/03/2012 về phối hợp hành động giữa lực lượng cảnh sát biển với lực lượng hải quan trên các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam. Tổng cục Hải quan đã ký triển khai quy chế phối hợp với Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng để tăng cường công tác quản lý, kiểm soát lĩnh vực xuất nhập khẩu, chống buôn lậu, gian lận thương mại ở khu vực biên giới và trên biển. Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội cùng với công tác quản lý kinh doanh tạm nhập, tái xuất của Bộ Công thương, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục tăng cường công tác quản lý đối với kinh doanh hoạt động tạm nhập tái xuất. Đây là công việc khó khăn, gian khổ đòi hỏi có sự chặt chẽ của các cấp ủy Đảng, cơ quan chính quyền địa phương và sự quan tâm giám sát của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Cuối cùng, về vấn đề cải cách tiền lương trong dự toán ngân sách năm 2012.
Vấn đề tăng lương theo lộ trình không chỉ là mong muốn của người hưởng lương, tất nhiên trong đó có cả cử nhân mà còn là mối quan tâm hàng đầu của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chủ tịch nước, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc cũng như các vị đại biểu Quốc hội.
Để có thể đảm bảo tăng lương theo lộ trình ở thời điểm 01/05 theo mức đã dự kiến chúng tôi đã báo cáo với Quốc hội cần 60 - 65 nghìn tỷ đồng, tức là khoảng 3 tỷ đô la, chưa kể cần 29 nghìn tỷ đồng bố trí thực hiện mức lương tối thiểu 1050 nghìn đồng và phụ cấp công vụ 25% thêm 4 tháng trong năm 2013 do năm 2012 chúng ta có chỉ thực hiện 8 tháng, năm 2013 phải bố trí lương đủ 12 tháng. Điều này làm vượt quá khả năng cân đối ngân sách năm 2013 do thu ngân sách năm 2012 và 28/63 tỉnh thành phố trong đó chủ yếu là các tỉnh trọng điểm thu có thể có đánh giá là không đạt được dự toán thu năm 2013 và mức tăng thu năm 2013 sẽ rất khó khăn do mức tăng trưởng dự báo chỉ 5,5%.
Trước tình hình đó sau khi báo cáo Trung ương, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội căn cứ tình hình thu ngân sách thực tế các tháng còn lại của năm 2012 và đầu năm 2013 dự kiến sẽ báo cáo Quốc hội tháng 5 năm 2013 thực hiện một phần mức tiền lương tối thiểu chung hoặc bố trí tăng lương cho cán bộ nghỉ hưu, người có công, trợ cấp khó khăn cho cán bộ công chức có hệ số tiền lương thấp.
Tuy nhiên qua thảo luận ở tổ và nhất là ngày hôm qua thảo luận ở tại hội trường nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội đã phát biểu về vấn đề này và đáp ứng với nguyện vọng của người hưởng lương, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo, báo cáo Quốc hội dự kiến trình Quốc hội xem xét quyết định phương án tăng lương ngay trong khi xem xét quyết định dự toán ngân sách năm 2013 tại kỳ họp này với phương án khái quát cụ thể, Chính phủ sẽ báo cáo với Ủy ban Thường vụ Quốc hội để báo cáo với Quốc hội xem xét cụ thể.
Tăng mức tiền lương tối thiểu chung cho cán bộ công chức, viên chức, cán bộ nghỉ hưu, người có công, tức là đối tượng khoảng 8 triệu người ở mức 100.000/người/tháng, trong 6 tháng bắt đầu từ ngày 1/7/2013. Tổng số kinh phí cần là khoảng 20.700 tỷ đồng tức là khoảng 1 tỷ USD, trong đó ngân sách trung ương phải lo 18.400 tỷ và ngân sách địa phương phải lo 3.300 tỷ đồng.
Do tất cả các khoản dự toán thu nội địa, xuất nhập khẩu, sử dụng đất, dầu thô năm 2013 đã ở mức rất cao và có độ rủi ro lớn, Thường trực Ủy ban Tài chính và ngân sách, đại diện Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội tại phiên họp ngày 29/10 với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư cùng thống nhất là không nên tăng thêm các khoản dự toán thu. Như vậy để có nguồn tăng lương bắt buộc phải cơ cấu lại các khoản chi ngân sách nhà nước và triệt để tiết kiệm các khoản chi tiêu.
Về việc thực hiện mục tiêu tăng lương vừa đảm bảo các cân đối để đạt mục tiêu tăng trưởng năm 2013 là 5,5% GDP, dự kiến Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội để báo cáo Quốc hội xem xét quyết định giảm mức đầu tư công khoảng 10.000 tỷ đồng xuống còn 170.000 tỷ đồng nhưng vẫn đảm bảo cao hơn mức bội chi ngân sách. Đồng thời trình Quốc hội cho phép phát hành trái phiếu Chính phủ năm 2013 ở mức 55.000 - 60.000 tỷ đồng, nhưng vẫn đảm bảo tổng mức 225.000 tỷ đồng đã được Quốc hội quyết định cho cả giai đoạn đến năm 2015.
Tiết kiệm chi ngân sách Trung ương 10% khoảng 1.600 tỷ đồng. Giảm bớt chi hoàn thuế giá trị gia tăng xuống còn 73.200 tỷ đồng. Trong trường hợp ngân sách năm 2012 có tăng thu thì sẽ bố trí ưu tiên để tăng thêm cho mục chi này.
Ngân sách địa phương 3.300 tỷ đồng thì lấy ở 10% tiết kiệm chi thường xuyên đã bố trí trong dự toán trình Quốc hội và phần 50% tăng thu dành để làm lương còn lại ở một số địa phương.
Đấy là phương án tích cực và khả thi nhất có thể tính đến, Chính phủ cố gắng kiểm soát lạm phát ở mức 7 - 8% / năm để đảm bảo tăng thu nhập thực tế cho cán bộ công chức và người lao động, người hưởng lương. Toàn bộ các phương án theo thẩm quyền Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định. Xin cảm ơn Quốc hội.


Đặng Thị Kim Chi - Phú Yên
Kính thưa Quốc hội.
Cơ bản tôi thống nhất với báo cáo của Chính phủ và đánh giá cao những kết quả đã đạt được trong lĩnh vực an sinh xã hội. Cụ thể đối với chính sách người có công thì Chính phủ đã sửa đồi Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, đã đưa các đối tượng điều chỉnh trong các Quyết định 30, Quyết định 142, Quyết định 290, Quyết định 62, nạn nhân chất độc da cam vào Pháp lệnh để nâng cao tính pháp lý. Đồng thời cũng bổ sung những quy định mới như thương binh, bệnh binh từ 81% trở lên khi từ trần thì được mai táng phí và vợ, con của họ được hưởng chế độ hàng tháng cùng các chế độ khác như vợ, con liệt sỹ. Thân nhân chủ yếu của thương binh, liệt sỹ được hưởng bảo hiểm y tế, người bị địch bắt tù đầy được nhận tiền trợ cấp hàng tháng.
Pháp lệnh Bà mẹ Việt Nam anh hùng (sửa đổi) mới đây cũng đã mở rộng đối tượng đến các mẹ có 2 con là liệt sỹ, có 1 con là liệt sỹ và 1 con là thương binh từ 81% trở lên thì cũng được công nhận là Mẹ Việt Nam anh hùng. Kèm theo một số quy định khác như chế độ cho người nuôi mẹ hoặc kinh phí để xây mộ khi từ trần, cho thấy Chính phủ rất quan tâm đến đối tượng người có công. Mặc dù kinh tế suy giảm nhưng Chính phủ vẫn tăng lương tối thiểu theo lộ trình chi phục vụ các công vụ của các khối Đảng, đoàn thể, tăng phụ cấp cho các đối tượng xã hội, đối tượng chính sách để nâng dần cuộc sống của họ, quan tâm chỉ đạo thực hiện các chỉ tiêu trong chiến lược quốc gia về bình đẳng giới. Chỉ đạo chương trình giảm nghèo gắn với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội như chương trình xây dựng nông thôn mới, đầu tư cơ sở hạ tầng trồng rừng, dạy nghề, tạo việc làm cho nông dân.
Để giải quyết sự chênh lệch của vùng miền, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 30a cho 62 huyện nghèo đã góp phần giải quyết chênh lệch vùng miền. Ban hành Quyết định 286 về thực hiện chính sách hỗ trợ y tế, giáo dục, nhà ở và tiền điện cho hộ nghèo v.v... Nói chung tất cả hệ thống chính sách đó đã giúp cho dân nghèo và những người thuộc nhóm yếu thế của xã hội tiếp cận những điều kiện cơ bản nhất về ăn, ở, khám chữa bệnh, học hành, đi lại, việc làm, sản xuất, thông tin trợ giúp pháp lý. Nhất là khi bão lũ, dịch bệnh, Chính phủ về cơ sở để vừa chỉ đạo, kiểm tra, tháo gỡ khó khăn cho cơ sở, cho địa phương, vừa kịp thời động viên nhân dân ở đó vượt qua khó khăn, thách thức.
Tôi nêu hơi cụ thể những kết quả trên để thấy sự nỗ lực của Chính phủ và Quốc hội, nhân dân cũng cần ghi nhận. Tất nhiên, chúng ta không thỏa mãn, nói như thế không có nghĩa không còn khuyết điểm hạn chế thiết sót trong vấn đề thực hiện mục tiêu này. Đánh giá riêng từng mặt, từng chương trình, từng chính sách cụ thể, có lúc, có nơi, có việc này, việc khác vẫn còn chưa tốt, chưa đầy đủ, chưa kịp thời trong quá trình tổ chức thực hiện. Tôi không phân tích lại những mặt tồn tại, tôi xin kiến nghị Chính phủ trong thời gian tới cần quan tâm một số vấn đề để chỉ đạo công tác an sinh xã hội được thực hiện tốt hơn nữa:
Một, đối với chính sách giảm nghèo, tôi thống nhất với nhiều giải pháp mà các đại biểu đã phát biểu từ hôm qua tới giờ, cũng như những biện pháp mà Chính phủ đang thực hiện. Nếu được tập trung nguồn lực triển khai thực hiện đồng bộ, tin rằng sẽ đạt kết quả tốt, do đó, tôi không nêu lại. Tôi đề nghị Chính phủ cần đặc biệt quan tâm công tác đào tạo nghề thanh niên phải gắn với địa chỉ cụ thể và gắn với việc làm phù hợp với từng địa phương, tránh lãng phí để tương lai những thanh niên này có việc làm ổn định, thoát nghèo bền vững. Bên cạnh việc ưu tiên chăm lo cho hộ nghèo, tôi đề nghị cần quan tâm hộ trợ cho các hộ cận nghèo bởi vì ranh giới giữa nghèo và cận nghèo là rất mong manh dễ bị tái nghèo nếu không có chính sách hỗ trợ kịp thời và phù hợp, cần sớm ban hành chính sách cho hộ nghèo được vay vốn ưu đãi phát triển sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống để thoát nghèo bền vững theo Quyết định 80 năm 2011 của Chính phủ và triển khai kịp thời việc hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho hộ nghèo.
Đề nghị Chính phủ trong cải cách tiền lương lần này cần quan tâm rà soát điều chỉnh sớm các bất hợp lý về tổ chức biên chế chính sách cán bộ và tiền lương trong cả hệ thống chính trị, đảm bảo sự công bằng hợp lý và đồng bộ. Hiện nay chế độ đãi ngộ mức lương của các cơ sở còn bất cập, chưa đáp ứng với cường độ làm việc và sự lăn xả với nhiều vấn đề mới, phức tạp nảy sinh từ cơ sở. Chúng ta đã nhận thấy những bất cập trong thực hiện chế độ phụ cấp cho cán bộ cơ sở ở Nghị định 92 của Chính phủ nhưng chậm khắc phục.
Khi thực hiện phụ cấp 30% dành cho Đảng, Mặt trận đoàn thể nhưng cán bộ cấp xã cũng không được hưởng, điều này gây không ít bức xúc cho cán bộ cơ sở. Cần nâng lương hợp lý cho cán bộ hưu khi nghỉ hưu sớm, khi tiếp xúc cử tri các cô, các bác rất tâm tư bởi vì cả tuổi xuân họ đã tham gia cách mạng, chỉ có một mong muốn là giải phóng đất nước, không có đòi hỏi gì về lương, về chế độ và khi đất nước hòa bình nhưng còn nhiều khó khăn họ lại phải thắt lưng buộc bụng để hi sinh xây dựng đất nước và đến tuổi về hưu, cũng vì đất nước còn nghèo lương thấp nên họ chấp nhận, nhưng đến nay đã qua nhiều lần nâng lương, lương thấp thì vẫn thấp bởi vì cách Chính phủ nâng lương là lấy lương huyện để nhân tỷ lệ phần trăm cho nên người nghỉ hưu sớm lương thấp vẫn thấp, mức chênh lệch giữa những cán bộ hưu có cùng chức danh công việc vẫn tiếp tục cách xa. Tôi kiến nghị trong đề án cải cách tiền lương lần này Chính phủ cần giải quyết căn cơ, cần nâng mức lương tối thiểu của người nghỉ hưu trước năm 1993 rồi mới nhân tỷ lệ phần trăm mới đảm bảo được công bằng trong thu nhập.
Ba, vấn đề bình đẳng giới. Có nhiều chỉ tiêu trong chương trình quốc gia về bình đẳng giới và nhiều điều của Luật bình đẳng giới chưa được thực hiện. Trước mắt, tôi đề nghị Chính phủ cần tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020, phải có phân tích đánh giá chính xác phát triển giới, sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới trên tất cả lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Chỉ đạo quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và bổ nhiệm cán bộ, chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ nữ cho giai đoạn 2015-2020. Phải phấn đấu để đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy đảng nhiệm kỳ 2016-2020 từ 25% trở lên, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2020 là trên 35%, cũng như tỷ lệ lãnh đạo chủ chốt là nữ ở các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp.
Cần lưu ý vì nữ nghỉ hưu trước 5 năm, nếu như không thay đổi về tuổi đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm và tuổi nghỉ hưu thì không thể đạt chỉ tiêu đề ra.
Triển khai thực hiện Khoản 3 Điều 17 của Luật Bình đẳng giới để phụ nữ nghèo, cư trú ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số khi sinh con được hưởng hỗ trợ theo quy định của Chính phủ bằng tiền một lần để chị em khi sinh con thì có một ít kinh phí để giảm bớt khó khăn.
Tôi xin cảm ơn Quốc hội.

Thân Văn Khoa - Bắc Giang
Kính thưa Quốc hội.
Trước hết, tôi bày tỏ sự đồng tình với nhiều nội dung đã được nêu trong báo cáo của Chính phủ và những nhận định, phân tích trong Báo cáo Thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Chúng tôi đánh giá thái độ thẳng thắn của Chính phủ đánh giá về những vấn đề còn thiếu sót, khuyết điểm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ điều hành nghị quyết của Quốc hội. Trong đó, báo cáo của Chính phủ đã chỉ ra nhiều khuyết điểm tồn tại, đặc biệt về những khuyết điểm trong hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô. Những khuyết điểm về thực hiện an sinh xã hội và đầu tư công.
Tuy nhiên, tôi thấy việc phân tích những nguyên nhân của những khuyết điểm, hạn chế trong báo cáo chưa chỉ ra một cách cụ thể. Ví dụ, các khuyết điểm như tình hình nợ xấu trong hệ thống ngân hàng chậm được giải quyết, khu vực doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, nhất là khó khăn về vốn tín dụng. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động ngày càng tăng, sức mua thấp, tồn kho của một số ngành ở mức cao.
Tôi đồng tình với ý kiến phát biểu của đại biểu Lê Minh Thông - tỉnh Thanh Hóa phát biểu buổi chiều hôm qua. Tôi đề nghị Chính phủ cần phải phân tích, làm rõ một cách thấu đáo về bản chất và những nguyên nhân chủ quan đã dẫn đến nợ xấu. Phải chăng cơ chế kiềm chế lạm phát, cơ chế giám sát của ngành Ngân hàng lỏng lẻo, tinh thần trách nhiệm của lãnh đạo, nhân viên của ngân hàng còn hạn chế. Hay một bộ phận lãnh đạo, nhân viên ở một số ngân hàng còn vi phạm pháp luật, tôi chưa đồng tình với ý kiến giải thích của Thống đốc ngân hàng về nợ xấu. Theo tôi trách nhiệm giải quyết nợ xấu trước hết trực tiếp vẫn phải là ngành ngân hàng trong đó ngân hàng nhà nước chiếm vị trí quan trọng.
Do những nguyên nhân chủ quan dẫn đến nợ xấu chưa được làm rõ nên chưa đề ra được những giải pháp xử lý phù hợp như cơ cấu lại nợ xấu, xử lý nợ xấu giữa các doanh nghiệp với doanh nghiệp, doanh nghiệp với ngân hàng. Thực tế chúng ta có thể thấy trong khi nợ xấu ngày càng tăng cao hay nói các khác là hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thấp nhưng lương và thưởng của ngành ngân hàng không thể nói là thấp so với lương trong xã hội. Tôi cho rằng đây là những vấn đề đang là cản trở trong việc tái cơ cấu ngân hàng, vấn đề nợ xấu. Tôi đề nghị Chính phủ tiếp tục phân tích làm rõ hơn nguyên nhân chủ quan về những hạn chế tồn tại khuyết điểm, phân tích đánh giá một cách toàn diện về nợ xấu, làm rõ bản chất của nợ xấu để từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp để giải quyết triệt để nợ xấu.
Vấn đề thứ hai, những khuyết điểm về đầu tư cho chính sách an sinh xã hội, đúng là trong điều kiện nước ta mới bước ra khỏi nước kém phát triển cho nên nguồn lực để đầu tư cho chính sách an sinh xã hội còn hạn chế. Tuy nhiên trong những năm qua cũng như trong báo cáo và tại diễn đàn của Quốc hội nhiều đại biểu cũng đã thẳng thắng phát biểu chỉ rõ hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực đầu tư cho các chính sách an sinh xã hội. Vừa qua một số đoàn đại biểu Quốc hội có đi khảo sát về tình hình thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn. Qua khảo sát cho thấy trung bình các công trình cung cấp nước sạch tập trung tại một số địa phương có những địa phương chỉ đạt 55 - 56% công suất thiết kế. Nhiều công trình vừa đưa vào sử dụng đã bị hư hỏng, có những công trình đầu tư 10 tỷ đồng nhưng kéo dài hàng chục năm mà vẫn không được bàn giao. Nhiều công trình do khảo sát thiết kế, do tinh thần trách nhiệm của chủ đầu tư, của nhà thầu, của các cấp chính quền cơ sở dẫn đến kết quả là nhà nước thì quan tâm đầu tư nhưng nhân dân vẫn không được hưởng. Như thế có thể thấy nguồn lực của nhà nước đầu tư đã bị lãng phí, không hiệu quả. Như vậy, vấn đề nguồn lực hạn chế không đáng lo ngại, chúng ta cần quan tâm làm sao nâng cao hiệu quả đầu tư từ những nguồn lực ít ỏi đó. Tôi đồng tình với kiến nghị của Ủy ban Tài chính, ngân sách về chương trình mục tiêu quốc gia đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát cắt giảm đầu tư cho dự án kém hiệu quả, trong trường hợp cần thiết đề nghị Quốc hội xem xét rút gọn các chương trình mục tiêu quốc gia, đảm bảo sử dụng ngân sách tập trung hơn.
Vấn đề thứ ba, về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân đối với các sai phạm trong lĩnh vực đầu tư, tôi cho rằng một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, hạn chế của chúng ta trong thời gian qua đó là thiếu hướng dẫn thực hiện cơ chế phân định trách nhiệm một cách minh bạch, rõ ràng, các ban chỉ đạo các cấp chính quyền phân công chỉ đạo theo dõi thực hiện các chương trình kế hoạch nhưng không hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra thì không ai phải chịu trách nhiệm. Những quyết định đầu tư không đạt hiệu quả, gây lãng phí cũng không sao, việc khảo sát thiết kế, việc giám sát, việc thi công làm sai, làm chậm cũng không sao, cuối cùng là không ai chịu trách nhiệm. Rõ ràng trong quản lý nhà nước, công tác kiểm tra giám sát, xác định trách nhiệm của người đứng đầu của chúng ta là chưa rõ ràng. Tôi cho về văn bản quy bản pháp luật quy định trách nhiệm chỗ này, chỗ khác có đề cập nhưng việc tổ chức hướng dẫn thực hiện trong thực tế vẫn còn bất cập. Đây là những hạn chế, thiếu sót, đồng thời cũng là nguyên nhân của nhiều nguyên nhân về những khuyết điểm yếu kém trong nền kinh tế của chúng ta. Chúng tôi rất mong và đề nghị Chính phủ trong thời gian tới tăng cường hơn nữa bổ sung các giải pháp thực hiện, đặc biệt là các giải pháp về nhóm cải cách hành chính. Tôi xin hết.

