Ngô Bắc dịch
Lời Người
Dịch: “Chiến
dịch 1979, ít nhất đối với Quân Đội
Giải Phóng của Nhân Dân Trung Quốc, là một sự
thất bại. Trung Quốc đã phóng ra cuộc tấn
công của nó trong một nỗ lực để buộc
Việt Nam phải rút lui khỏi Căm Bốt. Trung
Quốc đã rút lui khỏi Việt Nam hôm 16 Tháng Ba, 1979,
nhưng Việt Nam đã không rời Căm Bốt mãi cho
đến năm 1989.” ….
“Cuộc
chiến tranh theo học thuyết họ Mao chưa dứt,
nhưng phía Trung Quốc đã học được
một bài học quan trọng.”
Trên đây là phần kết luận chắc
nịch của Edward C. ODow’d, một tác giả hàng
đầu về Chiến Tranh Biên Giới Trung Quốc –
Việt Nam Năm 1979, chủ đề của loạt bài
nghiên cứu dưới đây về biến cố quan
trọng diễn ra 33 năm trước. Đối
chiếu với bài học lịch sử lâu dài của
đất nước, rõ ràng vấn đề sinh tử
của dân tộc Việt Nam hiện nay là phải tìm
mọi cách đê duy trì được sự độc
lập và vẹn toàn lãnh thố, đồng thời thoát ra
khỏi sự lệ thuộc ngoại giao và quân sự
đáng tủi hổ đối với Trung Quốc.
11. Alexander Woodside
DÂN TỘC CHỦ NGHĨA VÀ
NẠN NGHÈO ĐÓI
TRONG SỰ TAN VỠ CÁC QUAN HỆ
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
Nationalism and poverty in the Breakdown
of Sino-Vie6namese Relations,
Pacific Affairs, Fall 1979,
các trang 381-409.
DÂN TỘC CHỦ NGHĨA VÀ
NẠN NGHÈO ĐÓI
TRONG SỰ TAN VỠ CÁC QUAN HỆ
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
Nationalism and poverty in the Breakdown
of Sino-Vie6namese Relations,
Pacific Affairs, Fall 1979,
các trang 381-409.
12. Dennis Duncanson
13. James Mulvenon
14. Andrew Scobell
15. William J. Duiker
16.
Bruce Burton
17.
Douglas E. Pike, Cộng Sản Đấu Cộng
Sản Tại Đông Nam Á (“Communism vs Communism in Southeast
Asia), International Security, Vol. 4, No. 1 (Summer, 1979), từ trang 20.
18.
Zhang Xiaoming, Chiến Tranh Năm 1979 Của Trung
Quốc Với Việt Nam: Một Sự Tái Thẩm
Định, (“China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment”), The
China Quarterly, các trang 851-874
19.
Daniel Tretiak, Chiến Tranh Việt Nam Của Trung
Quốc: Các Hậu Quả (“China’s Vietnam War and Its
Consequences”), The China Quarterly 80 (1979): 740-67.
20.
Henry J. Kenny, Các Nhận Thức Của Việt Nam
Về Cuộc Chiến Tranh Năm 1979 Với Trung Quốc
(“Vietnamese Perceptions of the 1979 War with China”), trong quyển Chinese
Warfighting: The PLA Experience since 1949, các trang 217-241,
đồng biên tập bởi Mark A. Ryan, David Michael
Frakelstein, Michael A. McDevitt.
21.
Phụ Lục: Các tài liệu của Quân Đội
Nhân Dân Giải Phóng của Trung Quốc về Chiến Tranh
Trung Quốc – Việt Nam năm 1979: Các báo cáo và kiểm
điểm của 13 đơn vị quân đội Trung
Quốc đã tham gia vào Chiến Dịch 1979 xâm lăng
Việt Nam.
Các
bài nghiên cứu quan trọng khác sẽ được
cập nhật khi cần thiết.
Bruce Burton
University of Windsor, Ontario, Canada
CÁC SỰ GIẢI THÍCH ĐỐI CHỌI
VỀ CUỘC CHIẾN TRANH
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM NĂM 1979
Ngô Bắc dịch
Đủ loại của các sự
giải thích đã sẵn được đưa ra bởi
các nhà phân tích để lý giải về cuộc xung đột
biên giới chua chát giao chiến giữa Trung Quốc và Việt
Nam hồi đầu năm nay. 1 Một số các
nhà bình luận đã nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của “các hận thù cổ xưa”, 2 trong
khi các người khác tin tưởng rằng chính sự
liên kết của Hà Nội với Liên Bang Sô Viết “đứng
trên mọi điều khác, đã làm cho các quan hệ Trung –
Việt trở nên chua chát. 3 Một số học
giả Mỹ được tường thuật đã
nhìn cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam
như một bước tiến chiến lược
‘để buộc Hà Nội phải di chuyển bộ
đội của nó tại Căm Bốt về các khu vực
biên giới của nó’, trong khi một số người
khác có vẻ gợi ý rằng đó là một mỗ lực
của Đặng Tiểu Bình để củng cố các
cảm nhận dân tộc chủ nghĩa tại Trung Quốc
đứng đàng sau sự lãnh đạo của ông ta. 4
Các viên chức Bộ Ngoại Giao Mỹ về phần họ
đã đề cập đến ‘ám ảnh lịch sử
của Trung Quốc về tính chất thiêng liêng của các
biên giới của nó”. 5 Phần lớn các nhà bình
luận đã nhìn cuộc di cư của các Hoa kiều hải
ngoại từ Việt Nam như một yếu tố trợ
lực quan trọng trong cuộc xung đột. Một nhà
phân tích Tây Phương đặt tiêu điểm vào các mệnh
lệnh chiến lược đối nghịch của Việt
Nam và Trung Quốc, 6 trong khi các sự giải thích
chính thức từ cả Hà Nội lẫn Bắc Kinh đều
tách riêng chủ nghĩa bá quyền và chính sách bành trướng
của bên kia như các yếu tố chủ yếu.
Điều không có gì đáng ngạc
nhiên là chúng ta đã được giới thiệu với
một loạt các sự giải thích như thế. Các vấn
đề can hệ trong cuộc xung đột Trung – Việt
thì nhiều và phức tạp. Thực tế, tất cả
các sự giải thích này, và các sự giải thích khác
chưa được nói đến, đều có thể được
khám phá là có một vài sự liên quan. Vấn đề
đối đầu với nhà phân tích tương lai
dĩ nhiên là việc xác định đâu là các sự giải
thích quan hệ nhất. Vấn đề hoàn toàn bình
thường đó bị làm trầm trọng hơn trong
trường hợp này bởi sự cận kề về
thời gian đối với các biến cố trong câu hỏi
và bởi sự khan hiếm các sự phân tích về các quan
hệ Trung – Việt thời hậu 1949. 7 Nhiều
khía cạnh của mối quan hệ đó vẫn chưa
được khảo sát một cách thích đáng. Nỗ lực
sau đây để tìm ra một lối đi xuyên qua “bụi
cây các lý thuyết” đặc biệt này vì thế nhất
định có tinh chất khá thử nghiệm.