Nguyễn Thị Kim Ngân - Phó chủ tịch Quốc hội
Xin cảm ơn đại biểu Thân Văn Khoa.
Xin mời Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình tiếp tục báo cáo trước Quốc hội về vấn đề thị trường vàng, những chủ trương, chính sách quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước và liên quan tới những quyền lợi của nhân dân trong vấn đề này.
Vấn đề thứ hai, nếu còn thời gian, đề nghị Thống đốc báo cáo luôn làm sao để các doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận được nguồn vốn vay tín dụng ngân hàng để khôi phục, ổn định và phát triển sản xuất.

Nguyễn Văn Bình - Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Kính thưa các đồng chí,
Trên cơ sở đóng góp ý kiến của các đại biểu Quốc hội, tôi xin trình bày và báo cáo các nội dung đầu tiên về quản lý thị trường vàng.
Về nội dung này, trước tiên tôi xin thay mặt cho Ngân hàng Nhà nước nhận trách nhiệm về việc không làm tốt thông tin truyền thông để phổ biến kịp thời những nội dung về chủ trương chính sách của nhà nước ta trong vấn đề quản lý thị trường vàng, do đó còn nhiều thông tin chưa đầy đủ và chính xác, gây nên những cách hiểu không đúng và bất ổn trên thị trường.
Trong thời gian qua, do bất ổn của kinh tế thế giới và bất ổn của kinh tế trong nước giá vàng thế giới đã tăng cao và giá vàng trong nước có nhiều biến động thất thường. Như vậy, tình trạng vàng hóa của nền kinh tế đã được đẩy lên rất cao. Theo đánh giá không chính thức sơ bộ ban đầu trong nền kinh tế của nước ta có khoảng từ 300- 400 tấn vàng, hay nói một cách khác là có một nguồn lực cỡ khoảng từ 15 - 20 tỷ đô la không được đầu tư vào sản xuất kinh doanh và bị chôn chặt vào vàng. Hơn nữa, mỗi khi giá vàng có biến động nó làm ảnh hưởng đến tỷ giá thông qua hoạt động nhập khẩu lậu vàng gây nên ảnh hưởng đến hoạt động xuất, nhập khẩu và gián tiếp làm cho lạm phát tăng cao trong những năm qua và tạo ra sự bất ổn của kinh tế vĩ mô. Trước tình hình đó, Chính phủ đã chỉ đạo ngân hàng nhà nước thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 về việc kiên quyết chống đô la hóa và chống vàng hóa. Đề án chống vàng hóa của ngân hàng nhà nước có hai mục tiêu chính.
Mục tiêu thứ nhất là làm sao cho biến động của giá vàng không làm ảnh hưởng đến tỷ giá, do vậy, không thể làm ảnh hưởng đến lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Mục tiêu thứ hai là làm sao ngăn chặn đẩy lùi tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế và có thể huy động ngược trở lại nguồn vốn này cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Đó là hai mục tiêu quan trọng nhất và đề án chống vàng hóa của ngân hàng nhà nước bao gồm 3 bước: Bước 1 là xây dựng khuôn khổ pháp lý; Bước 2 là chấm dứt hoạt động huy động cho vay bằng vàng trong hệ thống các tổ chức tín dụng; Bước 3 là chuyển toàn bộ sang quan hệ mua bán bằng vàng. Đến nay chúng tôi đã cơ bản triển khai được hai bước là bước 1 và  và bước 2.
Về khuôn khổ pháp lý, Chính phủ đã ban hành Nghị định 24 về quản lý mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng. Chính phủ đã ban hành Nghị định 95 về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh vàng. Đây là hai nội dung pháp lý hết sức quan trọng có tác dụng điều chỉnh mọi hoạt động trên thị trường vàng của chúng ta.
Nghị định 24 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25 tháng 5 năm nay và sau 5 tháng hoạt động chúng ta thấy đã có những kết quả ban đầu hết sức cơ bản. Từ tháng 5 trở lại đây, chúng ta nhận thấy trên thị trường vàng, giá vàng trong nước, giá vàng thế giới chênh nhau cũng khá lớn từ 1.000.000 cho đến nay 3.000.000. Nhưng chúng ta thấy thị trường có hai hiện tượng mà khác hẳn với trước đây.
Thứ nhất, không còn hiện tượng người dân đổ sô đi  mua vàng như trước đây nữa.
Thứ hai, mặc dù giá vàng biến động lớn như vậy nhưng tỷ giá của chúng ta hoàn toàn ổn định và thậm chí trong những ngày mà chúng ta đang đứng ở đây là giá vàng trong nước còn cao hơn giá vàng thế giới khoảng 3.000.000 nhưng tỷ giá vẫn tiếp tục hạ và Ngân hàng Nhà nước vẫn mua được ngoại tệ để tăng thêm dự trữ ngoại hối nhà nước. Như vậy, có thể thấy rằng mục tiêu quan trọng thứ nhất của đề án chống vàng hóa của chúng ta bước đầu đã đạt được những kết quả rất có ý nghĩa quyết định.
Vấn đề thứ hai, do việc người dân không đổ sô đi mua vàng nữa, có nghĩa là việc vàng hóa nền kinh tế đã được chặn đứng.
Nhưng xin báo cáo với Quốc hội, từ tháng 5 năm 2012 đến nay hệ thống ngân hàng đã mua lại được 60 tấn vàng từ nền kinh tế hay nói một cách khác đã có 60 tấn vàng được chuyển đổi từ vàng sang tiền để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. Điều đó thể hiện mục tiêu thứ hai là chặn đứng từng bước để huy động lại nguồn vốn này phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước đã được thực hiện.
Như vậy, qua mới chỉ có 5 tháng thực hiện Nghị định 24 chúng ta đã có những kết quả bước đầu hết sức quyết định. Điều này chúng tôi xin báo cáo với Quốc hội và các đại biểu, cử tri cả nước, đây là hai quyết sách có ý nghĩa hết sức quan trọng trong thời gian vừa qua khi đất nước chúng ta cực kỳ khó khăn đó là chương trình chống vàng hóa và chống đô la hóa. Chúng ta cũng biết rằng bước sang triển khai nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2012, tình hình tài chính của đất nước chúng ta là vô cùng khó khăn. Hệ thống ngân hàng thiếu thanh khoản và thanh khoản của nền kinh tế cũng hết sức khó khăn.
Trong khi đó nhiều đại biểu Quốc hội cũng đã phân tích việc xử lý nợ xấu, việc xử lý hàng tồn kho, việc xử lý bong bóng bất động sản v.v... là những vấn đề không phải của một sớm một chiều. Lấy nguồn lực nào để phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội năm 2012 thì chúng tôi đã kiên quyết và được sự chỉ đạo chặt chẽ của Chính phủ triển khai mạnh mẽ chương trình chống đô la hóa và vàng hóa.
Chúng ta thấy rằng từ đầu năm đến nay chúng ta cũng đã mua được cỡ 10 tỷ USD, như vừa rồi chúng tôi trình bày 60 tấn vàng cỡ khoảng 3 tỷ USD, đó là nguồn lực đã chuyển đổi từ ngoại tệ và vàng sang đồng Việt Nam để phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước. Nhờ vậy mà chúng ta có được thanh khoản của nền kinh tế, cải thiện được thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, giảm được lãi suất và mới có những bước tăng trưởng mặc dù còn thấp hơn nhiều so với mong muốn của chúng ta nhưng ít nhất cũng đảm bảo cho nền kinh tế của chúng ta được ổn định trong thời gian vừa qua.
Bên cạnh những kết quả đạt được như vậy chúng tôi cũng xin nhận khuyết điểm trước Quốc hội là vẫn còn có một số các tồn tại trong các vấn đề quản lý thị trường vàng. Thứ nhất, hiện nay khái niệm độc quyền về vàng miếng SJC tôi cũng xin giải thích với Quốc hội và cử tri của cả nước như sau: Kể từ ngày 25/5 tất cả các đơn vị dập vàng miếng kể cả công ty SJC đều phải chấm dứt dập vàng miếng, kể từ lúc đó chỉ có ngân hàng nhà nước thực hiện vai trò độc quyền nhà nước được dập vàng miếng và ngân hàng nhà nước chọn mác vàng SJC là mác vàng của ngân hàng nhà nước. Vì trên thực tế vàng SJC đến thời điểm hiện nay đã chiếm tới khoảng 93 -95% của thị phần vàng miếng toàn quốc. Do vậy, để tránh xáo trộn trên thị trường vàng miếng cũng như chi phí phải dập lại thì ngân hàng nhà nước sử dụng luôn mác đó và độc quyền nhà nước về mác đó chứ không có công ty SJC nào được dập vàng miếng SJC nữa.
Nội dung thứ hai, theo quy định của Nghị định 24 thì kể từ sau ngày 25-4 thì tất cả các loại vàng miếng mà trước đây đã được cấp phép dập vàng miếng đều được phép lưu hành bình thường. Nhà nước không bắt buộc phải chuyển đổi từ mác vàng miếng này sang mác vàng miếng khác.
Đó là hai thông tin mà thời gian vừa qua, mặc dù chúng tôi đã tích cực phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhưng xét lại thì thấy còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Do vậy, trong dư luận còn có nhiều lo lắng về vấn đề này thì chúng tôi xin nhận khuyết điểm và sẽ cố gắng phổ biến rộng rãi hơn.
Hiện nay đang có một nhu cầu chính đáng của người dân là chuyển các vàng khác sang vàng SJC. Chúng tôi đã bàn với tất cả các cơ quan có liên quan để nâng cao năng lực thẩm định, giám định để chuyển đổi các vàng này cho người dân thế thì kể cả việc chúng tôi đã tiến hành kiểm định theo lô lớn, thậm chí kể cả biện pháp Ngân hàng Nhà nước ứng trước vàng SJC cho các bên có nhu cầu để sau đó chuyển đổi sau. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ nỗ lực phấn đấu cùng với các cơ quan có liên quan để nhanh chóng khắc phục tình trạng đó.
Tóm lại, về quản lý thị trường vàng, chúng tôi cho rằng, những kết quả ban đầu đã nêu trên thể hiện sự đúng đắn của phương án chống vàng hóa của Chính phủ. Chúng ta kiên quyết thực hiện phương án đó.
Còn những vấn đề phát sinh thì chúng tôi sẽ kiên quyết phối hợp với các bộ, ngành tích cực tìm các biện pháp tháo gỡ trong thời gian sớm nhất để đảm bảo quyền lợi cho người dân.
Nội dung thứ hai, tôi xin phép trình bày với Quốc hội về những biện pháp làm sao để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp khơi thông được luồng vốn.
Như ngày hôm qua chúng tôi đã báo cáo với Quốc hội thì trách nhiệm của hệ thống ngân hàng đó là trách nhiệm đầu tiên. Trong thời gian vừa qua, thực hiện chủ trương của Ngân hàng Nhà nước về việc khoanh nợ, giãn nợ và tái cơ cấu lại nợ cho các tổ chức tín dụng thì từ tháng tư trở lại đây đã có 36.000 tỷ dư nợ đã được khoanh nợ, giãn nợ.
Chúng tôi xin báo cáo với Quốc hội, kể từ ngày 15-7 đến nay, thì trước ngày 15-7 khoảng 80% dư nợ của hệ thống của chúng ta là có lãi suất trên 15% của cả nền kinh tế chỉ khoảng xấp xỉ 20%. Như vậy, chúng ta đã giảm được khoản nợ có lãi suất trên 15% là rất lớn. Phát huy các kết quả đó chúng tôi đang phối hợp với chính quyền địa phương các cấp để tổ chức các buổi giao lưu giữa doanh nghiệp với các ngân hàng thương mại để tìm ra cụ thể những khó khăn của từng doanh nghiệp, từng loại hình doanh nghiệp để có các ngân hàng cụ thể xử lý những vấn đề đó và làm sao đạt được kết quả cuối cùng. Các kết quả ban đầu như vậy tôi cho rằng trong thời gian tới còn phải nỗ lực hơn nữa.
Bên cạnh đó, tôi thấy vấn đề giải quyết hàng tồn kho có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nếu chúng ta nói hàng tồn kho chiếm khoảng 20% nhưng tôi chưa thấy báo cáo nào nói rằng 20% là của cái gì. Nếu 20% của tổng số lượng hàng hóa chúng ta sản xuất ra thì quá lớn. Tôi chỉ nói sơ bộ theo cách đánh giá của ngân hàng nhà nước chúng ta đánh giá như sau:
Giả sử trong sản xuất tổng số GDP của chúng ta chiếm khoảng 50%, 50% còn lại dịch vụ và các loại khác. Hàng hóa tồn kho của chúng ta còn 20% của 50% GDP đó thì nó chiếm cỡ  khoảng 4% nợ xấu của hệ thống ngân hàng. Nếu giải quyết được hàng tồn kho thì nợ xấu của ngân hàng được giải quyết khoảng 4%, nếu giải quyết được 93% số nợ dọng trong đầu tư cơ bản khoảng 90.000 tỷ thì chúng ta đã giải quyết được thêm 2% của nợ xấu. Nếu theo đánh giá của ngân hàng nhà nước thì nợ xấu của chúng ta khoảng 8%, chúng ta đã xử lý được khoảng 6% nợ xấu. Tôi chỉ nói sơ bộ để thấy quyết tâm của chúng ta trong vấn đề xử lý hàng tồn kho, hàng tồn kho trong sản xuất, trong xây dựng cơ bản, hàng tồn kho trong bất động sản.
Để giải quyết vấn đề này, thời gian vừa qua, chúng tôi phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành có liên quan, chúng ta đã có những chương trình với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, hiện nay chúng tôi đang triển khai những chương trình với Bộ Xây dựng để giải quyết hàng tồn kho trong xây dựng. Nói tóm lại, chúng tôi dưới góc độ nhiệm vụ của ngành ngân hàng sẽ quyết tâm phấn đấu hết mức, đặc biệt đề nghị các ngân hàng tự xử lý nợ xấu. Hiện nay các ngân hàng đang tích cực trích lập đầy đủ dự phòng rủi ro, chúng tôi cũng cương quyết đến cuối năm nay, tất cả những ngân hàng nào không trích lập đầy đủ dự phòng rủi ro, chúng tôi không cho chia cổ tức, Ngân hàng Nhà nước sẽ có các biện pháp thanh tra giám sát cần thiết để đảm bảo lợi nhuận của ngân hàng trước tiên phải phục vụ vấn đề xử lý nợ xấu. Chúng tôi cũng sẽ tích cực phấn đấu cùng với các Bộ, ngành để có những giải pháp tích cực trong vấn đề giải quyết hàng tồn kho, đặc biệt là hàng tồn kho trong lĩnh vực bất động sản.
Với những cố gắng như vậy, chúng tôi hy vọng nợ xấu trong thời gian tới sẽ được xử lý, góp phần vào việc khơi thông nguồn vốn cho các doanh nghiệp. Tôi xin hết.

Trần Khắc Tâm - Sóc Trăng
Kính thưa Quốc hội,
Tôi cơ bản tán thành với Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2012, kế hoạch  phát triển kinh tế - xã hội năm 2013. Tôi xin tham gia phát biểu với nội dung là cần có chiến lược đầu tư để khôi phục lại thế mạnh các mặt chiến lược nông, thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long.
Kính thưa Quốc hội, trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước đối diện nhiều khó khăn thách thức, Chính phủ đang có những chính sách để vượt qua khó khăn, trong đó tập trung vào các chính sách mang tính vĩ mô, từng bước ổn định kinh tế - xã hội.
Ở đây xin bàn về các vấn đề làm sao để duy trì hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp và nông dân trong lĩnh vực nông thủy sản. Vừa qua dịch bệnh trên tôm sú đã gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng cho nông dân. Chỉ riêng ở Sóc Trăng đã trên 4.000 tỷ đồng và kéo theo các nhà máy hoạt động cầm chừng do thiếu nguyên liệu. Hàng loạt nhà máy chế biến cá tra, tôm sú bị phá sản hoặc rơi vào cảnh nợ nần triền miên. Nguy cơ nhiều  nhà máy chế biến thủy sản tiếp tục bị phá sản là khó tránh khỏi. Trong khi đó cả nông dân và doanh nghiệp đang thiếu vốn trầm trọng. Tình trạng này đã làm cho vùng nuôi và hoạt động sản xuất của doanh nghiệp bị đình trệ theo chiều hướng xấu, tác động rất lớn đến vấn đề an sinh của hàng triệu nông dân và công nhân thủy sản trong vùng.
Chính phủ có nhiều chính sách tháo gỡ về hỗ trợ nguồn vốn, nhưng nhìn chung cả doanh nghiệp và nông dân đều khó tiếp cận nguồn vốn này. Tôi xin dẫn chứng, tại Công văn số 5294 ngày 20/8/2012 của Ngân hàng nhà nước ghi: thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 1149 ngày 8/8/2012 về chính sách đối với chăn nuôi và thủy sản. Tuy nhiên tại công văn này, Ngân hàng nhà nước chỉ đạo 5 ngân hàng thương mại cho vay đối với khách hàng vay là các hộ gia đình, trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp phát triển sản xuất, chăn nuôi, giết mổ để cấp đông, chế biến thịt lợn, thịt gia cầm, nuôi cá tra, chế biến cá tra xuất khẩu. Như vậy cho vay thủy sản chỉ có đối tượng là cá tra, còn đối tượng nuôi tôm không được hưởng cơ chế ưu đãi như tại Văn bản số 5294 của Ngân hàng nhà nước.
Xuất phát từ những khó khăn của nông dân nuôi tôm, tôi kiến nghị Ngân hàng nhà nước lùi thời gian trả nợ ngân hàng gồm nợ vốn, nợ lãi với thời gian 24 tháng và tiếp tục cho vay đối với những hộ có phương án, có trang bị kỹ thuật nuôi tôm tốt và tiếp tục quy hoạch và đầu tư vùng thủy lợi phục vụ nuôi thủy sản theo công nghệ cao. Hiện nay có nhiều cánh đồng mẫu cho sản xuất nông nghiệp nhưng chưa có cánh đồng mẫu cho nuôi tôm, quy mô có thể thực hiện 500 đến 1000 ha được đầu tư hệ thống thủy lợi khép kín, có hệ thống cấp và hệ thống thoát nước riêng biệt, có như vậy mới mong hạn chế được dịch bệnh tạo nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu thủy sản ổn định. Cũng như thủy sản mặt hàng lúa gạo năm qua cũng gặp nhiều khó khăn khi giá lúa thấp như lúa hè thu năm 2012 thì Chính phủ chưa có chính sách thu mua tạm trữ, nông dân phải bấm bụng bán giá lúa thấp để lo cho nhiều chi tiêu thúc bách hàng ngày, trả tiền phân,  thuốc trừ sâu, tiền cắt lúa và đến khi Chính phủ có chính sách tạm trữ thì giá lúa tăng, gần như nông dân đã bán hết lúa, chính sách này đến chậm vô tình chỉ làm lợi cho các doanh nghiệp mua dự trữ hoặc doanh nghiệp xuất khẩu gạo.
Kính thưa Quốc hội, tôm sú, cá tra, lúa gạo là 3 mặt hàng chiến lược của nhiều tỉnh khu vực đồng bằng Sông Cửu Long, chắc chắn những khó khăn trong năm 2012 sẽ tác động đến chỉ tiêu kinh tế của địa phương nhưng đáng lo hơn nguy cơ tụt hậu, tụt lùi của các mặt hàng chiến lược này là có thật bởi sản xuất doanh nghiệp trong vùng bị teo tóp, nội lực sản xuất người dân đã giảm sút. Chính vì vậy, xin đặt vấn đề làm thế nào để các chính sách về vốn đến nhanh và không bị các rào cản kỹ thuật từ phía ngân hàng nhất là với nông dân sản xuất.
Xin nói thêm dù tình trạng nợ xấu ngân hàng có xu hướng gia tăng nhưng với nhóm đối tượng là nông dân vẫn ở mức thấp, vì vậy đầu tư vào đây là rất cần thiết. Bên cạnh đó việc điều tra để giãn nợ, khoanh nợ cũng rất cần thiết nhưng triển khai quá chậm chạp và không phát huy được tác dụng. Đối với mặt hàng lúa gạo Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn lấy ý kiến để tìm cơ chế hỗ trợ nông dân tạm trữ lúa. Dù nhiều hội thảo được tổ chức lấy ý kiến như ở An Giang, Kiên Giang các địa phương đã có ý kiến nhưng đến nay vẫn chưa có quyết định cụ thể để hỗ trợ nông dân tạm trữ lúa.
Nói nôm na lúa gạo ở Đồng bằng Sông Cửu Long khi giảm giá có nhiều nguyên nhân, có thể doanh nghiệp xuất khẩu gạo gặp khó khăn đầu ra nhưng nguyên nhân xuất hiện thường xuyên là do nông dân thu hoạch đồng loạt cùng lúc dẫn đến ùn ứ cục bộ, nói thật, doanh nghiệp xuất khẩu gạo chẳng dại gì mua vào thời điểm này hoặc có mua thì mua cầm chừng.
Cử tri đặt câu hỏi liệu thời gian qua, các doanh nghiệp xuất khẩu, nằm trong Hiệp hội lương thực Việt Nam làm ngơ cho nông dân thu hoạch đồng loạt, nhằm tạo áp lực để Chính phủ đưa ra những chính sách mua tạm trữ lúa, hỗ trợ lãi suất cho chính doanh nghiệp. Giải pháp nào để chính sách mua tạm trữ lúa đến kịp thời và nông dân trồng lúa hưởng thụ kịp thời, hưởng lãi trực tiếp từ chính sách này là vấn đề nông dân đồng bằng sông Cửu Long quan tâm. Không thể cứ bàn về kho dự trữ, các quy cách kỹ thuật về trữ lúa, quy mô sản xuất của từng nông hộ để cho gần, nông dân không biết cách trữ lúa vì thực tế, cách đây hàng chục năm, nông dân vẫn biết phơi lúa và trữ lúa trong bồ, để cả quanh năm không hư hao gì. Cần sớm triển khai thí điểm mô hình này, Chính phủ cần có quyết định đưa ra những chính sách thu mua tạm trữ đúng thời điểm. Nên chăng công bố ngay từ đầu vụ để nông dân rộng bề chọn thời điểm dự trữ và bán lúa. Tôi xin hết.

Nguyễn Thị Kim Ngân - Phó chủ tịch Quốc hội
Xin cảm ơn đại biểu Trần Khắc Tâm.
Kính thưa Quốc hội,
Vấn đề đập Thủy điện Sông Tranh không những là mối quan tâm của cử tri Quảng Nam, còn là sự quan tâm của cử tri cả nước. Sau đây xin mời Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải (Thái Bình) phát biểu về vấn đề này.

Hoàng Trung Hải - Thái Bình
Kính thưa Quốc hội,
Về dự án Thủy điện Sông Tranh 2, tại kỳ họp Quốc hội này, Ủy ban Khoa học công nghệ, môi trường của Quốc hội đã thực hiện một Báo cáo giám sát và đã gửi đến các vị đại biểu Quốc hội. Trong Báo cáo đã đưa ra các đánh giá cũng như các kiến nghị để Chính phủ cùng với các cơ quan liên quan tiếp tục triển khai, Báo cáo đã nêu rất rõ ràng, tôi xin báo cáo thêm một số nội dung như sau:
Thứ nhất, Sông Tranh 2 là một dự án thủy điện nằm trong hệ thống bậc thang Vu Gia- Thu Bồn, có công suất là 190MW, có 2 tổ máy 95MW và khoảng 700 triệu KW/giờ/năm. Dự án đã được khởi công từ tháng 3. 2006 và tích nước giai đoạn 1 là cuối năm 2010, tích nước giai đoạn 2 là cuối năm 2011. Dự án sau khi tích nước đã đưa vào vận hành đã xuất hiện 2 vấn đề.
Thứ nhất là xuất hiện thấm ở công trình đập. Lượng thấm từ 30-80 lít trên giây, đã vượt mức tiêu chuẩn cho phép.
Hai là xuất hiện động đất. Động đất này sau này được xác định là động đất kích thích do tác động của hồ chứa. Từ tháng 11-2011 đến nay có 66  đợt động đất kích thích, trong đó có 2 lần có động đất đạt 4,2 độ richter và một lần trong ngày 22-10 gần đây lên đến mức động đất cao nhất là 4,6 độ richter trên tiêu chuẩn thiết kế là 5,5 độ richter và tiêu chuẩn tính kiểm tra của đập là 6 độ richter.
Để khắc phục vấn đề này thì Thủ tướng Chính phủ có chỉ đạo rất kịp thời là yêu cầu Hội đồng Nghiệm thu Nhà nước, Bộ Khoa học công nghệ, Bộ Công thương và Viện Vật lý địa cầu cùng với chủ đầu tư và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam thực hiện việc kiểm tra trên công trường và đưa ra các giải pháp:
Thứ nhất, về chống thấm. Đến tháng 8-2012 việc chống thấm đã được nghiệm thu. Như vậy, kết quả chống thấm của 10 khe nhiệt chính đã giảm từ 26 lít/giây xuống 0,02 lít/giây, đã giảm được 99,9%, đạt vượt tiêu chuẩn cho phép. Các vị trí thấm khác của 20 khe nhiệt khác cộng với nền thì cũng đạt giảm 86%, như vậy đã đạt chuẩn cho phép về chống thấm.
Về động đất thì Hội đồng Nghiệm thu Nhà nước đã thuê một công ty tư vấn nước ngoài, công ty của Thụy Sĩ đánh giá về ổn định đập trên các tiêu chí: tiêu chí về thiết kế đập, tiêu chí về ổn định đập, tiêu chí về an toàn về quan trắc đập và khả năng gây động đất hồ chứa.
Qua báo cáo đánh giá của tư vấn nước ngoài thì đều cho rằng đập được thiết kế bảo đảm về tiêu chuẩn và có dự phòng về ổn định đập cũng như ổn định chống động đất. Theo thiết kế với động đất là 5,5 độ richter thì gia tốc nền của nó thiết kế là 150cm/s2 và động đất lớn nhất vừa qua là 4,6 độ richter thì gia tốc nền đạt 108cm/s2. Nếu theo số liệu tính kiểm tra ổn định đập thì gia tốc nền này tính kiểm tra lên đến 250cm/s2, như vậy về mặt ổn định đập đến hiện nay cho thấy không có dấu hiệu mất an toàn của đập cũng như về hồ chứa. Tuy vậy, trên cơ sở báo cáo của Hội đồng nghiệm thu nhà nước cũng như của các cơ quan có liên quan như Bộ Khoa học công nghệ, Viện Vật lý địa cầu Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo lấy mục tiêu là bảo đảm an toàn cho người dân vùng hạ du làm mục tiêu số 1 cho nên đã quyết định là không tích nước hồ chứa của mùa lũ năm nay và giao cho Hội đồng nghiệm thu nhà nước cùng với các Bộ Khoa học công nghệ, Viện Vật lý địa cầu, Bộ Công thương, Bộ Xây dựng tổ chức một đoàn công tác để vào kiểm tra cũng như theo dõi đánh giá đập trong suốt thời gian mùa lũ năm nay.
Việc chống thấm tuy đã đạt kết quả như vậy cũng cần phải được tiếp tục theo dõi đánh giá, về động đất kích thích Thủ tướng cũng đã giao cho Bộ Khoa học công nghệ, Viện Vật lý địa cầu thuê cả chuyên gia nước ngoài để đánh giá toàn bộ về ổn định của hồ chứa, đánh giá về tình trạng địa chất của hồ chứa cũng như ổn định an toàn đập. Trong thời gian vừa qua các bộ, ngành cũng đã triển khai nghiêm túc kết luận của Thủ tướng Chính phủ và cũng đã có những báo cáo đánh giá về tình trạng của đập và hồ chứa, cho đến nay chưa có những dấu hiệu gây mất an toàn của hồ chứa và đập. Chúng ta cũng tiếp tục sẽ theo dõi hồ chứa cũng như đập của Sông Tranh 2 trong mùa lũ năm nay. Thủ tướng cũng có chỉ đạo xây dựng phương án phòng, chống lụt bão cũng như đang triển khai xây dựng phương án phòng, chống vỡ đập. Việc này sẽ được khẩn trương thực hiện và khi chuẩn bị xong phương án này sẽ xây dựng các phương án để diễn tập sự cố khi mà vỡ đập để có bảo đảm an toàn trong trường hợp nếu có trường hợp xấu nhất mà xảy ra.
Đối với việc quan trắc đập, Thủ tướng đã giao cho các cơ quan bảo đảm lắp 5 trạm về đo địa chấn cũng như lắp đầy đủ các thiết bị quan trắc đập để có điều kiện theo dõi và đánh giá về ổn định và an toàn đập trong thời gian tới.
Còn về công tác thống kê, đền bù, Chính phủ đã giao cho chủ đầu tư cũng như các bộ cùng Ủy ban nhân dân địa phương thống kê hơn 1000 nhà của người dân bị ảnh hưởng, bị tác động bị nứt thì sẽ có các giải pháp chủ đầu tư để đền bù, hỗ trợ cho người dân trong thời gian tới.
Về những vướng mắc trong khâu đền bù tái định cư đối với 1000 hộ dân, 5000 khẩu bị tác động khi thực hiện dự án này, chủ đầu tư cũng như Ủy ban nhân dân địa phương cũng đang có các giải pháp để khắc phục về vấn đề thiếu đất sản xuất, về vấn đề bảo đảm xây dựng các đường nội bộ khu tái định cư, về vấn đề khắc phục các nhà tái định cư còn chưa bảo đảm chất lượng cũng như cung cấp nước cho các khu tái định cư.
Về vấn đề tuyên truyền, chúng tôi cho rằng thời gian vừa qua các bộ cũng như Ủy ban nhân dân Quảng Nam cũng đã phối hợp với người dân hỗ trợ hướng dẫn các phương án ứng phó khi có động đất kích thích xảy ra và bảo đảm để người dân có thể hết sức bình tĩnh, không chủ quan nhưng không hoang mang, để vừa có thể ứng phó được một cách an toàn khi có động đất xảy ra, nhưng vừa bảo đảm được cuộc sống sản xuất, sinh hoạt bình thường.
Chúng tôi xin báo cáo Quốc hội, Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành theo dõi để đánh giá cũng như có các giải pháp phù hợp để đảm bảo an toàn cho dự án này. Xin cảm ơn Quốc hội.

Nghỉ giải lao.