Một cách để tìm ra lối
đi đáng tin cậy hơn là khởi sự với việc
cố gắng đặt câu hỏi cho đúng. Phần lớn
các nhà phân tích đến nay khảo sát cuộc xung đột
đã khởi sự bằng việc đặt câu hỏi
“tại sao Trung Quốc đã xâm lăng (hay tấn công) Việt
Nam?” Lối dùng chữ trong câu hỏi này quá một chiều
và nhắm một cách chật hẹp vào các động lực
khả hữu của một trong các bên của cuộc
tranh chấp. 8 Hơn một bên dính líu vào sự
giao tranh và nhiều động lực hơn cần
được xem xét khi điều tra về các nguyên do của
bất kỳ cuộc xung đột nào. “Tại sao cuộc
xung đột đã xảy ra?” xem ra sẽ là một câu hỏi
thỏa đáng hơn câu “tại sao bên X (hay Y) đã làm
điều này điều kia? Bài viết này vì thế sẽ
chấp nhận khảo hướng rộng rãi hơn và sẽ
theo đuổi câu hỏi “Tại sao cuộc chiến tranh
Trung – Việt đã diễn ra?” Từng lý thuyết khác nhau
đến nay đưa ra để giải thích cho cuộc
chiến sẽ được khảo sát một cách ngắn
gọn.nhằm lượng định tầm quan hệ của
nó. Các yếu tố liên hệ tiềm năng khác cũng sẽ
được cứu xét. Sau cùng, kết quả của cuộc
chiến tranh sẽ được khảo sát và các viễn
ảnh tương lai sẽ được thăm dò.
HAI NGHÌN NĂM CỦA
CÁC QUAN HỆ BẤT THÂN THIỆN?
Đối với một trường
phái của các nhà phân tích, cuộc xung đột hiện thời
giữa Trung Quốc và Việt Nam cấu thành một sự
quay trở lại quy phạm bình thường trong các quan hệ
song phương của chúng. Sự cộng tác của chúng
trong cuộc đấu tranh ba mươi năm của Việt
Nam trước tiên chống lại chủ nghĩa thực
dân Pháp và sau này chống lại người Mỹ
được nhìn chỉ như một màn xen giữa ngắn
ngủi trong hai nghìn năm của các quan hệ bất thân
thiện. Sau khi các kẻ thù ngoại lai chung đã bị
trục xuất ra khỏi Đông Dương, sự thù nghịch
truyền tgống một lần nữa đã tự khẳng
định.
Thoạt nhìn, sự giải thích này
xem ra có được nhiều điều để khuyến
cáo nó. Mối quan hệ truyền thống được
đánh dấu bởi sự căng thẳng và xung đột
đáng kể. Từ thế kỷ thứ nhì Trước
Công Nguyên cho đến thế kỷ thứ mười Sau
Công Nguyên, miền bắc Việt Nam cấu thành một phần
của đế quốc Trung Hoa và trong suốt thời kỳ
này đã có các cuộc khởi nghĩa thường xuyên chống
lại sự cai trị của Trung Quốc. Nổi tiếng
nhất trong các cuộc khởi nghĩa này, cuộc nổi
dậy của chị em Bà Trưng trong năm 40 Sau Công
Nguyên, vẫn còn được kỷ niệm một cách
hãnh diện tại Việt Nam ngày nay. Trong năm 930 Sau Công
Nguyên, tình trạng vô chính phủ theo sau sự sụp đổ
của triều đại Đường tại Trung Hoa
đã giúp cho Ngô Quyền, một anh hùng dân tộc Việt
Nam khác, kết thúc sự cai trị trực tiếp của
Trung Hoa, mặc dù phía Việt Nam vẫn phải đồng
ý nhìn nhận quyền “chủ tể” của Trung Hoa và cử
các phái bộ triều cống ba năm một lần đến
các hoàng đế Trung Hoa. Tuy nhiên, các nhà cầm quyền
đế quốc Trung Hoa sau đó đã miễn cưỡng
chuẩn nhận sự độc lập thường trực
cho Việt Nam và như thế nền độc lập này
trong nhiều dịp đã phải được bảo vệ
trên chiến trường.