Phan Văn Quý - Nghệ An
Kính thưa Quốc hội,
Tôi nhất trí với Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 và nhiệm vụ năm 2013. Về thực hiện nhiệm vụ kinh tế năm 2013 tôi xin nhấn mạnh 3 vấn đề sau đây:
Một là cần xúc tiến đẩy mạnh tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế. Để thực hiện tổng thể thành công tái cơ cấu nền kinh tế sẽ không có một ban, ngành, địa phương nào có thể đảm đương được vì quá trình triển khai sẽ liên quan và tác động hầu hết đến các trực thể của nền kinh tế. Do vậy, để tái cơ cấu đảm bảo tính tổng thể đi đúng hướng, giải quyết nhanh, gọn, triệt để phải có một đơn vị chủ trì đủ tầm bao quát. Về vấn đề này tôi nhất trí với ý kiến của đại biểu Trần Du Lịch nên thành lập Ủy ban Quốc gia về tái cơ cấu nền kinh tế, cơ quan này có thể gồm đại diện của các bộ, ngành và các chuyên gia kinh tế hàng đầu do Thủ tướng Chính phủ chủ trì. Ngoài ra, để doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn thì dòng tiền trong ngân hàng phải được lưu thông. Hiện nay doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn bởi nợ xấu ngân hàng, do vậy cần sớm thành lập công ty mua bán nợ quốc gia và chúng ta phải chấp nhận sự hy sinh của nhiều phía nhà nước, doanh nghiệp và ngân hàng thương mại. Chúng ta phải có hành động quyết liệt để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại càng nhanh càng tốt. Khai thông được nguồn vốn để tiếp ứng nguồn lực cho doanh nghiệp. Trong vấn đề này chúng ta cần xem xét kinh nghiệm về việc xử lý nợ xấu của người Nhật trong những năm 90, của người Hàn, người Thái trong những năm 1997 hay là trong tái cơ cấu kinh tế chúng ta cần đặt kinh tế biển đúng với tiềm năng và thế mạnh của nó. Chiến lược kinh tế biển đã xác định phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển và ven biển đóng góp 53 - 55% tổng GDP của cả nước. Vậy, doanh nghiệp đóng tàu, đây là ngành mà chúng ta có thế mạnh, nhưng thời qua chưa phát huy đúng về tiềm năng của nó. Trong tái cơ cấu ngành Công nghiệp đóng tàu cần lựa chọn những doanh nghiệp mạnh, có quản trị tốt để đầu tư phát triển.
Theo tôi, hiện nay chúng ta có thể san sẻ một phần ngành Công nghiệp đóng tàu cho các doanh nghiệp đóng tàu trong quân đội. Các doanh nghiệp trong quân đội có hệ thống quản trị tốt, công tác quản lý, kiểm soát chặt chẽ, khắc phục những thiếu sót, bất cập nhanh về hậu quả. Chẳng hạn như công ty Ba Son, Sông Thu, Hồng Hà, các công ty này không chỉ đóng mới được những con tàu đảm bảo yêu cầu khắt khe về mặt công nghệ, kỹ thuật của quốc phòng mà còn đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu.
Kính thưa Quốc hội.
Chúng ta nghĩ rằng, phát triển kinh tế và phát triển đất nước cũng cần áp dụng cách đánh giặc của ông cha ta, đó là khi thê đội một bị yếu, không thể hoàn thành được nhiệm vụ thì phải điều động thê đội hai lên tiếp ứng, cứu trợ. Còn công nghiệp phát triển kinh tế biển và giữ gìn an ninh biển, đảo là một cộng việc trọng yếu phải được tiến hành quyết liệt và đồng bộ.
Về vấn đề này, tại Kỳ họp thứ ba, tôi đã chất vấn Bộ Kế hoạch và đầu tư và đã được Bộ trưởng Bùi Quang Vinh ghi nhận, nhưng trong báo cáo của Chính phủ về nhiệm vụ năm 2013 chúng tôi thấy chưa đề cập tới.
Ba là nên thành lập cơ quan giám sát quốc gia trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã trả giá đắt cho trào lưu đầu tư như xây dựng nhà máy đường, xi măng lò đứng, thành lập ngân hàng, công ty chứng khoán phát triển tràn lan, dự án bất động sản, đặc biệt là đầu tư dàn trải gây lãng phí, thất thoát của một số tập đoàn kinh tế nhà nước.
Đầu tư theo đám đông đã tạo cho nền kinh tế lúc nóng, lúc lạnh, doanh nghiệp có lúc mất phương hướng để lại hậu quả nặng nề cho nền kinh tế như hàng tồn kho nhiều, nợ xấu ngân hàng cao.
Chúng tôi thiết nghĩ, trong những thất thoát của nền kinh tế, thất thoát lớn nhất là đầu tư sai lệch. mất tiền của và mất cơ hội.
Kính thưa Quốc hội, trong hoạt động giao thông ở cả ngã ba, ngã tư đường mặc dù đã có hệ thống đèn tín hiệu nhưng chúng ta vẫn bố trí lực lượng công an đứng gác. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta cần có một cơ quan hướng dẫn, giám sát và khi cần thiết phải có chế tài cưỡng bức. Do vậy, việc thành lập cơ quan giám sát quốc gia trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế là cần thiết nhằm đảo bảo sự điều tiết của nhà nước trong quá trình phát triển. Đây cũng là yếu tố quan trọng giúp cho tái cơ cấu kinh tế đi đúng hướng để nền kinh tế phát triển ổn định, cân bằng và bền vững. Tôi xin hết ý kiến, xin cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Sỹ Cương - Ninh Thuận
Kính thưa Quốc hội.
Tôi đồng tình với báo cáo thẩm tra của Ủy ban kinh tế và ý kiến của nhiều đại biểu phát biểu trước. Về những ưu điểm và hạn chế cũng như những mặt làm được và chưa làm được so với kế hoạch đã đặt ra cho năm 2012 dưới sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ. Tôi xin phép tham gia ý kiến về một số vấn đề không được đề cập hoặc chưa được đề cập sâu trong báo cáo của Chính phủ. Những ý kiến này đã có ý kiến được nêu tại thảo luận tổ, nhưng không được thể hiện trong bản tổng hợp của Đoàn thư ký phát hành ngày 27 tháng 10, nên tôi phải nêu lại.
Trước hết, tôi cũng tỏ thái độ hết sức trân trọng về thái độ nghiêm túc nhận trách nhiệm và nhận lỗi trước Quốc hội về những thiếu sót, khuyết điểm của Chính phủ tại diễn đàn Quốc hội lần này. Tôi cho rằng sự nhận lỗi của Thủ tướng về tất cả những yếu kém, khuyết điểm trong kiểm tra, giám sát, hoạt động, nhất là yếu kém, khuyết điểm trong kiểm tra, giám sát hoạt động của các tập đoàn kinh tế Tổng công ty nhà nước đã nói lên sự yếu kém của quản lý nhà nước. Theo tôi sự yếu kém đó là nguyên nhân cốt lõi của nhiều tổn thất kinh tế và xã hội trong thời gian qua.
Tuy nhiên trong báo cáo của Chính phủ không có phần nào phân tích sâu về sự yếu kém trong quản lý nhà nước, không chỉ ra được yếu ở đâu? kém ở chỗ nào? lĩnh vực nào? và trong phần mục tiêu giải pháp cũng chỉ nêu là tăng cường quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu. Như trong báo cáo của Chính phủ có thể khẳng định tổn thất to lớn ở hai tập đoàn Vinashin và Vinaline là do buông lỏng quản lý của các bộ vì thực tế để có được sự cho phép hay phê duyệt sử dụng khoản tiền lên đến mấy chục triệu đô la là không phải dễ dàng nhưng trong thực tế nó lại trở lên quá dễ.
Tôi cho rằng quản lý nhà nước của chúng ta còn yếu và bộ máy nhà nước có vấn đề. Cơ quan nào cũng có chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định rất đầy đủ, nhưng sai phạm, tổn thất thì cứ xảy ra và hậu quả ngày càng nghiêm trọng hơn mà không có một bộ nào chịu trách nhiệm. Liệu có nên gọi đó mà một khía cạnh khác là sự thiếu trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước. Một ví dụ rất đơn giản nữa là sự buông lỏng quản lý trong lĩnh vực quản lý thị trường. Tình trạng buôn lậu hàng giả đang hủy hoại nền kinh tế. Hệ thống thanh tra chuyên ngành, hệ thống quản lý thị trường rất đầy đủ, rất hùng hậu nhưng hàng giả, hàng kém chất lượng vẫn tràn lan. Mũ bảo hiểm dởm không đảm bảo chất lượng là một mặt hàng điển hình mà ai cũng thấy trên khắp cả nước nhưng nó vẫn được bán đầy đường. Đừng nói là không có quy định hay không có cơ chế xử phạt mà hãy nói là có làm hay không làm mà thôi.
Như vậy, một chủ trương rất đúng của Chính phủ là để bảo vệ sức khỏe và tính mạng của người dân bị giảm hiệu lực vì có đến 40% người sử dụng mũ bảo hiểm dởm. Trong những ngày Quốc hội đang họp, trên đầy các mặt báo nạn "gà đầu trọc" nhập lậu từ Trung Quốc đang tràn lan trên thị trường. Bộ Nông Nghiệp Phát triển và Nông thôn đang chỉ đạo và chỉ trích một số cán bộ thú y tiếp tay cho buôn hàng lậu nhưng lực lượng thanh tra chuyên ngành, lực lượng quản lý thị trường và chính quyền các cấp ở đâu, trách nhiệm như thế nào. Mới sáng ngày hôm qua, bản tin tài chính đưa tin về hai doanh nghiệp Thanh Lễ và PV OIL lợi dụng tạm nhập, tái xuất xăng, dầu để đưa hàng nghìn tấn xăng bẩn không đủ tiêu chuẩn ra bán cho người dân. Vấn đề này cũng vừa được Bộ trưởng Vương Đình Huệ đề cập.
Bộ Công thương khẳng định trách nhiệm của việc đưa xăng bẩn vào lưu thông là trách nhiệm của Bộ Công thương nhưng không chịu trách nhiệm về khâu nhập khẩu vậy mà xăng bẩn vẫn được lưu thông, hậu quả chỉ có người tiêu dùng gánh chịu. Tôi đề nghị Bộ trưởng Bộ Công thương cho ý kiến về vấn đề này. Tôi rất lấy làm tiếc vì sự yếu kém trong quản lý nhà nước, chỉ đạo điều hành đã không được nhìn nhận và đánh giá đúng mức trong báo cáo của Chính phủ. Nếu tình trạng yếu kém trong quản lý nhà nước vẫn như hiện nay, bộ máy nhà nước không có gì thay đổi, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ công chức nhà nước không được tăng cường thì tổn thất vẫn xảy ra và có thể nghiêm trọng hơn và tình hình kinh tế - xã hội khó có thể được cải thiện và tốt lên. Tôi đề nghị vấn đề này cần được bổ sung và đánh giá một cách nghiêm túc trong báo cáo của Chính phủ để từ đó đặt ra những giải pháp cụ thể và phù hợp.
Ý kiến thứ hai, trong Báo cáo của Chính phủ cũng không nêu ra được tình hình và các giải pháp để chống lãng phí. Tôi đồng tình với ý kiến của đại biểu Lê Như Tiến đã phát biểu hôm qua khi gọi lãng phí là quốc nạn. Tôi đề nghị Chính phủ xem xét 3 việc sau:
Một, làm thế nào để giảm bớt các cuộc hội họp, tôi thấy có rất nhiều cuộc họp lãng phí mà không mang lại hiệu quả, năm nào cũng vậy cứ đến dịp cuối năm các cơ quan ồ ạt tổ chức các hội nghị tổng kết ngành, hội nghị triển khai công tác gây tốn kém rất nhiều và hiệu quả thì rất thấp. Hội nghị ngành với hàng trăm người dự chi phí cho mỗi người lên đến cả chục triệu, chủ yếu là đến nghe báo cáo, nghe vài tham luận, vài ý kiến là xong mà hiệu quả không đáng kể, hàng trăm triệu, đến cả tỷ đã ra đi.
Tôi nhớ có thời gian trước đây Chính phủ đã có lệnh cấm là bộ nào tổ chức hội nghị ngành phải xin phép Thủ tướng Chính phủ nhưng giờ đâu lại vào đấy.
Hai, sự lãng phí trong nghiên cứu khoa học, thành tựu trong nghiên cứu khoa học đã được khẳng định nhưng lãng phí cũng rất lớn. Có quá nhiều đề tài nghiên cứu khoa học kể cả đề tài cấp nhà nước và đề tài cấp bộ được tổ chức nghiên cứu để giải ngân, thực tế nghiên cứu xong để lưu trữ mà không được áp dụng vào trong thực tiễn.
Ba, những năm gần đây nhà nước chúng ta quan tâm rất nhiều cho công tác đào tạo bồi dưỡng ở nước ngoài nhưng có nhiều vấn đề cho thấy rằng nó không mang lại hiệu quả. Có chương trình dự án đào tạo sử dụng cả vốn vay của nước ngoài nhưng chỉ tổ chức đi thăm quan vì thực chất chương trình học tập không có gì là học cả.
Có một số đối tượng được cử đi học tại nước ngoài nhưng học xong thì về đến tuổi nghỉ hưu, thực chất là việc đi học ở nước ngoài đang bị lợi dụng và đã được đưa ra để làm chính sách thật vô cùng lãng phí. Tôi cho rằng nếu chống được lãng phí thì có lẽ Chính phủ không đến nỗi phải lao tâm khổ tứ để tìm thêm nguồn tăng lương và cuộc sống của người hưởng lương cũng đỡ khổ.
Ý kiến cuối cùng của tôi là tình trạng chậm trễ trong việc ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, đây là vấn đề cử tri có rất nhiều ý kiến. Thật là khiếm khuyết khi trong Báo cáo của Chính phủ trình ra Quốc hội mà lại không có nội dung này, việc ban hành các văn bản này là do Quốc hội giao cho Chính phủ, nói là giao nhưng thực chất là Chính phủ tự xác định nhiệm vụ cho mình khi soạn thảo các dự án luật và trình ra Quốc hội. Thậm chí có nhiều lúc Quốc hội yêu cầu giảm bớt việc giao cho Chính phủ quy định chi tiết mà nên quy định ngay trong luật, nhưng lâu nay luật chờ nghị định, nghị định chờ thông tư là căn bệnh trầm kha không sao ngăn chặn được. Có luật có hiệu lực gần 3 năm mà vẫn chưa có đầy đủ văn bản hướng dẫn, vậy mà khi xem xét thông qua luật, Quốc hội cân nhắc rất kỹ về thời điểm có hiệu lực, nhưng điều đó trở nên vô nghĩa khi các văn bản của Chính phủ không ban hành kịp thời. Đây cũng là nguyên nhân làm giảm hiệu lực của pháp luật, làm chính sách quản lý pháp luật không đi vào thực tiễn. Lãnh đạo Bộ Tư pháp khi trả lời báo chí có nói cần tăng cường kỷ luật ban hành Nghị định của Chính phủ, còn ý kiến của Chính phủ thì sao?. Tôi xin hết ý kiến.


Lò Văn Muôn - Điện Biên
Kính thưa Quốc hội,
Vấn đề đầu tiên tôi quan tâm tới là kết quả thực hiện và kế hoạch, giải pháp thực hiện công tác giảm nghèo. Theo Báo cáo của Chính phủ, chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo năm 2012 dự kiến không đạt kế hoạch đề ra, riêng 62 huyện nghèo đạt được theo như dự kiến. Đây thể hiện tính logic do khó khăn trong nền kinh tế, chúng ta không vui vì không đạt được kế hoạch, nhưng cũng không đến nỗi buồn vì đây phản ánh tính khách quan và tính thực tiễn. Chúng ta đã cố gắng tập trung nguồn lực cho xóa đói, cho giảm nghèo, đặc biệt là đối với các vùng đặc biệt khó khăn 62 huyện nghèo, chứng tỏ nguồn lực chúng ta tập trung chưa thỏa lấp được những khó khăn, thách thức xảy ra trong năm 2012, chúng ta đã bố trí nguồn lực cho các chương trình mục tiêu quốc gia nói chung, chương trình xóa đói giảm nghèo nói riêng rất chậm.
Không thể không nhắc tới những khiếm khuyết, những yếu kém trong công tác thực hiện triển khai chính sách, trong đó có khâu từ việc xác định các đối tượng hộ nghèo. Tôi rất đồng tình với kiến nghị của đại biểu Triệu thị Nái (Hà Giang) hôm qua đã phát biểu, đề nghị phải tăng cường công tác rà soát hộ nghèo hàng năm. Theo tôi việc rà soát hộ nghèo hàng năm hiện nay đang có những sai sót dẫn đến xác định tỷ lệ hộ nghèo hàng năm có sai sót. Những sai sót này đang gây nên nhiều hệ lụy mà chúng ta không thể lường hết được, trước hết khi xác định tỷ lệ hộ nghèo sai thì việc ngân sách, tiền của của chúng ta bỏ ra để thực hiện chính sách đối với hộ xác định sai không phải là lớn, không đáng lo, điều đáng lo là việc thực hiện chính sách sẽ không công bằng, sinh ra dị nghị trong nhân dân, trong cộng đồng, sinh ra mất đoàn kết, làm xói mòn lòng tin trong nhân dân. Đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc các đại biểu cũng biết rõ việc gây dựng lòng tin đối với một chủ trương, chính sách mới trong đồng bào đã rất khó khăn, để lấy lại lòng tin khi đã bị mất còn khó khăn hơn gấp vạn lần.
Để góp phần tham gia vào giải pháp thực hiện trong những năm tới, giảm bớt sai sót trong việc rà soát hộ nghèo, tôi xin đề xuất một số giải pháp như sau.
Trước hết, đối với việc rà soát hộ nghèo hiện nay chúng ta vẫn thực hiện theo bộ công cụ là Thông tư số 04/2008 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, được bổ sung trong tổng điều tra hộ nghèo năm 2010. Bộ công cụ này rất khoa học, rất hợp lý nhưng cũng rất rắc rối, đa số vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thì bộ công cụ này rất khó sử dụng và dễ dẫn đến sai sót, dẫn đến chỉ trông chờ chủ yếu vào quyết định của cộng đồng thôn bản là chính bằng cảm tính, bằng bình xét là chính. Khi xét ở bộ công cụ này tôi xin đi vào cụ thể vì các giải pháp tổng thể mà Chính phủ đưa ra tôi hoàn toàn đồng tình nhưng tôi muốn đi vào cụ thể hơn.
Đối với Bộ Lao động, thương binh và xã hội tôi đề nghị cần phải rà soát và có những sự chỉnh sửa, hướng dẫn tỉ mỉ cho các địa phương về các bộ công cụ này. Phiếu N1, phiếu N2, biểu a, biểu b, biểu c đều có vấn đề không cho phép hoặc bản thân đối tượng được rà soát và người điều  tra viên hoặc giám sát viên thì muốn làm đúng thực chất cũng không thể làm được, bởi vì khi đã chuyển sang phiếu điều tra thu nhập thì không có người dân nào không có sự ghi chép, chỉ không tự khai báo được tất cả thu nhập do mình sản xuất ra hoặc do mình được tăng cho hoặc chúng ta tự sản, tự tiêu hoặc chúng ta bán ra thị trường sau 12 tháng thì không ai có thể nhớ được. Họ muốn khai đúng cũng không thể đúng được và người đi điều tra thì cũng không thể điều tra hơn được. Đấy là đề nghị thứ nhất của tôi về các bộ công cụ để rà soát hộ nghèo hàng năm.
Thứ hai, về quy trình tổ chức rà soát, chúng tôi đề nghị giảm bớt hay ở liều lượng thích hợp đối với việc triển khai, chỉ đạo của các cấp từ tỉnh xuống huyện mà phải tăng cường ở các hoạt động điều tra thực tế. Tôi xin nói đến điều tra hiện nay của chúng ta không tuân thủ đầy đủ quy định bộ quy trình. Điều tra viên cũng không được rõ ràng, giám sát viên cũng không rõ ràng. Thường thường tổ chức các tổ đi một lượt để mà xem xét. Chuyện đó không đảm bảo tính chính xác.
Thứ ba, tôi đề nghị Bộ Nội vụ cũng phải xem xét, kiểm tra các địa phương trong biên chế của cấp xã 2 biên chế cho cán bộ văn hóa xã, trong đó có một biên chế không chuyên trách để phụ trách các vấn đề về lao động, thương binh, xã hội. Tôi đề nghị kiểm tra và yêu cầu các địa phương chấp hành đúng quy định này. Làm sao cho lực lượng cán bộ trực tiếp theo dõi thường xuyên vấn đề xóa đói giảm nghèo phải nắm chắc được tình hình của địa phương. Về xóa đói giảm nghèo, tôi xin có ý kiến như vậy.
Xin hết

Trịnh Đình Dũng - Bộ trưởng Bộ xây dựng
Kính thưa Quốc hội.
Được phép của Chủ tọa kỳ họp, tôi xin báo cáo với Quốc hội về việc tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản và xử lý tồn kho vật liệu xây dựng.
Thứ nhất, về thị trường bất động sản hiện nay được đánh giá rất khó khăn, thị trường đang bị đóng băng rất ít giao dịch. Các doanh nghiệp bất động sản khó khăn nhưng người dân nghèo một bộ phận lớn vẫn thiếu nhà ở đủ điều kiện. Tính đến ngày 31/8/2012 thì dư nợ tín dụng của bất động sản khoảng 203.000 tỷ, trong đó tỷ lệ nợ xấu 6,6% theo báo cáo của Ngân hàng nhà nước. Nếu tính dư nợ tín dụng liên quan đến bất động sản, trong đó liên quan gồm cho vay để kinh doanh bất động sản, vay để đầu tư sản xuất và kinh doanh, thế chấp bằng bất động sản thì dư nợ tín dụng này khoảng 57% tổng dư nợ, tức là khoảng hơn 1.000.000 tỷ.
Vì vậy nếu sản xuất, kinh doanh khó khăn, nợ xấu của các doanh nghiệp tăng cao cùng với khó khăn của thị trường bất động sản thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nhiều ngành sản xuất như xây dựng, vật liệu xây dựng, thiết bị điện, ngành thép, ảnh hưởng đến an toàn của hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô. Do đó cũng ảnh hưởng đến đời sống việc làm không chỉ của các doanh nghiệp liên quan đến bất động sản mà ảnh hưởng đến đời sống chung của người dân. Vì vậy, cần phải quyết liệt để tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản. Để tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản thì phải khắc phục các nguyên nhân gây ra khó khăn bất động sản.
Thứ nhất, trong thời gian vừa qua, thị trường bất động sản phát triển tự phát phong trào và thiếu quy hoạch, kế hoạch, do đó dẫn đến cung rất lớn so với cầu. Hiện nay cả nước có 2399 dự án theo thống kê của 44 tỉnh thành và có xấp xỉ khoảng 71.000 ha đất cho bất động sản, riêng Hà Nội hiện nay có 368 dự án với khoảng 20.000 ha cho bất động sản, những dự án đang triển khai chiếm khoảng 40% tức là 8.000 ha với 233 dự án. Hàng tồn kho cả nước hiện nay có 16.469 căn hộ chung cư, 4116 nhà thấp tầng, và 25.870 m2 nhà văn phòng cho thuê. Như vậy, sản phẩm bất động sản chủ yếu là hàng cao cấp và hàng trung bình ở mức độ cao còn sản phẩm bất động sản cho người thu nhập thấp, những đối tượng xã hội thì rất ít. Về cơ cấu sản phẩm bất động sản rất bất hợp lý như tôi vừa nói nhà diện tích vừa, nhỏ, giá rẻ phù hợp với đại đa số người dân còn khó khăn và khả năng thanh toán của một nền kinh tế với một mức thu nhập bình quân hơn 1.300USD/đầu người thì hiện nay rất thiếu.
Thứ ba là vốn cho các dự án bất động sản chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng là chính và vốn đóng góp của người dân mua nhà. Nên khi hàng không bán được, thị trường đóng băng, nợ xấu bất động sản tăng cao và gây khó khăn. Các giải pháp hiện nay Chính phủ đang tập trung để xử lý các giải pháp, Chính phủ đang tập trung hoàn thiện những văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý đầu tư xây dựng nói chung và đặc biệt là liên quan đến phát triển đô thị và kinh doanh bất động sản để tăng cường sự kiểm soát thống nhất trong phát triển đô thị và kinh doanh bất động sản cả về quy hoạch và theo kế hoạch.
Tập trung rà soát các dự án bất động sản theo Chỉ thị 2196 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó yêu cầu những dự án cần phải dừng lại thì hiện nay Hà Nội cũng dừng rất nhiều dự án, cũng rất may hiện nay các đồng chí chủ động dừng nhiều dự án, khoảng 60% các dự án hiện nay chưa giải phóng mặt bằng và yêu cầu chủ đầu tư phải cơ cấu lại các dự án, cơ cấu lại các sản phẩm để tăng các loại nhà ở xã hội phục vụ cho người thu nhập thấp thuộc các đối tượng được hưởng chính sách nhà ở xã hội như trong chiến lược nhà ở giai đoạn 2011 - 2020 tầm nhìn 2030 mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt gồm người nghèo ở nông thôn, người nghèo đô thị, người có công với nước, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị, quân nhân chuyên nghiệp lực lượng vũ trang, nhà ở công nhân, nhà ở sinh viên v.v...
Thứ ba, cùng với ngân hàng nhà nước mở rộng tín dụng cho vay cho nhà đầu tư, nhà ở và người mua nhà để ở, đặc biệt người mua nhà ở xã hội.
Thứ tư, đề nghị Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép miễn, giảm thuế VAT cho các hộ gia đình cá nhân mua nhà xã hội và mua nhà thương mại để ở lần đầu, cho phép doanh nghiệp đầu tư nhà xã hội được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức cao nhất. Đây là ý kiến đề nghị của đại đa số các doanh nghiệp hiện nay.
Thứ năm, cho phép các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản được quyền nộp tiền sử dụng đất theo tiến độ bán, cho thuê nhà ở.
Thứ sáu, đề nghị các địa phương, đặc biệt là hai trung tâm lớn về kinh tế là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh tập trung giải quyết nhanh các thủ tục tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, làm thế nào để các thủ tục chuyển đổi cơ cấu, các dự án phải được nhanh nhất, sớm nhất.
Vấn đề thứ hai là tồn kho vật liệu xây dựng. Hiện nay tồn kho vật liệu xây dựng đang tăng do tổng đầu tư xã hội giảm. Đối với gạch ốp lát vật liệu xây dựng nung và không nung, đặc biệt là kính xây dựng tồn kho khá nhiều, tương đương với hai tháng sản xuất. Riêng xi măng ước sản xuất 10 tháng đạt 44,1 triệu tấn tiêu thụ, như vậy tồn kho đã giảm. Tồn kho của xi măng chỉ bằng 17 ngày sản xuất, tức là 2,57 triệu tấn. Như vậy, sản xuất xi măng nói tổng thể là tương đối an toàn và sản xuất được 85% công suất khai thác. Riêng Tổng công ty xi măng Việt Nam ViCem 10 tháng sản xuất được 15,8 triệu xi măng clinker và đạt được 81% kế hoạch năm và tính đến 25/10 tồn kho 1,55 triệu tấn, tương đương với 20 ngày sản xuất, như vậy trong lĩnh vực xi măng chúng ta rất yên tâm đến thời điểm hiện nay.
Giải pháp để khắc phục tồn kho:
Thứ nhất, tập trung để kiểm soát các dự án mới đầu tư trong lĩnh vực vật liệu xây dựng.
Thứ hai, tháo gỡ khó khăn chung cho sản xuất kinh doanh và nhằm tăng tổng đầu tư xã hội, tăng tiêu thụ vật liệu xây dựng.
Thứ ba, tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, trong đó phát triển nhà ở xã hội chủ yếu dùng những vật liệu trong nước, không phải vật liệu cao cấp của nước ngoài nên sẽ sử dụng vật liệu trong nước và như vậy sẽ giảm tồn kho.
Nếu chúng ta tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản bằng cách hướng doanh nghiệp bất động sản vào nhà ở cho người nghèo, người thu nhập thấp sẽ đạt được nhiều mục đích:
Thứ nhất, tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế.
Thứ hai, tháo gỡ khó khăn cho người hiện nay đang khó khăn về nhà ở, dẫn dến giải quyết được vấn đề an sinh xã hội.
Vấn đề nữa là phải dùng hàng Việt Nam, đặc biệt là dùng xi măng trong các công trình giao thông, hiện nay Bộ Giao thông và vận tải, Bộ Xây dựng đang quyết liệt để điều chỉnh các dự án, đưa xi măng vào, như vậy sẽ giảm được nhập siêu, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Tôi xin hết.

Huỳnh Thành - Gia Lai
Kính thưa Quốc hội,
Về đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ của năm 2012, qua thảo luận ở các tổ và thảo luận ở hội trường, tôi thấy bên cạnh những kết quả đạt được của việc thực hiện đạt được mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, những hạn chế, yếu kém của kinh tế năm 2012 đã rõ. Vấn đề cần phải xác định đúng nguyên nhân để có giải pháp hữu hiệu nhiều hơn trong năm 2013, tôi quan tâm một số vấn đề như sau:
Một, năng lực quản lý điều hành, nhất là việc xây dựng triển khai thể chế chính sách còn chậm trễ như ý kiến của đại biểu đã phát biểu. Đành rằng, từ khâu nhận thức để hình thành chính sách có độ trễ nhưng không vì thế mà kéo dài để lãng phí thời gian và lãng phí thời cơ.
Hai, trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế nhưng Chính phủ điều hành còn thiếu tập trung, ban hành chính sách thiếu điều kiện để thực hiện. Đơn cử như chương trình xây dựng nông thôn mới thiếu nguồn lực và kinh phí triển khai hay như chính sách miễn giảm học phí trong Nghị định số 49 ngày 14/5/2010 quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2010, 2011 đến năm 2014, 2015 đã được các đại biểu Quốc hội đề cập ở nhiều kỳ họp, đã chất vấn các thành viên Chính phủ. Quốc hội đã đề ra nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn nhưng cho đến nay vẫn chưa được Chính phủ sửa đổi để khắc phục những quy định bất cập không phù hợp. Ví dụ như việc quy định hỗ trợ học phí tràn lan cho tất cả các đối tượng, kể cả nhiều hộ giàu ở vùng cao. Còn phân biệt đối xử với các loại hình trường học công lập, dân lập, tư thục chưa đúng với Luật giáo dục và nghị quyết của Quốc hội.
Ba, việc triển khai thực hiện như thế nào, kết quả đến đâu 3 đột phá chiến lược mà nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã xác định để giải quyết các điểm nghẽn, đó là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, phát triển nhanh nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ. Đồng thời yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt khoảng bao nhiêu % so với Nghị quyết Đại hội lần thứ XI xác định là 35% để có giải pháp thực hiện hiệu quả trong thời gian tới cũng chưa được đánh giá cụ thể.
Về nhiệm vụ, kế hoạch năm 2013, đây là năm bản lề thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội theo nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, là năm đặc biệt có ý nghĩa để xoay chuyển căn bản tình hình trên cơ sở thực hiện hiệu quả đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
Một, tôi đề nghị với Chính phủ tăng cường khâu hoàn thiện thể chế, điều hành phát triển kinh tế thị trường đi đôi với nâng cao năng lực quản trị quốc gia. Có loại hình phù hợp giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội đặt ra trước mắt và lâu dài trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế. Cần xác định đúng trọng tâm, trọng điểm, thể chế, chính sách vĩ mô, khắc phục tình trạng cái gì cũng làm nhưng lại dàn trải, kém hiệu quả. Đồng thời tăng cường công tác hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, giải quyết công ăn việc làm và tăng trưởng kinh tế trong năm 2013.
Hai, doanh nghiệp là tài sản và là nguồn lực quan trọng của đất nước, do vậy Chính phủ cần sớm nghiên cứu hoàn chỉnh các chính sách nhằm hỗ trợ tạo điều kiện để các doanh nghiệp tăng năng lực hấp thụ vốn, xử lý hàng tồn kho, giải tỏa nợ xấu, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, làm chủ được thị trường trong nước và mở rộng thị trường ra nước ngoài.
Ba, đề nghị Chính phủ kiểm tra, xem xét thấu đáo việc đình, hoãn, giãn tiến độ thi công các công trình giao thông, thủy lợi vì hiện nay có những công trình hư hỏng nghiêm trọng nhưng không được sửa chữa, khắc phục kịp thời và nhiều đoạn đường sửa chữa dở dang nhưng ngừng thi công gây lãng phí và ảnh hưởng đến việc sản xuất, vận chuyển hàng hóa và đi lại an toàn của nhân dân.
Bốn, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI xác định mục tiêu giai đoạn 2011 - 2020 là số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 5%. Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng nhưng với tình hình nguồn lực về chính sách như hiện nay thì rất khó thực hiện. Đề nghị Chính phủ xem xét, sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh cơ cấu đầu tư và các tiêu chí phù hợp với từng vùng miền và đảm bảo thực hiện đầy đủ kịp thời kinh phí để triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới đồng bộ hiệu quả.
Năm, hiện nay ranh giới giữa hộ nghèo và hộ cận nghèo rất mong manh, xác định đơn thuần về thu nhập khoảng cách chỉ khoảng 1000 đồng mà không có các chỉ tiêu tổng hợp khác. Hộ cận nghèo chưa được vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản xuất, nên hầu hết đời sống và sản xuất của hộ cận nghèo, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn còn bất cập. Đề nghị Chính phủ ban hành chính sách cho hộ cận nghèo được vay vốn sản xuất tại Ngân hàng chính sách xã hội như hộ nghèo hiện nay, nhằm tạo điều kiện cho hộ cận nghèo có đủ điều kiện đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, góp phần giảm nghèo bền vững. Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Văn Hiến - Bà Rịa - Vũng Tàu
Kính thưa Quốc hội.
Báo cáo tình hình kinh tế, xã hội của Chính phủ đã nêu lên những kết quả đạt được, đã thẳng thắn chỉ rõ những hạn chế yếu kém và đã nhận trách nhiệm xin lỗi nhân dân về những yếu kém đó. Mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho năm 2013 tôi cho là rất tốt nhưng vẫn còn rất chung chung. Nhiều vấn đề đã đặt ra từ lâu nghe đã quen nhưng không được triển khai hoặc triển khai nửa vời không kiên quyết, chưa mang lại hiệu quả. Hậu quả đã có, nguyên nhân đã rõ, bài học đã được rút ra, chủ trương đã được thống nhất. Vấn đề bây giờ là quyết tâm, là phương pháp, là cách làm, là chống tham nhũng, là chống lợi ích nhóm trong quá trình ra quyết định, điều hành.
Thừa nhận những kết quả đạt được của năm 2012, nhưng tôi vẫn còn rất băn khoăn. Chúng ta kiềm chế được lạm phát, nhưng lạm phát vẫn rất cao. Chúng ta phấn khởi vì đã kéo được lạm phát có lúc từ hơn 23% xuống hơn 18% và bây giờ xuống 8%. Nhưng không có nước nào trong khu vực, thậm chí có điều kiện tương tự mà lạm phát liên tục cao hơn tăng trưởng, chúng ta giảm được nhập siêu vì sản xuất đình trệ, sự trì trệ của nền kinh tế đang hiển hiện. - lời của Chủ tịch Quốc hội trong phiên khai mạc- Tăng trưởng tín dụng thấp. Chúng ta không có nhu cầu vay tiền để sản xuất và không có nhu cầu nhập khẩu để sản xuất. Chúng ta đang chìm trong khối nợ xấu khổng lồ và có xu hướng tăng. Thị trường bất động sản tiềm ẩn nhiều rủi ro - Thông báo của Hội nghị Trung ương lần thứ 6. Hôm qua Thống đốc Ngân hàng không hứa hẹn được lúc nào giải quyết nợ xấu đã chuyển đến chúng ta một thông điệp không lấy gì làm khả quan về vấn đề này.
Các giải pháp nhiều đại biểu đã góp ý, tôi xin đề nghị năm 2013 cố gắng tăng lương theo lộ trình, giảm thuế VAT, như Bộ trưởng Bộ xây dựng có ý kiến, số hàng tạm trữ giảm lãi suất cho vay. Những yếu tố này để kích cầu nội địa. Cố gắng giảm thuế thu nhập doanh nghiệp như trong phương hướng của Chính phủ, nhưng Chính phủ nói là nghiên cứu, chúng tôi biết rằng vấn đề này đã được nhiều đại biểu Quốc hội đề nghị từ lâu và việc này nghiên cứu không có lâu.
Vấn đề thứ hai là vấn đề vàng. Trong Báo cáo Thẩm tra của Ủy ban Kinh tế, cơ chế quản lý thị trường vàng, kinh doanh vàng chưa mang lại hiệu quả và chưa đạt được mục tiêu đưa giá vàng trong nước sát với giá vàng thế giới. Nhận định này khác với trình bày của Thống đốc vừa rồi là cơ chế quản lý vàng bước đầu đã mang lại kết quả cực kỳ quan trọng. Tôi cho rằng nhận định này còn có vẻ nhẹ nhàng, còn né tránh trước vấn đề rất nóng trong thời gian qua. Chúng ta đang ngồi đây và ngoài kia hàng đoàn người đang xếp hàng để chuyển đổi, để kiểm định, để có bao bì mới của SJC và chúng ta cứ thản nhiên là người dân phải tự bảo vệ mình. Từ khi ngân hàng nhà nước tăng cường quản lý và siết chặt kinh doanh vàng thì thị trường vàng chia làm hai SJC và phần còn lại bán sát giá vàng thế giới, còn SJC luôn cao hơn 2 - 3 triệu đồng. Thống đốc nói vừa rồi mua vào 60 tấn vàng, tại sao nhà nước phải mua 60 tấn vàng trong khi giá cao, tại sao không nhập khẩu vàng từ nước ngoài nếu tỷ giá ổn định.
Ngày 28/10 họp báo Chính phủ ngân hàng nhà nước cho biết SJC chỉ nhận gia công và nhận 5000 đồng phí. Câu hỏi đặt ra là vậy SJC gia công cho ai, tại sao giá chênh lệch như vậy và chênh lệch vào túi ai, ngân sách nhà nước có được hưởng không. Từ khi thực hiện chính sách đã gây tổn thất không nhỏ cho doanh nghiệp kinh doanh vàng, cho người dân phải bù tiền để chuyển đổi nhưng nếu doanh nghiệp nào được chuyển đổi thì được phép đội mũ SJC thì thu lợi rất lớn. Đây là những thông tin trên báo ngày 19/9 ngân hàng nhà nước cho biết đã cho phép SJC chuyển đổi 13 tấn vàng, tức là 350.000 lượng từ vàng miếng các thương hiệu khác sang thương hiệu SJC,  ngày 24/08 16 tấn là 418.000 lượng. Quy trình chuyển đổi từ vàng phi SJC sang SJC bị buông thả để mặc thị trường xoay xở phần thiệt thuộc về người dân và doanh nghiệp giữ vàng phi SJC. Tâm lý nóng vội, hoang mang, lo sợ, lôi kéo hành vi của số đông. Ngày 28/10 mới được an ủi và trấn an là dân đừng có vội vàng chuyển đổi. Nghị định không có hướng dẫn về chuyển đổi của ngân hàng nhà nước, vấn đề này càng không công khai, càng trì hoãn thì càng gây thiệt hại và làm mất lòng tin của nhân dân.
Xuất hiện vàng nhái SJC không nhiều nhưng gây hoang mang lớn và chỉ SJC mới có quyền phán là nhái hay không, trong khi đó vàng vẫn là 4 số 9. Khi khẳng định vàng nhái thì thu vào trừ 3 triệu đồng/lượng, chúng ta tính được một phép tính dân chuyển đổi mất 3 triệu nếu phải vàng nhái bán lại cho SJC mất 3 triệu nữa là 1 lượng vàng dân mất 6 triệu đồng. Nếu là vàng nhái thật thì tôi nghĩ đó cũng là tất yếu theo quy luật thị trường, tôi xin mượn lời Báo Lao động xã hội ngày 29/10 "khó chống vàng nhái vì chênh giá cổng độc quyền". Chỉ có ở nước ta giá vàng mới phụ thuộc vào thương hiệu mà không phụ thuộc vào tuổi vàng. Vì thế những mục đích huy động vàng trong dân không đạt được, các ngân hàng thương mại không được huy động vàng thì phải mua, mua thì nhu cầu tăng, giá tăng thì tác động xấu lên thị trường. Như thế mục đích kéo sát giá thế giới không đạt được, khi ngân hàng thương mại không được kinh doanh vàng thì huy động vàng trong dân cũng sẽ khó khăn.
Tôi nghĩ lưu trữ vàng là truyền thống, là tập quán, là mục đích để đề phòng rủi ro cho nên thị trường vàng vẫn tồn tại một cách khách quan, tôi xin mượn lời đại biểu Quốc hội thành phố Hồ Chí Minh Trần Du Lịch là "không thể coi thường thị trường vàng". Chúng tôi đề nghị công khai minh bạch trong chính sách vàng và các chính sách khác nếu không càng làm suy giảm lòng tin đã xuống rất thấp và tạo nghi ngờ đề động cơ, mục đích. Xin cám ơn Quốc hội.