Trong năm 1406, dười thời
nhà Minh, Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam bằng
vũ lực và một lần nữa tái lập Việt Nam
thành một tỉnh của Trung Quốc. Cuộc kháng chiến
của dân chúng chống lại sự cai trị của
Trung Quốc đã lớn mạnh một cách mau chóng và một
nhà lãnh đạo thần thoại khác, Lê Lợi, đã xuất
hiện để phóng ra cuộc chiến tranh du kích thắng
lợi chống lại quân xâm nhập và buộc chúng phải
triệt thoái trong năm 1427. Song một lực lượng
viễn chinh Trung Quốc quan trọng khác, sau cùng trước
khi có các cuộc xâm lăng của Pháp trong thế kỷ thứ
mười chín, đã bị đánh bại trong năm
1789. Sự chiếm đóng quân sự gần đây nhất
của Trung Hoa ở miền bắc Việt Nam là bởi một
lực lượng Quốc Dân Đảng [Trung Hoa] và kéo
dài từ Tháng Tám 1945 đến Tháng Ba 1946. Mặc dù sự
xâm nhập này được quy định bởi các nước
thuộc phe đồng minh ở Hội Nghị Postdam như
một bộ phận của tiến trình giám sát sự
đầu hàng của Nhật Bản tại Đông Nam Á,
nó được chứng tỏ là cực kỳ thất
nhân tâm đối với người Việt Nam bởi sự
cướp bóc và nhũng lạm của đội quân Trung
Hoa vô kỷ luật. 10
Tuy nhiên, bất kể
trọng lượng bề ngoài của bằng chứng
thuận lợi cho nó, lý thuyết “sự thù địch
truyền thống” của cuộc Chiến Tranh Trung – Việt
có thể bị cáo tị (challenge) trên một số căn
bản.
Trước tiên, lịch sử lâu
dài của các quan hệ Trung – Việt không chỉ là một
tài liệu về sự xung đột. Thực ra, một
đặc điểm chính yếu của mối quan hệ
truyền thống là “sự vay mượn văn hóa một
cách có hệ thống liên tục của Việt Nam từ
Trung Quốc”. 11 Ngôn ngữ, văn chương, tôn
giáo, cùng sự tổ chức xã hội và chính trị Việt
Nam đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi
mô hình Trung Quốc. Hậu quả, sự yêu ghét lẫn lộn
hơn là sự thù nghịch hoàn toàn đã đánh dấu các
thái độ của họ đối với nhau. Các sự
bất mãn của phía Việt Nam về sự đô hộ
của Trung Quốc trong quá khứ và các nỗi lo sợ
cùng nghi ngờ về các ý định tương lai của
Trung Quốc bị biến cải bởi sự ngưỡng
mộ và tôn trọng đối với các thành quả của
nền văn minh Trung Hoa. Các quan ngại của Trung Quốc
về an ninh các biên giới phía nam của đế quốc
ít nhất cũng được giảm nhẹ một phần
bởi sự hán hóa đáng kể của xã hội và chính
thể Việt Nam.
Thứ nhì, nếu “các sự oán thù
cổ đại” đương nhiên mang tới sự
xung đột lan dần đến thời hiện đại,
như trường phái tư tưởng này rõ ràng lập
luận, hệ thống quốc tế đương thời
hẳn phải đựoc biểu trưng bởi một
mức độ bạo động cao hơn nhiều so với
mức độ thực sự. Lý thuyết này không giải
thích được, thí dụ, thành tố mạnh mẽ của
sự hợp tác sẽ được tìm thấy trong các
quan hệ Pháp – Đức hiện thời.
Thứ ba, mặc dù các sự hồi
tưởng về các cuộc xâm lăng và sự đô hộ
trong quá khứ xa xôi chắc chắn có thể ảnh hưởng
đến các thái độ của giới tinh hoa và quần
chúng, đặc biệt nếu các nhóm cai trị lựa chọn
việc khích động chúng, chúng nhiều phần thường
có ít ảnh hưởng trên các thái độ này so với
ký ức tập thể của các biến cố lịch sự
gần cận hơn. Điều này đặc biệt
xác thực về các biến cố xảy ra trong hay ngay trước
sinh thời của giới lãnh đạo chính trị hiện
thời. 12 Bản chất của mối quan hệ
thịnh hành giữa Trung Quốc và Việt Nam trong thế
kỷ thứ hai mươi, đặc biệt giữa phe
cộng sản Trung Quốc và cộng sản Việt Nam
trong năm mươi năm qua, nhiều phần đóng một
vai trò chủ yếu hơn trong sự định hình các
thái độ và cách cư xử hiện thời đối
với nhau, hơn là sự đụng độ vũ
trang xa xăm trên các chiến trường cổ đại.