Nguyễn Bá Thanh - TP Đà Nẵng
Kính thưa Quốc hội,
Về cơ bản tôi tán thành với Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế xã hội của năm 2012 và phương hướng nhiệm vụ năm 2013. Nói rằng trong hoàn cảnh hết sức khó khăn mà chúng ta đạt được kết quả như vậy, chúng ta thể hiện sự nỗ lực của tất cả chúng ta, thể hiện sự cố gắng quyết liệt trong điều hành của Chính phủ trong năm 2012 rất đáng được ghi nhận. Nhân đây tôi xin phát biểu thêm một số vấn đề:
Về vấn đề nợ xấu, trong năm 2011 khi thảo luận về tình hình kinh tế xã hội tôi cũng đã phát biểu về tái cơ cấu ngân hàng cần chú ý hai vấn đề rất lớn, một là lợi ích nhóm và hai là vấn đề nợ xấu. Đất nước đang đổi mới, phát triển, có nhiều thành tựu trong đó cũng có công rất lớn của ngành ngân hàng nhưng nếu mai này có sự đổ vỡ nền kinh tế gây nên cảnh hỗn loạn cũng bắt đầu chính từ hệ thống ngân hàng. Tôi đề nghị ngân hàng Nhà nước cần tập trung phân tích, bóc tách cho được nợ xấu, muốn xử lý đúng thì phải phân loại cho đúng, làm rõ các doanh nghiệp nợ xấu bao nhiêu, riêng các tập đoàn, tổng công ty nợ xấu bao nhiêu. Thông thường khi vay mà không trả được nợ thì ngân hàng sẽ siết nhà, siết đất nhưng ngân hàng vẫn không siết nợ là vì sao.
Ngoài việc do thị trường bất động sản đóng băng, tụt giá còn một vấn đề cực kỳ phức tạp đó là người ta nâng khống giá trị tài sản lên để cho vay. Ví dụ một khu đất có giá trị khoảng 200 tỷ, bằng một hợp đồng mua bán họ đã đưa lên 800-1.000 tỷ để được vay 600 tỷ, bây giờ bán thì chưa tới 100 tỷ, khu đất đó không có ai mua, như vậy mất đứt 500 tỷ, đó mới gọi là nợ xấu. Đương nhiên cả người đi vay và người cho vay cũng đã bỏ túi hàng chục tỷ đồng khi thực hiện những phi vụ. Cho nên phải bóc tách ra, như trước đây tôi đã từng phát biểu, có những nợ không phải là nợ xấu mà có những loại nợ quá xấu, không bao giờ có thể đòi được.
Có những loại nợ xấu nằm ở các tập đoàn khác nữa, ngân hàng không bóc tách hết cho nên rất khó. Tôi nói ví dụ xi măng Hạ Long của Tập đoàn Sông Đà, tổng mức đầu tư ban đầu là 4.000 tỷ, quá trình thi công đến 45 tháng và tăng thêm 2.776 tỷ đồng, như vậy số vốn đi vay lớn hơn 5.000 tỷ đồng cho dự án này. Đến hết tháng 3/2012 đã lỗ 1.215 tỷ, xi măng Cẩm Phả do Tổng công ty Cổ phần Xây dựng công nghiệp Việt Nam đầu tư 2.3 triệu tấn/năm, đầu tư 6.089 tỷ đồng cho dự án này, sau 3 năm hoạt động đã lỗ 1.259 tỷ đồng, đó là nợ xấu mà Ngân hàng Nhà nước phải thống kê một cách nghiêm túc, mới nói được đến lúc nào mới giảm nợ xấu, đến năm nào giảm bao nhiêu phần trăm. Tôi cho khi phân tích những số liệu một cách chính xác mới xử lý rõ ràng hơn, có hiệu quả hơn.
Thứ hai, vấn đề tồn kho, tồn kho nhiều nhất vẫn là đất, nhà, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, thiết bị máy móc. Một đất nước còn nghèo mà không dưới 100 tỷ đôla chỉ trông vào nhà, đất, kể cả vàng, việc cần làm là phân khúc thị trường bất động sản và phân loại các dự án bất động sản đối với những dự án có tính khả thi cao, giãn nợ, khoanh nợ và cho vay mới để thúc đẩy dự án, làm cho thị trường bất động sản ấm dần lên mới giải quyết được bài toán tồn kho và nợ xấu.
Về vấn đề kinh doanh xăng, dầu, vấn đề này tôi theo dõi thấy dân kêu nhiều, báo chí phản ảnh nhiều, đại biểu Quốc hội phản ảnh cũng nhiều nhưng không chuyển biến, có nhiều phiên họp nói đi, nói lại về vấn đề này.
Vấn đề tạm nhập, tái xuất, nói theo thông lệ quốc tế tạm nhập, tái xuất có lợi cho đất nước, còn để xảy ra buôn lậu tràn lan, để xảy ra lợi ích nhóm thì không nên tạm nhập, tái xuất, phải có phương thức điều hành khác. Thực ra điều hành giá xăng, dầu là vấn đề vô cùng khó, để hạn chế những tiêu cực, tôi đề nghị 3 vấn đề:
Một, siết chặt khâu tạm nhập, tái xuất về xăng dầu.
Thứ hai là chia nhỏ thị phần của một số doanh nghiệp chiếm thị phần quá lớn, trên 60%. Thứ ba là giảm thời gian dự trữ lưu thông 30 ngày xuống còn 15 ngày.
Đây là một kẽ hở vì dù Bộ Tài chính có quân hùng, tướng mạnh thì cũng không tài nào giám sát được vấn đề này. Người ta không dự trữ 30 ngày, họ vẫn cứ kê đủ 30 ngày, thực tế họ dự trữ bao nhiêu ngày thì có trời mà biết được. Đây là vấn đề mà cử tri người ta nói rất nhiều vì nó đụng đến hàng mấy chục triệu người tiêu dùng xăng, dầu.
Về vấn đề nhập cư. Trong thời gian qua, khi Đà Nẵng ban hành Nghị quyết 23 của Hội đồng nhân dân thì có nhiều ý kiến nói về vấn đề này. Nhân đây tôi xin trao đổi thêm một vài ý. Hiến pháp nói công dân Việt Nam có quyền tự do cư trú, nhưng quyền tự do cư trú phải trong khuôn khổ pháp luật. Quyền tự do cư trú chỉ là một trong những quyền cơ bản của công dân. Chứ quyền tự do đi lại, quyền tự do học hành, quyền tự do khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, v.v. thì phải được đảm bảo. Không thể một nhà 20 mét vuông mà chứa 40-50 người được. Trước đây, ở tại Hội trường Ba Đình, khi thông qua Luật Cư trú, tôi phát biểu rất mạnh mẽ vấn đề này, nhưng đáng tiếc là tôi chỉ là thiểu số thôi. Cho nên Đà Nẵng chỉ hạn chế nhập cư vào trong nội thành. Hôm nay tôi nói lại cho rõ, chứ không hạn chế nhập cư cho toàn thành phố. Nếu cư dân nào tha thiết đến sinh sống ở thành phố Đà Nẵng thì ở bớt ra bên ngoại thành và hạn chế vào trong nội thành. Cũng chỉ hạn chế những người không có nghề nghiệp, không có nhà ở và không có công ăn, việc làm hoặc có tiền án, tiền sự thôi.
Luật chưa phù hợp thì chúng ta tập trung sửa luật, điều chỉnh luật, việc gì phải tập trung vào điều chỉnh nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng, mà nói rất nhiều. Xin cảm ơn Quốc hội

Phạm Hồng Phong - Hậu Giang
Kính thưa Chủ tọa phiên họp.
Kính thưa Quốc hội.
Để kinh tế của Việt Nam năm 2013 được phát triển bền vững, tôi xin phát biểu về giải pháp tháo gỡ những vướng mắc về sản xuất, kinh doanh cho doanh nghiệp. Theo tôi có 6 điểm tắc nghẽn của nền kinh tế:
Thứ nhất, lạm phát tăng nhanh, nguy cơ giảm phát của năm 2012 dẫn đến nguy cơ lạm phát cho năm 2013 sẽ phá vỡ việc định hướng đầu tư sản xuất của doanh nghiệp.
Thứ hai, nợ xấu tăng, thiếu vốn, lãi suất cao, doanh nghiệp khó tiếp cận vốn.
Thứ ba, sức mua giảm, tồn kho cao.
Thứ tư, mất việc làm, thất nghiệp cao.
Thứ năm, tăng trưởng thấp, nguồn thu nhập giảm, đầu tư sản xuất giảm.
Thứ sáu, chỗ đứng của các doanh nghiệp đang bị thu hẹp, thu hút nguồn lực ngày càng khó khăn.
Tất cả các điểm tắc nghẽn trên sẽ dẫn đến sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp đình trệ.
Về nguyên nhân, theo tôi có 7 nguyên nhân cơ bản:
Thứ nhất, chính sách tiền tệ nới lỏng nhiều năm chạy theo đầu tư ngắn hạn để tạo ra tăng trưởng ngắn, ngắn hạn, làm cho nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng phát triển không bền vững, không đủ sức va đập và tác động của thị trường thế giới.
Thứ hai, nhiều năm đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, đang gây lãng phí nguồn lực dành cho phát triển sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba, tư duy phát triển nóng vội, chạy theo tăng trưởng, chạy theo lợi nhuận làm cho lạm phát tăng trưởng xuất hiện và chính sau lạm phát tăng trưởng đã kéo theo lạm phát tiền tệ xuất hiện, buộc chúng ta phải chống đỡ trong thế nguồn lực phân bổ mất cân đối, đây cũng là nguyên nhân giảm phát xuất hiện.
Thứ tư, nguyên nhân hình thành nợ xấu của ngân hàng, của doanh nghiệp đó là sự mất cân đối lớn cho việc tăng vốn đầu tư trong khi mức tiết kiệm rất thấp. Một số chuyên gia kinh tế nhận định: mức đầu tư nếu cao đến 3, đến 5 lần mức tiết kiệm thì dẫn đến nợ xấu. Ngân hàng, doanh nghiệp trong nhiều năm gần đây huy động vốn đầu tư ngắn hạn cho vay để đầu tư dẫn đến nợ xấu.
Thứ năm là đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế của nhà nước, do thiếu kiểm soát, giám sát nên thực tế có hơn 70% dự án đầu tư bị tăng vượt dự toán ban đầu, làm mất cân đối thu chi, không giải ngân kịp. Nhà nước nợ doanh nghiệp trong khi doanh nghiệp phải vay ngân hàng lãi suất cao để thực hiện, không thu được tiền của nhà nước doanh nghiệp nợ quá hạn ngân hàng gây ra nợ xấu là nguyên nhân dẫn đến phá sản doanh nghiệp.
Thứ sáu là lợi dụng chính sách nới lỏng của nhà nước trong giai đoạn biến động kinh tế đã hình thành nhóm lợi ích lợi dụng để thâu tóm các ngân hàng, doanh nghiệp, đưa doanh nghiệp vào thế ma trận, tạo ra vòng xoáy mới để độc quyền và trục lợi, đẩy các doanh nghiệp khó khăn lại càng khó khăn hơn.
Thứ bảy, tư bản tài chính bước đầu đã được hình thành, việc sở hữu chéo doanh nghiệp, ngân hàng đang cảnh báo cho việc lũng đoạn kinh tế.
Về kiến nghị và giải pháp, trong những tháng còn lại của năm 2012 và giai đoạn tiếp theo cần thực hiện quán triệt các giải pháp chủ yếu được nêu tại Nghị quyết 11 của Chính phủ, Nghị quyết 08, Nghị quyết 29 của Quốc hội, Nghị quyết 01, Nghị quyết 13 của Chính phủ nhằm khơi thông dòng vốn tín dụng, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp về vốn, lãi suất hợp lý để doanh nghiệp tiếp tục hồi phục sản xuất kinh doanh, trong đó tập trung chủ yếu cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tận dụng các nguồn lực để ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời tiến hành tái cơ cấu nền kinh tế với 3 trọng tâm là đầu tư công, hệ thống tài chính, doanh nghiệp, là nhiệm vụ quan trọng nhưng phải triển khai đồng bộ cùng với các giải pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp. Cần sự kích thích hợp lý trong ngắn hạn với các điều kiện thực hiện nhanh, có hiệu quả và công bằng đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp. Tập trung tháo gỡ khoanh nợ, giãn nợ, hỗ trợ giảm hàng tồn kho trong đó chú trọng kích cầu một số nhóm hàng tồn kho lớn, khuyến khích doanh nghiệp sử dụng các sản phẩm của nhau, nhất là các sản phẩm làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất trong nước.
Tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp để doanh nghiệp dễ tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, giảm thuế hợp lý, tạo nguồn vốn cho các ngân hàng thương mại, tập trung cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cần đẩy nhanh thanh quyết toán những khoản nợ đọng từ các công trình dự án đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước do các doanh nghiệp thực hiện nhưng chưa được chủ đầu tư thanh toán gây thiệt hại cho các nhà thầu và doanh nghiệp. Đẩy mạnh khai thông thị trường xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, tăng cường sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước, phát động phong trào người Việt Nam dùng hàng Việt Nam. Nhà nước cần tiếp tục các biện pháp bình ổn giá năng lượng như điện, xăng dầu nhằm ổn định sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Xin cảm ơn Quốc hội.

Đinh Công Sỹ - Sơn La
Kính thưa Đoàn Chủ tịch kỳ họp,
Kính thưa Quốc hội,
Tôi xin được tham gia ý kiến với 3 vấn đề như sau:
Thứ nhất, về lao động và việc làm, chỉ tiêu tạo việc làm mới đã được Chính phủ đưa ra và kế hoạch năm 2012 là 1,6 triệu lượt lao động và ước đạt cho hết năm nay là khoảng 94,4%, đây thực sự là sự cố gắng nỗ lực rất lớn của Chính phủ và các bộ, ngành. Qua tiếp xúc cử tri chúng tôi nhận thấy cử tri còn băn khoăn về chất lượng dạy và đào tạo nghề cho lao động, nhất là lao động ở nông thôn gắn với giải quyết việc làm và ổn định đời sống. Thực tế cho thấy các dự án của chiến lược phát triển dạy nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020, chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề cho lao động nông thôn hiệu quả còn chưa cao. Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề giảm nghèo đến tháng 9/2012 mới giải ngân được 15%. Lao động sau hoàn thành khóa học trong nhiều trường hợp chưa sống được bằng nghề đã được đào tạo và học nghề, trong khi đó đầu mối các chương trình, các dự án về dạy nghề, tạo việc làm thì do rất nhiều bộ, ngành quản lý, thực tế cho thấy đã gây thất thoát lãng phí ngân sách nhà nước.
Tôi kiến nghị Chính phủ cần xem xét lại việc giao nhiệm vụ và phân cấp quản lý các dự án các  chương trình về học nghề, tạo việc làm cho lao động một cách thống nhất và quá nhiều đầu mối như hiện nay. Để giúp một phần giảm bớt khó khăn ổn định đời sống và giúp người lao động tìm được việc làm mới, chính sách bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp đã kịp thời động viên người lao động mất việc làm. Theo Báo cáo của Chính phủ thì tỷ lệ người lao động đăng ký thất nghiệp tăng rất cao 41,4% so với năm 2011, số liệu này đã phản ánh tình trạng khó khăn của các doanh nghiệp. Đồng thời trong đó cũng có nhiều trường hợp người lao động lợi dụng chính sách để nhận trợ cấp. Vì vậy, tôi đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, chức năng cần rà soát tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đảm bảo chi trả đúng đối tượng.
Vấn đề thứ hai, về thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, trước Kỳ họp thứ 3, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiến hành giám sát thực hiện chính sách pháp luật về người có công với cách mạng. Kết quả cho thấy hệ thống chính sách pháp luật đã cơ bản đảm bảo cho những người có công với cách mạng và thân nhân của họ được hỗ trợ. Tuy nhiên, trong các đối tượng được hưởng chính sách này có lực lượng cựu thanh niên xung phong trong kháng chiến vào thời kỳ xây dựng đất nước còn có nhiều bất cập trong việc công nhận và chậm trễ trong việc thực thi từ các địa phương mà đều bắt nguồn từ quy định không rõ ràng hoặc chưa phù hợp. Số cựu thanh niên xung phong này tuổi đã cao, nhiều trường hợp trong số đó sống cô đơn không nơi nương tựa đời sống gặp rất nhiều khó khăn.
Tôi đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Lao động Thương binh và xã hội có hướng dẫn mở rộng hơn về thủ tục, nhất là các giấy tờ được chứng minh là cựu thanh niên xung phong. Quy trình công nhận gắn với việc kiểm soát chặt chẽ, đúng đối đối tượng, phân định rõ thẩm quyền của các cơ quan ở Trung ương và địa phương trong việc rà soát và hoàn thiện hồ sơ để đề nghị cấp có thẩm quyền quyết định công nhận. Đồng thời giải quyết dứt điểm hồ sơ tồn đọng hiện nay để kịp thời động viên đảm bảo các cựu thanh niên xung phong đảm bảo được đời sống.
Theo báo cáo hiện nay có gần 7000 hồ sơ đang tồn đọng và trên 56 nghìn cựu thanh niên xung phong không được hưởng chế độ.
Vấn đề thứ ba, về việc triển khai thực hiện các đề án, các dự án khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay nhân dân các dân tộc miền núi, vùng đồng và dân tộc thiểu số đã được nhà nước quan tâm, xây dựng nhiều chính sách được nhân dân đánh giá cao. Về cơ bản các chính sách đã giải quyết nhiều mặt đời sống của đồng bào nhưng còn hạn chế trong triển khai các dự án, các chương trình đã được các đại biểu Quốc hội nhắc đến nhiều đó chính là sự chồng chéo, trùng lặp về các mục tiêu, việc phân bổ các nguồn vốn từ Trung ương để quá chậm, có khi hết quý 2 mới phân bổ về các địa phương.
Trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, nhiều chính sách chương trình và dự án được đưa ra không thể triển khai được và lý do chưa được bố trí nguồn vốn. Cử tri khu vực miền núi, vùng biên giới và hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có miền tin mạnh mẽ vào sự điều hành của nhà nước, niềm tin đó sẽ khó lấy lại được khi những chính sách đã được Quốc hội và nhà nước thông qua nhưng lại chậm trễ và kéo dài thời gian thực hiện trong thực tế. Để đảm bảo giữ vững an ninh biên giới và hải đảo, tôi đề nghị Chính phủ cần tiếp thu ý kiến của cử tri và các đại biểu Quốc hội rà soát lại các dự án, các chương trình phục vụ dân sinh có trọng tâm, trọng điểm, đồng thời xem xét lại các chính sách về lương, về phụ cấp cho đội ngũ những người làm việc không chuyên trách ở cơ sở trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp. Chính phủ cần quan tâm trước mắt đến các địa phương vùng biên giới, hải đảo. Tôi xin hết, xin cảm ơn Quốc hội.

Phạm Văn Cường - Lào Cai
Kính thưa Quốc hội,
Tôi nhất trí với Báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2012, trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới phức tạp, nhưng dưới sự chỉ đạo quyết liệt điều hành của Chính phủ, sự phấn đấu nỗ lực của các Bộ, ngành Trung ương và địa phương, kết quả năm 2012 đạt hết sức quan trọng. Tuy nhiên, 5 chỉ tiêu nữa dự báo sẽ khó hoàn thành, tôi xét thấy trong 3 tháng cuối năm còn lại, việc khó khăn nhất là năm 2012 Chính phủ thực hiện những Nghị quyết của Quốc hội, do vậy giao kế hoạch cũng khó khăn hơn so với năm trước đây, đến tháng 6, tháng 7, tháng 8, thậm chí tháng 9 mới giao được, kể cả kế hoạch bổ sung cho năm 2012 các địa phương. Dẫn đến một số chỉ tiêu mà dự báo nếu chỉ đạo quyết liệt hơn, những chỉ tiêu xóa đói giảm nghèo, sự quyết liệt có thể đạt được mục tiêu đề ra. Do vậy, ở các địa phương chịu trách nhiệm trước Chính phủ về vấn đề chỉ tiêu xóa đói giảm nghèo đã được giao nguồn lực vì đến thời điểm này, nguồn lực các địa phương mới thanh toán khoảng 40%, từ giờ đến cuối năm còn 3 tháng còn lại là 60% phải tập trung chỉ đạo
Vấn đề thứ hai, chỉ tiêu rừng năm 2012 đã giao chỉ tiêu này không phải là chương trình 5 triệu hecta nữa mà gọi là kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng. Chỉ tiêu không lớn, tuy nhiên tỷ lệ che phủ rừng và những vấn đề nợ đọng tồn tại của những năm trước đây đề nghị Bộ Tài chính, Chính phủ xem xét tháo gỡ những đơn vị thì có lẽ những mục tiêu về tỷ lệ che phủ bảo vệ rừng đáp ứng được yêu cầu với kế hoạch.
Kế hoạch về giải ngân, cho đến thời điểm này về giải ngân sẽ có những khó khăn mà nguồn lực kế hoạch khó nhưng những vấn đề thanh khoản tiền để thanh toán cho các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp, trên thực tế giờ phút này sẽ còn nguồn lực do liên quan đến cân đối thu chi, số tiền vào ngân sách đã có chưa, đây là bài toán. Mức độ tăng trưởng từ 4,72 mới lên được 5,2 dự kiến theo mục tiêu của Chính phủ báo cáo.
Về kế hoạch năm 2013, tôi nhất trí như Báo cáo của Chính phủ và mục tiêu đề ra, tuy nhiên, kỳ vọng của Quốc hội rất quan tâm là chúng ta phải xây dựng một chiến lược kế hoạch trung hạn cho năm 2013 - 2015, nhưng đến giờ phút này chúng ta chưa thông qua được, đây là một sự khó khăn. Nếu chỉ nhìn kế hoạch năm 2013, sang năm lại nhìn năm 2014, và năm 2015 là không đáp ứng được kỳ vọng của Quốc hội. Do vậy, vấn đề này là một hạn chế tồn tại để nghị Chính phủ và các Bộ, ngành sẽ làm sao sớm trình được phương án để chúng ta có lộ trình.
Năm 2013 là năm quan trọng, là năm bản lề để thực hiện các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và của các địa phương, của các Bộ, ngành Trung ương. Do vậy, chúng ta không xác định bước đi năm 2013 xong mà lại không xác định năm 2014 nữa, đến năm 2013 lại bàn tiếp, đây thực sự là khó khăn. Trên cơ sở đó xác định những chỉ tiêu tăng trưởng lớn như đưa ra khung tăng trưởng kinh tế từ 5,5 - 6, tức là cho từ nay đến năm 2015 hoặc bội chi ngân sách có thể từ 4,8 - 5, nghĩa là không phải hôm nay bàn cụ thể là 5,2 hay 5,3, 5,4 mà lộ trình đó  Chính phủ đạt được dễ.
Về nguồn lực đầu tư xã hội tôi xét thấy hiện nay theo kế hoạch năm 2013 với mức đầu tư rất thấp so với những năm trước đây. Đây là năm đầu tiên từ trước đến nay kế hoạch bị thụt lùi, đầu tư phát triển, đầu tư xã hội đều thụt lùi với mức vốn khoảng 1.300 tỷ đồng mà chiếm khoảng 29%, theo dự kiến khoảng 30% nghĩa là ta tụt hơn so với các năm trước, đây là khó khăn của chúng ta. Chúng ta kiềm chế lạm phát tuy nhiên chúng ta phải nhìn những vấn đề đặt ra được cơ cấu đầu tư như thế nào để xem xét rà soát, thông qua đó tập trung đi vào lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ như thế nào cho hợp lý.
Đặc biệt xin báo cáo Quốc hội 16 chương trình mục tiêu quốc gia đã đề ra rất rõ, mục tiêu, nhiệm vụ, thời gian và nguồn lực vốn đầu tư báo cáo đề ra rất cao nhưng đến thời điểm này theo phương án bố trí của Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội thì quá thấp. Cơ cấu đầu tư mà nhiều đại biểu Quốc hội rất quan tâm đầu tư như thế thì giải quyết được cái gì, có đáp ứng được mục tiêu đó không, nếu không mục tiêu đề ra cuối cùng nguồn lực cũng như cách chỉ đạo không triệt để thì chỉ đạt được 30-40% trong 16 chương trình mục tiêu đưa ra.
Thực trạng nền kinh tế từ nay đến năm 2015 khó khăn như vậy mà đặt ra chiến lược như vậy, tôi đề nghị Quốc hội xem xét chỉ đạo các bộ, ngành trung ương cũng như Chính phủ có lộ trình sớm để trình vào kỳ họp thứ 5 tới thông qua để bù lại cho kỳ họp này chúng ta chưa thông qua được. Lộ trình về kế hoạch giao trung hạn có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Vấn đề thứ hai, về nguồn lực vốn đầu tư cho nông thôn mới nhiều đại biểu rất quan tâm, đầu tư nội dung nêu trên tôi đề nghị Chính phủ xem xét phát hành trái phiếu cho chương trình nông thôn mới, chương trình này người dân rất quan tâm, cử tri cả nước rất quan tâm, trên 9.000 xã và tất cả các nguồn lực hiện nay phương án bố trí có 1.000 tỷ, từ nay đến năm 2015 mỗi năm có 1.000 tỷ thì quá thấp, mỗi xã có 100 triệu. Đề nghị phát hành trái phiếu cho chương trình nông thôn mới mà người dân cả nước tham gia chương trình này với khoảng 20.000 tỷ. Nghĩa là chúng ta sẽ có tổng mức trung hạn khoảng 23.000 tỷ từ nay đến năm 2015 thì chúng ta giải quyết được bình quân mỗi xã khoảng 700 triệu trong giai đoạn này. Ở đâu ra thì phải phát hành trái phiếu cho chương trình nông thôn mới như nêu trên thì mới đáp ứng được tăng trưởng kinh tế trong ngành nông nghiệp, đặc biệt là nội dung về xóa đói giảm nghèo, nông thôn mới.
Vấn đề thứ ba, về lộ trình nâng lương, đã có ý kiến rồi có lẽ chúng ta sẽ thực hiện, mặc dù khó khăn phải cân đối 60.000 tỷ  để đưa ra như đồng chí Bộ trưởng giải thích, phải tiếp tục thực hiện nội dung đó vào ngày 1/5/2013 cho phù hợp với Luật lao động, khó khăn như vậy có lẽ đưa vào ngay nghị quyết trong kỳ họp này, cử tri cả nước cũng như cán bộ, công chức rất quan tâm, thông qua lương để tăng thu nhập và thông qua đó để phòng ngừa, phòng chống tham nhũng. Thu nhập thêm cho cán bộ, công chức để phòng ngừa những vấn đề khác.
Vấn đề thứ tư, tôi xin tham gia ý kiến về một số dự án quan trọng của đất nước, trên địa bàn phía Bắc có tuyến đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai đi qua 5 tỉnh Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai thì đến giờ phút này đã chậm gần 3 năm. Do vậy, đề nghị Bộ Giao thông vận tải tăng cường chỉ đạo quyết tâm năm 2013 để xong tuyến đường này để tạo cho hành lang kinh tế phát triển, thúc đẩy hoạt động xuất, nhập khẩu trên tuyến đường hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hải Phòng. Tuy nhiên, song song với Đường 5 của Hà Nội - Hải Phòng tiếp tục thực hiện vì cũng đã khởi công được 2 năm rồi. Đến giờ phút này thấy rất đúng đắn. Không biết lộ trình những dự án trọng điểm thực hiện như thế nào, nguồn lực tiền đã thực hiện được chưa.
Vấn đề tháo gỡ khó khăn trên địa bàn tỉnh Lào Cai chúng tôi, qua giám sát Quốc hội, thì thấy vấn đề các tập đoàn lớn như Tập đoàn Than - khoáng sản, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam.
Báo cáo với Quốc hội là về sản phẩm tiêu thụ còn khó khăn, do vậy quặng apatit bây giờ tiêu thụ trong nước cũng khó, cho nên đề nghị các bộ, ngành Trung ương, đặc biệt là Bộ Công thương, bên Chính phủ thì tỉnh đã có ý kiến, làm thế nào để giải quyết, tháo gỡ khó khăn trên 4.000 lao động, tiêu thụ sản phẩm, hoạt động trong nước và xuất khẩu cho apatit ở Lào Cai và một số khoáng sản khác. Ví dụ như Tập đoàn Than - khoáng sản về đồng sản xuất ra các năm trước giá cao, nhưng năm nay giá quá thấp thì cách làm như thế nào đó, tháo gỡ thế nào đó để tiêu thụ một số sản phẩm thì các tập đoàn lớn chưa nhiệt tình.
Tôi xin có một số ý kiến như vậy. Xin cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Thái Bình - Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Kính thưa đoàn Chủ tịch.
Kính thưa Quốc hội.
Tôi xin phép được phát biểu một số ý kiến liên quan đến những vấn đề  mà các đại biểu Quốc hội quan tâm.
Xung quanh vấn đề tiền lương và một số chính sách liên quan đến chế độ tiền lương. Ngoài ý kiến của Bộ trưởng Bộ Tài chính, tôi xin được phép báo cáo trước Quốc hội thực hiện kết luận Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ năm Khóa XI thì Ban Chấp hành Trung ương đã giao cho Bộ chính trị chỉ đạo Ban Cán sự Đảng của Chính phủ khẩn trương xây dựng đề án về thực hiện cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công để báo cáo Ban chấp hành Trung ương tại Hội nghị lần thứ 7 Khóa XI, Ban chỉ đạo tiền lương nhà nước được Ban Cán sự Đảng Chính phủ giao cho chủ trì để xây dựng đề án. Đề án này mang tính chất tương đối toàn diện và đồng bộ, từ chính sách tiền lương đến bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công, từ mức lương tối thiểu đến mối quan hệ giữa mức lương tối thiểu, trung bình, tối đa, từ thang lương, bảng lương đến chế độ phụ cấp trợ cấp. Báo cáo với Quốc hội Ban Chỉ đạo tiền lương của nhà nước cố gắng thực hiện để có thể báo cáo Ban Cán sự Đảng Chính phủ, báo cáo Bộ Chính trị, và báo cáo Ban chấp hành Trung ương đúng theo kế hoạch đã đề ra.
Vấn đề thứ hai, liên quan đến chế độ đãi ngộ cho cán bộ ở xã, phường, thị trấn, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã giao cho Ban Cán sự Đảng, Bộ Nội vụ chủ trì trên cơ sở tổng kết Nghị quyết Trung ương 5, Khóa IX, trên cơ sở kết luận của Trung ương 5 Khóa XI xây dựng đề án về chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn và chính sách đối với cán bộ về công tác ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Bộ Nội vụ chủ trì phối hợp với các bộ, ngành Trung ương, các địa phương cố gắng thực hiện để có thể báo cáo Bộ chính trị, Ban Bí thư trong năm 2013.
Trong trước mắt thực hiện ý kiến kiến nghị của cử tri trong cả nước và nhiều ý kiến của đại biểu Quốc hội quan tâm đến chế độ đối với những người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn, ở thôn, tổ dân phố. Bộ Nội vụ đã báo cáo xin ý kiến với Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã được Chính phủ và  Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho tiến hành sửa đổi một số điều của Nghị định 92. Đặc biệt tập trung chế độ phụ cấp cho những người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn, ở thôn, tổ dân phố. Đến nay trên cơ bản dự thảo sửa đổi nghị định này đã hoàn thành thì Bộ Nội vụ có thể trình Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong tháng 11 năm 2012 này.
Xung quanh về ý kiến của đại biểu Quốc hội Hà Minh Huệ, với trách nhiệm là Bộ trưởng Bộ Nội vụ, tôi cũng chân thành cảm ơn đại biểu Hà Minh Huệ có quan tâm đến lĩnh vực quốc huy của Tổ quốc. Với trách nhiệm của mình, mặc dầu chức năng, nhiệm vụ của Bộ Nội vụ thì không được giao chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực quốc huy. Nhưng với trách nhiệm và trước Quốc hội, trước cử tri cả nước với trách nhiệm là thành viên của Chính phủ, Bộ Nội vụ thấy rằng kiến nghị đề nghị này cũng rất xác đáng và nó xuất phát từ trong thực tế cuộc sống đang đặt ra. Chúng tôi thành lập tổ để nghiên cứu không những quản lý về quốc huy mà có cả về quốc kỳ, quốc ca, đây là hồn thiêng của Tổ quốc.
Trước hết, chúng tôi nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ đã được nhà nước phân công quản lý nhà nước trên lĩnh vực là quốc kỳ, quốc huy, quốc ca hay chưa?
Báo cáo với Quốc hội, tới thời điểm này, chúng tôi nghiên cứu nghị định mà quy định chức năng, nhiệm vụ của các bộ, cơ quan ngang bộ thì chưa thấy thể hiện giao trách nhiệm quản lý nhà nước về quốc kỳ, quốc huy, quốc ca. Do đó chúng tôi nghiên cứu mảng thứ hai như vậy là sẽ nghiên cứu tham mưu đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao cho cơ quan nào có thể thực hiện chức năng này. Chúng tôi nghiên cứu nhiều cơ quan nhưng tập trung vào 3 cơ quan đó là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Nội vụ và một số bộ, ngành chức năng khác. Chúng tôi nghiên cứu có thể giao cho Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch quản lý nhà nước về quốc huy, quốc kỳ, quốc ca là phù hợp bởi vì trong các công sở, trong các cơ quan, các trường học, các bệnh viện sử dụng quốc kỳ trước cổng, trong hội trường và quốc ca có liên quan đến quy chế văn hóa ở công sở, cơ quan, trường học hoặc các hộ nhân dân treo cờ các ngày lễ lớn, quốc kỳ, kích cỡ, cột cờ như thế nào cần phải có hướng dẫn và liên quan đến quy chế văn hóa ở khu dân cư. Chúng tôi sẽ tham mưu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch quản lý nhà nước trên lĩnh vực quốc huy, quốc kỳ, quốc ca để tổ chức triển khai thực hiện giám sát.
Quá trình thực hiện chúng tôi đã trao đổi thống nhất với đồng chí Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch chỉ có cách là trình với Chính phủ, Thủ tướng để sửa đổi Nghị định của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch để chức năng quản lý nhà nước như thế nào. Có hai vấn đề đặt ra là đề nghị xin chủ trương cho sửa đổi, bổ sung ngay hay trong năm 2012 này Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo cho tất cả các bộ, cơ quan ngang bộ sửa đổi chức năng, nhiệm vụ của từng bộ, cơ quan ngang bộ đúng theo tinh thần Nghị định 36. Do đó chúng tôi chọn phương án trong lúc thực hiện sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Văn hóa thể thao và du lịch nhân sửa đổi, bổ sung chung thì chúng tôi sẽ đề xuất xin ý kiến Chính phủ với Thủ tướng Chính phủ cho bổ sung chức năng này.