NĂM MƯƠI NĂM CỦA CÁC QUAN HỆ
ANH EM?
Mặc dù phải đợi mãi tới
Tháng Một 1930 Đảng Cộng Sản Việt Nam
(ĐCSVN) mới được thành lập tại Hồng
Kông, 13 phong trào cộng sản Việt Nam thực sự
đã có các cội nguồn của nó năm năm trước
đó tại Quảng Châu (Canton). Trong năm 1925, Hồ Chí
Minh, khi đó làm việc dưới Mikhail Borodin trong phái bộ
đại diện Comintern (Đệ Tam Quốc Tế Cộng
Sản) cạnh Guomindang (Quốc Dân Đảng Trung Hoa),
đã thành lập Đoàn Thanh Niên Cộng Sản trong khuôn
khổ của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Hội
(Vietnamese Association of Revolutionary Youth) mà ông ta đã tạo dựng
trong số người tỵ nạn Việt Nam tại miền
nam Trung Hoa. 14 Từ khởi đầu của nó,
phong trào cộng sản Việt Nam có các sự liên kết
chặt chẽ với đảng [CS] Trung Quốc và với
khối Comintern. Điều này hoàn toàn dễ hiểu, với
các lãnh tụ của hai phong trào bị lôi cuốn theo chủ
nghĩa cộng sản vì các nguyên do giống nhau và rằng
họ đã đối diện với các công tác cách mạng
và xây dựng quốc gia giống nhau trong các khung cảnh
văn hóa – xã hội giống nhau. 15
Sự gần cận địa
dư cũng có nghĩa rằng nhiều lãnh tụ cộng
sản ngoài Hồ chí Minh – các người chẳng hạn
như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, và Hoàng Văn
Hoan – đã tìm chỗ ẩn náu tại Trung Hoa trong các thập
niên 1930 và 1940, và rằng trong suốt các cuộc đấu
tranh sau này chống lại người Pháp và người Mỹ,
lãnh thổ Trung Quốc đã có thể phục vụ
như một “hậu phương đáng tin cậy” cho nỗ
lực chiến tranh của Việt Nam. Băng ngang qua biên
giới chung, đã tuôn trào điều mà mọi giới thẩm
quyền đều đồng ý là các khối lượng
quảng đại của sự trợ giúp kinh tế và
quân sự của Trung Quốc. Các số ước lượng
của Tây Phương về trị giá thực sự của
viện trợ của Trung Quốc cho [cộng sản] Việt
Nam từ 10 đến 18 tỷ [mỹ kím, 16
nhưng bất kể ngạch số thực sự là bao
nhiêu, ít có điều ngờ vực rằng Việt Nam
đã là kẻ tiếp nhận cá biệt nhiều nhất
viện trợ của Trung Quốc.
Ngoài ra, phía Trung Quốc đã bố
trí một lực lượng khá lớn các bộ đội
tại Việt Nam trong các năm từ 1965 đến 1971.
Kỹ sư Trung Quốc và các tiểu đoàn xây dựng đường
sắt và các toán nhân viên phòng không đã trợ lực vào việc
giữ các tuyến giao thông được mở sang đến
Trung Quốc bất kể việc dội bom nặng nề
của Mỹ và các sự tổn thất đáng kể.
Xem ra có thể sự hiện diện của các bộ
đội này đã góp phần vào việc gián chỉ một
sự xâm lăng trực tiếp của Hoa Kỳ vào Miền
Bắc Việt Nam. 17
Với bối cảnh của sự
cộng tác chặt chẽ và sự trợ giúp to lớn của
Trung Quốc, tại sao các quan hệ đã trở nên tồi
tệ một cách rõ rệt đến thế kể từ
sau chuỗi ngày hoan lạc cuối Tháng Tư 1975, khi các nhà
lãnh đạo Trung Quốc đã gửi đến phía Việt
Nam một thông điệp với” “lời chúc mừng nồng
nhiệt” trên việc “giải phóng” Sàigòn? 18 Phần
lớn câu trả lời sẽ được tìm thấy
trong các sự phát triển sau đó cả trong các quan hệ
song phương lẫn trong các môi trường quốc tế
và quốc nội của hai nước, nhưng một phần
đáng kể của nó nằm nơi các sức ép và sự
căng thẳng đã sẵn làm suy yếu liên minh anh em từ
lâu, trước năm 1975. Phía Việt Nam thừa nhận
rằng họ đã nhận được sự trợ
giúp đáng kể từ Trung Quốc, nhưng họ lập
luận rằng họ đang chiến đấu nhân danh
Trung Quốc cũng như chính họ và rằng sự viện
trợ như thế không gì khác hơn nghĩa vụ của
Trung Quốc. Ngoài ra giờ đây họ nói rằng phần
lớn khoản viện trợ như thế đã
được trao với các động lực có hậu
ý và tuyên xác rằng các căn nguyên của sự xung đột
của họ với Trung Quốc lùi xa mãi đến tận
năm 1954, vào thời điểm của Cuộc Hội
Nghị Geneva, nơi mà phía Trung Quốc bị cáo giác đã
theo đuổi một chính sách tán thành sự chia cắt Việt
Nam và Lào sao cho sẽ tạo thuận lợi hơn để
lôi kéo các dân tộc Đông Dương vào quỹ đạo
của chính Trung Quốc. 19 Phía Trung Quốc về
phần mình hiện tại cho rằng, ít nhất trên mặt
công khai, nhật kỳ khởi đầu các hành động
chống Trung Quốc của Việt Nam không lùi xa hơn
năm 1973 hay 1974.
Không có gì nghi ngờ cả hai vai
chính đã có lý do khẩu chiến vững chắc cho việc
tuyển chọn các hạn kỳ lần lượt của
họ, nhưng phần lớn các quan sát viên bên ngoài sẽ ấn
định các niên hạn “then chốt” trong sự triệt
hạ liên minh nằm đâu đó trong các năm từ 1954
đến 1973. Chắc chắn vào giữa thập niên 1960
các sức ép đã dần được nhận thấy bởi
các nhà phân tích bên ngoài phe xã hội chủ nghĩa đang bị
rạn nứt. Hà Nội rõ ràng bị thất vọng vào
năm 1965 khi Bắc Kinh bác bỏ đề nghị của
giới lãnh đạo Sô Viết mới cho “hành động
thống nhất” về Việt Nam, và không hài lòng về sự
gián đoạn trào lượng tiếp tế của đồ
tiếp liệu của Sô Viết xuyên qua Trung Quốc trong
suốt cuộc Cách Mạng Văn Hóa.
Tuy nhiên, khi nhìn lại, điều
có thể tranh luận khả dĩ chấp nhận được
rằng một số sự phát triển nào đó xảy
ra trong năm 1968 và 1971 thực sự có tính cách quan yếu
cho diến biến tương lai của mối quan hệ.
Cuộc xâm lăng của Sô Viết vào Tiệp Khắc
trong Tháng Tám 1968 đã có một tác động làm chấn
thương đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc.
20 Họ nhìn đó như một bằng chứng
kinh hoàng rằng các nhà lãnh đạo Sô Viết giờ
đây đã trở thành các kẻ “đế quốc chủ
nghĩa xã hội”, và họ lo sợ rằng Moscow có thể
tìm cách cưỡng hành học thuyết “chủ quyền hạn
chê’ của nó tại Trung Quốc cũng như tại
Đông Âu. Họ hẳn phải bàng hoàng một cách nặng
nề bởi sự ủng hộ công khai của Hà Nội
cho hành động của Sô Viết. Đối với Việt
Nam, lời mời được đưa ra bởi Bắc
Kinh đến [Tổng Thống] Richard Nixon hồi Tháng Bảy
1971hẳn xem ra không thể tha thứ được một
cách tương đương, đã xảy ra khi Việt
Nam vẫn còn đang tham gia vào một cuộc đấu
tranh đắt giá với chủ nghĩa đế quốc
Hoa Kỳ. Với Hà Nội, Hoa Kỳ không có gì phải
tranh luận là kẻ thù chính và Liên Bang Sô Viết là một nước
thân hữu chính. Tuy nhiên, đối với tập đoàn
cai trị Mao-Chu tại Bắc Kinh, Liên Bang Sô Viết vào giữa
năm 1971 rõ ràng đã xuất hiện như kẻ thù chính
và Hoa Kỳ đã trở nên một đối lực tiềm
năng để cân bằng mối đe dọa dâng cao từ
phương bắc.
Trong khi Trung Quốc tiếp tục
gửi sự trợ giúp đáng kể cho Việt Nam mãi tận
và ngay sau năm 1975, các sự nứt rạn trong liên minh Hà
Nội – Bắc Kinh đã mau chóng lan rộng hồi đầu
thập niên 1970 dưới tác động của các thái
độ và các chính sách khác biệt này đối với
hai siêu cường. Hơn nữa, các sự khác biệt
này đối với các siêu cường đã trở nên trầm
trọng hơn nhiều, ngay cả trước Tháng Tư
1975 bởi các cuộc tranh chấp biên giới và lãnh thổ.
MỘT CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI
HƯ ẢO?
Sự hiểu biết theo quy ước
cho rằng các sự khác biệt lãnh thổ và biên giới
không có hay chỉ có ít ý nghĩa trong việc giải thích Cuộc
Chiến Tranh Trung – Việt. Một nhà phân tích đáng kính
trọng đã mô tả nó như một “cuộc chiến
tranh biên giới ‘hoàn toàn hư áo” và trích dẫn một cách
tán đồng từ một nguồn tin Cơ Quan Tình Báo
Trung Ương (Central Intelligence Agency: CIA) không xác định
có khẳng quyết rằng toàn thể ranh giới đất
liền “đã được phân định và không có sự
tranh chấp lãnh thổ được hay biết đã hiện
hữu”. 21
Chắc chắn, các sự tranh chấp
lãnh thổ và biên giới tự bản thân chúng không đủ
để giải thích sự bộc phát của chiến
tranh, nhưng bằng cớ khả cung một cách tổng
quát khiến ta nghĩ rằng đúng là đang đi quá xa
để xác quyết rằng các sự tranh chấp này
không có nội dung thực sự và đã bị tạo lập
ra một cách giả trá. Mặc dù toàn thể biên giới của
Trung Quốc với Việt Nam và Lào rõ ràng đã được
phân định trong hiệp ước năm 1885 và các
định ước năm 1887 và 1895 giữa Pháp và Trung
Hoa, tiến trình phân ranh hỗn hợp kế tiếp trên
đất liền không có vẻ được tiến
hành một cách thông suốt như nó phải diễn ra trên
khắp các phần của ranh giới. Có một số bằng
chứng để nghĩ rằng trong suốt bốn
mươi năm vừa qua của chiến tranh hầu
như thường trực, có đến hàng trăm cột
mốc biên giới dựng lên trong thập niên 1890 đã bị
di chuyển khỏi các vị trí nguyên thủy của chúng. 22
Chính vì thế rất có thể là nhiều phần đất
nhỏ dọc biên giới nơi mà quyền sở hữu
hợp pháp thì thực sự đáng nghi ngờ.
Bất kể quan
điểm mà người bên ngoài có thể có, cả phía Việt
Nam lẫn Trung Quốc đều xem các vấn đề
biên giới và lãnh thổ như các vấn đề có tầm
quan trọng lớn lao. Trong cuộc đấu khẩu
chính thức của họ, hai phía đều đồng ý
rằng các biến cố dọc biên giới đất liền
đã bắt đầu diễn ra với số lượng
đáng kể ngay từ năm 1974. Cả hai bên cũng
đồng ý rằng con số các biến cố như thế
đã gia tăng một cách rõ rệt trong những năm tiếp
theo. 23
Sự tranh chấp trên
quyền sở hữu của một số đảo và hải
phận nào đó tại Biển Nam Hải [sic] trở nên
công khai trong năm 1974. Vào ngày 19 Tháng Một năm đó,
các lực lượng Trung Quốc đã chiếm giữ quyền
kiểm soát trên Quần Đảo Paracel (Hoàng Sa) 24
từ các binh sĩ của chế độ Sàigòn trước
đây, một hành động phải được nhìn bởi
Hà Nội như được cố tình thiết kế hầu
chặn đầu sự tuyên xác của chính Việt Nam
đối với các hòn đảo và rất có thể làm
gia tốc hàng loạt gia tăng các biến cố dọc
theo biên giới chung trên đất liền. Chắc chắn
phía Việt Nam tìm cách bảo đảm rằng trong Tháng
Tư 1975 chính họ chiếm quyền sở hữu trên các
hòn đảo thuộc Quần Đảo Trường Sa (Spartly)
bị tranh chấp 25 khi đó đang bị
đóng giữ bởi các binh sĩ của chế độ
Sàigòn.
Cả hai nhóm đảo
đều sở đắc tầm quan trọng chiến
lược bởi vì nhiều đường vận tải
tàu thuyền quốc tế đi ngang qua Biển Nam Hải.
Trị giá kinh tế tương lai của chúng cũng có thể
đáng kể bởi sự sở hữu chúng có thể
đem lại năng lực cho các kẻ chiêm cứ để
tuyên xác như các lãnh hải hay như các khu vực tài nguyên
kinh tế rộng 200 dậm chiếm lĩnh các phần rộng
lớn của Biển Nam Hải. Tầm mức của dầu
hỏa và các nguồn tài nguyên khoáng sản tại lòng biển
bên dưới chưa được hay biết nhung cả
các công ty dầu hỏa quốc tế và của các chính phủ
Trung Quốc và Việt Nam đang hăng hái để xúc tiến
với việc thăm dò. Tương tự các sự tìm kiếm
cạnh tranh về các lượng cung cấp dầu hỏa
ngoài khơi tại Vịnh Bắc Bộ chưa được
phân định [bài này viết từ năm 1979, chú của
người dịch] 26 góp phần vào việc giải
thích mực độ căng thẳng lên cao đang hoành
hành giữa Hà Nội và Bắc Kinh về tương lai của
khu vực biển cả đặc biệt đó. Các quyền
lợi kinh tế và chiến lược của Trung Quốc
và Việt Nam đụng chạm nhau trên thực sự toàn
thể phạm vi của Biển Nam Hải, và cuộc
đụng chạm này không thể hoàn toàn không liên hệ gì
đến sự bùng nổ chiến tranh giữa hai nước.
VẤN ĐỀ HOA KIỀU HẢI NGOẠI
Một yếu tố chắc chắn
đã làm bốc cháy các sự căng thẳng dọc biên giới
là cuộc di cư lớn lao các cư dân Việt Nam có nguồn
gốc Trung Hoa từ bắc Việt Nam trong năm 1978. 27
Hơn 160,000 người tỵ nạn Trung Hoa băng sang
Trung Quốc giữa Tháng Tư và đầu Tháng Bẩy khi
Bắc Kinh đưa ra các quy định nhập cảnh mới,
trong thực tế đóng cửa các địa điểm
trên biên giới. Trong các tuần lễ tiếp theo sau, hàng
nghìn dân tỵ nạn Trung Hoa bị bỏ bơ vơ tại
biên giới và một loạt các sự đụng độ
nóng bỏng đã diễn ra tại các điểm qua lại.
Nghiêm