Trần Hoàng Ngân - TP Hồ Chí Minh
Kính thưa Quốc hội,
Sau khi đọc Báo cáo của Chính phủ và Báo cáo Thẩm tra của Ủy ban Kinh tế tôi xin chia sẻ thêm vài ý kiến.
Phần thứ nhất, về tình hình kinh tế xã hội năm 2012, bên cạnh những thành công đã nêu trong báo cáo của Chính phủ hiện nay nền kinh tế nước ta vẫn còn nhiều khiếm khuyết:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế năm 2012 ước đạt 5,2% đây là mức tăng thấp nhất trong 13 năm qua và là năm thứ hai liên tiếp suy giảm so với năm 2010. Tôi chia sẻ với Chính phủ về sự suy giảm này vì chúng ta đang tái cấu trúc nền kinh tế, chúng ta đang quản lý chặt chẽ đầu tư công, chúng ta đang điều trị bệnh nền kinh tế nhưng bệnh nặng nên điều trị hơi lâu. Nhưng chúng ta không thể để nền kinh tế tiếp tục giảm sâu hơn nữa vì ảnh hưởng đến công ăn việc làm, an sinh xã hội, kể cả ngân sách nhà nước cũng khó khăn, Chính phủ cần có giải pháp cấp bách và đột phá.
Thứ hai, lạm phát năm nay đã giảm so với năm 2011 nhưng chưa thật vững chắc và còn rất cao so với các nước trong khu vực ASEAN, Thái Lan chỉ có 3%, Malaysia 1,9%, Việt Nam 8%. Điều lưu ý là lạm phát năm nay giảm là do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là do tổng cầu suy giảm, sức mua suy giảm và đặc biệt là giá lương thực, thực phẩm không biến động, thậm chí còn giảm và bị ép giá nhưng chi phí đầu vào tăng gây khó khăn cho đời sống nông dân.
Thứ ba, lạm phát cao kéo theo lãi suất gấp 2, gấp 3 lần so với các nước trong khu vực làm ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ tư, tổng vốn đầu tư xã hội ước thực hiện 29,5% GDP giảm 4% so với kế hoạch, trong đó vốn đầu tư khu vực tư nhân chỉ đạt 70% so với kế hoạch năm 2012. Đầu tư là cơ sở của sự phát triển tạo ra công ăn việc làm và tăng trưởng. Tại sao đầu tư tư nhân giảm? phải chăng doanh nhân đã hết vốn hay doanh nhân không tiếp cận được vốn, không vay được vốn. Cũng có thể doanh nhân có vốn nhưng đang chờ chính sách rõ ràng hơn, chính sách hỗ trợ rõ nét hơn, kinh tế vĩ mô ổn định hơn.
Thứ năm, hàng tồn kho, nợ xấu cao và trở thành điểm nghẽn trong nền kinh tế, ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách vĩ mô, ảnh hưởng đến an ninh, an toàn hệ thống tài chính quốc gia.
Những tồn tại trên do nhiều nguyên nhân, nguyên nhân từ suy thoái kinh tế thế giới, tác động bất lợi đến kinh tế nước ta, nguyên nhân chủ quan từ những khiếm khuyết trong điều hành quản lý nhà nước mà Thủ tướng đã phát biểu trước Quốc hội. Điều  này sẽ giúp các thành viên Chính phủ sớm khắc phục khuyết điểm, nâng cao tinh thần trách nhiệm, hành động quyết liệt hơn nữa giúp nước ta vượt qua khó khăn. Tôi cho đó là điểm sáng quan trọng, giúp chúng ta có sự lạc quan bước vào năm 2013.
Phần thứ hai, về giải pháp kinh tế - xã hội năm 2013. Tôi thống nhất với những khuyến nghị của báo cáo thẩm tra của Ủy ban kinh tế và đồng ý với các chỉ tiêu kinh tế, xã hội mà Chính phủ đã đề nghị. Kinh tế nước ta tuy còn nhiều khó khăn trước mắt nhưng các tổ chức tài chính thế giới vẫn đưa ra các dự báo khá lạc quan, Ngân hàng thế giới của World Bank, Ngân hàng Châu Á dự báo Việt Nam sẽ tăng trưởng 5,7%. Quỹ tiền tệ quốc tế IMF dự báo tăng trưởng 5,9%.
Các dự báo trên có cơ sở, bởi tiềm năng kinh tế nước ta còn rất lớn, nguồn nhân lực còn dồi dào và sáng tạo, thị trường nội địa rộng lớn, nhiều ngành nghề còn nhiều tiềm năng phát triển như ngành du lịch, ngành nông nghiệp, ngành kinh tế biển nếu đầu tư đúng mức thì sẽ nâng cao hiệu quả. Chín nhóm giải pháp của Chính phủ nêu trong báo cáo là đúng nhưng cần phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ trong triển khai thực hiện. Tôi chia sẻ thêm vài khuyến nghị:
Khuyến nghị thứ nhất, quá trình tái cấu trúc nền kinh tế nước ta cần có giải pháp đồng bộ và căn cơ, cần có kịch bản tổng thể với lộ trình chi tiết như một bản vẽ thiết kế công trình xây dựng cơ bản. Trên cơ sở đó mới thấy rõ trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương theo một mục tiêu thống nhất.
Khuyến nghị thứ hai, cần nhanh chóng triển khai các nghị định, Thông tư, hướng dẫn việc thực hiện chi tiết các điều, khoản trong Luật Giá mà Quốc hội đã thông qua ngày 20-6-2012, góp phần kiểm soát giá cả, kiềm chế lạm phát một cách vững chắc.
Khuyến nghị thứ ba, phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ theo hướng chống suy giảm kinh tế, không để lãi suất tăng cao trở lại và biến động bất thường. Điều hành lãi suất theo lạm phát cơ bản về giá lương thực và xăng, dầu biến động không theo ý muốn chủ quan của Chính phủ.
Khuyến nghị thứ tư, tiếp tục có chính sách hỗ trợ hộ nông dân, hộ sản xuất, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực tiếp cận vốn, thuế, phí, lãi suất, thủ tục hành chính.
Kinh nghiệm cho thấy, tại thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương, nếu lãnh đạo địa phương chịu khó nhảy vào thực tiễn, nắm bắt ngay những khó khăn của các doanh nghiệp, phối hợp các sở, ban, ngành, bộ cùng nhau tháo gỡ vướng mắc thì doanh nghiệp sẽ đỡ khó khăn hơn. Nhờ vậy mà GDP của thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ được nhịp tăng trưởng cao, 9 tháng là 8,7% và cả năm là 9,2%, đóng góp vào 20% GDP cả nước, 30% ngân sách của cả nước trong nhiều năm.
Khuyến nghị thứ năm, cần kiểm tra, rà soát và mạnh dạn thu hồi các quy hoạch treo, treo trong nhiều năm không triển khai, không cấp phép gây lãng phí, gây khổ cho dân.
Tôi tin rằng, khi an cư người dân sẽ sửa chữa, xây dựng nhà mới, vì vậy sẽ góp phần giải quyết hàng tồn kho vật liệu xây dựng. Bệnh viện, trường học, ký túc xá, nhà ở xã hội sẽ có đất sạch để xây dựng mới.
Khuyến nghị thứ sáu, tình hình trật tự, an toàn xã hội diễn ra phức tạp và manh động, đe dọa đến tính mạng của người dân. Tôi đề nghị Quốc hội sớm có nghị quyết về phòng, chống và trấn áp tội phạm.
Khuyến nghị thứ bảy, chính sách an sinh xã hội của chúng ta trong thời gian vừa qua đã có những cải thiện nhưng cần làm tốt hơn nữa, quan tâm hơn nữa đến những hộ nghèo, gia đình chính sách, có công với cách mạng.
Kính thưa Quốc hội.
Niềm tin sẽ trở lại khi chúng ta có quyết sách đúng, hợp lòng dân, kinh tế sẽ tăng trưởng bền vững, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, hạnh phúc sẽ  nhân đôi. Xin cảm ơn.

Nguyễn Hồng Sơn - TP Hà Nội
Kính thưa Quốc hội,
Tôi xin phép đóng góp ý kiến vào Báo cáo của Thủ tướng Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2012, nhiệm vụ năm 2013.
Về tình hình chung, chúng tôi đồng ý với những số liệu chỉ tiêu kinh tế của năm 2013 mà Chính phủ đã trình, tôi xin phân tích thêm một số nguyên nhân cũng như các giải pháp để tháo gỡ những khó khăn cho doanh nghiệp:
Có thể nói, trong 2 năm vừa qua, những diễn biến kinh tế đã làm cho các doanh nghiệp đang đặt trong giai đoạn khó khăn hơn bao giờ hết, nhiều doanh nghiệp phá sản, ngừng sản xuất với hệ lụy theo đó kinh tế nhà nước chậm phát triển, giảm thu ngân sách, lao động mất việc làm, trật tự xã hội diễn biến phức tạp. Trước tình hình như vậy, Chính phủ đã có rất nhiều nỗ lực, cố gắng chủ động linh hoạt trong điều hành và trình Quốc hội đưa ra rất nhiều giải pháp để hỗ trợ thị trường tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Chúng tôi đánh giá các Bộ, ngành cũng đã chủ động trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ thị trường cũng như giải quyết hàng tồn kho. Cụ thể như Bộ Công thương đã kêu gọi các doanh nghiệp ký với nhau về việc tiêu thụ sản phẩm của nhau, Bộ Xây dựng đã chủ động trong việc xây dựng chính sách tìm cách xây dựng thị trường, thúc đẩy thị trường bất động sản, Bộ Giao thông và vận tải đã ký kết thỏa thuận để làm sao tăng cường xây dựng hạ tầng bằng sản phẩm bê tông sẽ tiêu thụ được hàng tồn kho xi măng, Ngân hàng Nhà nước rất quyết liệt trong việc giảm lãi suất mặc dù giảm lãi suất chưa như mong muốn nhưng cũng đã tháo gỡ một phần khó khăn cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp đang có những khế ước vay với lãi suất cao.
Tuy nhiên, với những nỗ lực đó của Chính phủ và các ngành, các cấp vẫn chưa đem lại những hiệu quả như mong muốn, vẫn còn trên 40.000 doanh nghiệp phá sản, ngừng sản xuất trong những tháng đầu năm, kéo theo hàng triệu người mất việc làm, lượng hàng tồn kho tuy giảm những cũng còn đang ở mức cao, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Lãi suất giảm nhưng với tỷ lệ lãi suất hiện nay vẫn không đảm bảo được hiệu quả khi đưa dòng tiền này tham gia vào sản xuất. Dù còn cao như vậy nhưng thủ tục để tiếp cận với các khoản vay này còn khó khăn, còn nhiều bất cập. Tình hình nợ xấu rất cao và chưa có giải pháp xử lý cụ thể, trong đó một phần do lỗi của nhà nước trong việc giải ngân từ các dự án đầu tư xây dựng bằng nguồn ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, những chính sách hỗ trợ thị trường tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp mà Chính phủ và Quốc hội đã ban hành từ những kỳ họp trước, những doanh nghiêp rất khó tiếp cận và được hưởng thụ. Việc giảm thuế thu nhập cho nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, đối với nhóm doanh nghiệp này với kinh tế khó khăn, sản xuất và tiêu thụ hàng hóa khó khăn cho nên thực chất họ không có lãi, không có lợi nhuận để hưởng thụ miễn thuế thu nhập doanh nghiệp.
Qua đi khảo sát thực tế tại các doanh nghiệp thì rất nhiều doanh nghiệp có đủ điều kiện để hưởng thụ, nhưng vì theo quy định chúng ta chỉ giảm thuế cho một số doanh nghiệp vừa và nhỏ nên một số doanh nghiệp các điều kiện khác thì đủ nhưng riêng về số sử dụng lao động họ trên 300 lao động, thậm chí chỉ trên vài chục người nên không được hưởng hỗ trợ mà Quốc hội và Chính phủ đã ban hành. Doanh nghiệp nói rằng mình ta có thể được hưởng thu cái này trong trường hợp giảm bớt vài chục lao động, nhưng rất may doanh nghiệp họ không thực hiện theo hướng này.
Việc hỗ trợ giảm 50% tiền thuê đất cho các doanh nghiệp, vấn đề này rất phức tạp, bởi vì thủ tục để cho các doanh nghiệp tiếp cận với việc được giảm tiền thuê đất 50% này đòi hỏi phải đầy đủ các thủ tục về đất như sổ đỏ. Trong khi đó rất nhiều khu vực sản xuất của các doanh nghiệp chưa được cấp sổ đỏ vì nhiều lý do khác nhau, trong đó có lý do về quy hoạch, về các vấn đề do Nhà nước. Trong khi đó hàng năm các doanh nghiệp vẫn phải nộp tiền thuê đất đầy đủ, nhưng vì thiếu thủ tục do từ phía Nhà nước là chính các doanh nghiệp không được giảm theo quy định hỗ trợ khó khăn của Chính phủ và Quốc hội đề ra.
Bên cạnh đó một số địa phương theo quy định của Luật đất đai phải tính toán giá trị đất hàng năm và Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành trong cả nước phải công bố giá đất hàng năm, áp dụng từ ngày 1/1. Nhưng việc tính giá đất đối với các khu đất thuê phải sát giá thị trường, cho nên liên ngành các tỉnh lại phải thực hiện việc này. Việc tổ chức liên ngành cho đến giờ phút này, thậm chí nhiều khu đất chưa định được giá, nếu không làm nhanh đến thời hạn quy định của việc hỗ trợ giảm 50% của chúng ta ban hành thì doanh nghiệp lại không được tiếp cận, mà lỗi này không phải là của doanh nghiệp.
Thông thường, đã không được giảm thì trong khi đó việc tính toán của việc tăng giá đất hàng năm theo giá thị trường lại tăng rất cao, có những khu vực chúng tôi khảo sát tăng gấp 5, 6 lần so với năm trước. Điều này đã làm cho doanh nghiệp đã khó khăn lại càng thêm khó khăn. Nhiều nợ xấu dẫn đến doanh nghiệp kiệt quệ có nhiều nguyên nhân nhưng tôi xin đề cập đến một nguyên nhân rất lớn đó chính là nguyên nhân từ việc giải ngân, từ các công trình đầu tư vào nguồn vốn ngân sách. Việc nợ đọng của vốn ngân sách không phải chỉ có nhà thầu trực tiếp mà các nhà thầu phụ, các nhà cung cấp vật liệu cũng nợ lẫn nhau và cho đến các doanh nghiệp cuối cùng đều tham gia vào nợ ngân hàng.
Theo thống kê hiện nay tổng số vốn ngân sách nợ các doanh nghiệp khoảng 97.000 tỷ và chiếm khoảng 50% tổng nợ xấu, vì thế cho nên đây là một việc khó khăn. Trước tình hình đó tôi đề xuất một việc giải quyết tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, cho những tháng cuối năm 2012 và 2013 như sau:
Thứ nhất là trước hết phải giải quyết về công nợ xấu, tôi chia sẻ với Thống đốc Ngân hàng nhà nước thì riêng ngành ngân hàng không thể giải quyết được toàn bộ vấn đề nợ xấu, vì thế tôi đề nghị Chính phủ cần thành lập một ban chỉ đạo hoặc 1 ủy ban để giải quyết nợ xấu. Bên cạnh các giải pháp xử lý mang tính triệt để đồng bộ và lâu dài thì trước mắt Chính phủ cần chỉ đạo yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền địa phương rà soát tổng hợp, kết hợp với kê khai của doanh nghiệp để xác định đầy đủ giá trị mà vốn ngân sách nhà nước đang nợ doanh nghiệp trong xây dựng cơ bản và mua sắm công để có giải pháp giải cứu giúp doanh nghiệp, nếu chưa bố trí ngay được nguồn vốn thì có thể có cơ chế để chuyển nợ ngân hàng từ các doanh nghiệp sang nhà nước.
Thứ hai là đề nghị Chính phủ có văn bản hướng dẫn các địa phương thống nhất trên toàn quốc thực hiện việc hỗ trợ tính giá và đơn giản thủ tục miễn tiền thuê đất cho doanh nghiệp theo hướng:
Thứ nhất là cho các doanh nghiệp chủ động lựa chọn việc trả tiền thuê đất 1 lần hay hàng năm, vì trong lúc khó khăn việc trả tiền thuê đất 1 lần cho suất mấy chục năm  thuê đất sẽ làm cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai là giá tiền thuê đất của các doanh nghiệp phục vụ sản xuất kinh doanh trong lúc chờ Luật Đất đai đang sửa đổi được thông qua thì các tỉnh lấy giá đất mà Hội đồng nhân dân phê chuẩn ngày 1/1 để áp giá chứ không thực hiện việc khảo sát và tính giá lại.
Thứ ba là việc để thúc đẩy thị trường chúng tôi đề nghị hỗ trợ cho người thực tế là người tiêu dùng bằng cách giảm thuế VAT sẽ giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ và người được hưởng thụ trực tiếp là người tiêu dùng. Xin hết, xin cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Thị Kim Ngân - Phó chủ tịch Quốc hội
Kính thưa Quốc hội,
Qua 1,5 ngày thảo luận về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 đã có 86 đại biểu đăng ký phát biểu. Trong đó có 71 đại biểu phát biểu, có 1 Phó Thủ tướng và 7 Bộ trưởng thành viên Chính phủ. Các đại biểu chưa phát biểu xin đề nghị gửi ý kiến của mình qua Đoàn thư ký kỳ họp để tổng hợp.
Nhìn chung không khí thảo luận rất sôi nổi, các đại biểu Quốc hội đã thể hiện sự tán thành với những nội dung trong Báo cáo của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế. Nhiều ý kiến đã phân tích, đánh giá bổ sung trên nhiều khía cạnh khác nhau về những kết quả đạt được, những tồn tại, yếu kém của tình hình kinh tế - xã hội và đã đề xuất, kiến nghị rất nhiều giải pháp cụ thể về chính sách, về công tác quản lý, điều hành cho những tháng còn lại cuối năm 2012 và cho kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013.
Qua thảo luận, đa số đại biểu Quốc hội nhất trí với nhận định đánh giá tình hình năm 2012, như trong bối cảnh kinh tế thế giới có rất nhiều khó khăn so với dự báo thì Chính phủ đã triển khai thực hiện nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 đạt được những kết quả và có sự chuyển biến nhất định, lạm phát được kiềm chế, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tăng trưởng kinh tế ước đạt 5,2%. Tuy không đạt kế hoạch đề ra nhưng là mức hợp lý trong điều kiện hết sức khó khăn. An sinh xã hội cơ bản được đảm bảo, quốc phòng an ninh được tăng cường, chính trị - xã hội ổn định.
Tuy nhiên nhiều ý kiến của đại biểu Quốc hội rất quan tâm, lo lắng trước những khó khăn, thách thức và những yếu kém của nền kinh tế nước ta, đó là doanh nghiệp đang đứng trước rất nhiều khó khăn, hàng tồn kho lớn trong khi hàng hóa nhập lậu cũng còn nhiều. Doanh nghiệp khó vay vốn tín dụng ngân hàng, nợ xấu ngân hàng cao vẫn chưa giải quyết được. Thị trường bất động sản chưa phục hồi, tái cơ cấu kinh tế chỉ mới bắt đầu. Một số vấn đề xã hội như việc làm, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, an toàn vệ sinh thực phẩm chưa có chuyển biến căn bản. Hạ tầng giao thông còn nhiều yếu kém. 5/15 chỉ tiêu kinh tế - xã hội không đạt lại là 5 chỉ tiêu quyết định đến yếu tố phát triển bền vững của kinh tế - xã hội.
Đại biểu Quốc hội đề nghị Chính phủ tiếp tục chỉ đạo thực hiện các giải pháp đồng bộ, hiệu quả để tập trung điều hành những công việc còn lại từ nay đến cuối năm. Có biện pháp khắc phục nhanh, tháo gỡ những khó khăn, ách tắc của nền kinh tế, khôi phục ổn định và phát triển sản xuất, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, đa số đại biểu Quốc hội tán thành mục tiêu tổng quát và các chỉ tiêu chủ yếu của năm 2013 như Báo cáo của Chính phủ đã nêu.
Các đại biểu Quốc hội cho rằng năm 2013 còn rất nhiều khó khăn do đó việc tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, đề ra chỉ tiêu tăng trưởng khoảng 5,5% cao hơn năm 2012 và lạm phát thấp hơn là hợp lý. Đồng thời phải đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá, đó là đột phá về thể chế, về phát triển nguồn nhân lực, về phát triển cơ sở hạ tầng quan trọng của đất nước. Phải tạo ra sự chuyển biến rõ rệt của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Dù khó khăn thế nào thì mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước vẫn luôn là mục tiêu quan trọng, kiên trì để tạo ra nền tảng bền vững cho sự phát triển của đất nước những năm tiếp theo. Quốc hội đánh giá cao sự tiếp thu bước đầu của Chính phủ trong phiên thảo luận ở Hội trường về kinh tế - xã hội. Đề nghị Chính phủ tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội để phân tích, đánh giá sâu sắc thêm những nguyên nhân có hạn chế, nhất là nguyên nhân chủ quan. Những yếu kém tồn tại và đề ra các giải pháp phù hợp đúng và trúng nhằm giải quyết nhanh thực trạng khó khăn của nền kinh tế và những vấn đề búc xúc của xã hội. Tất cả những vấn đề thảo luận của Quốc hội về kinh tế - xã hội sẽ được tiếp thu nghiêm túc, nghiên cứu hoàn chỉnh dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 trình Quốc hội xem xét thông qua.
Kính thưa Quốc hội, phiên thảo luận về kinh tế - xã hội kết thúc tại đây. Xin cảm ơn các vị đại biểu khách quý, cảm ơn Quốc hội.

(Quốc hội nghỉ)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét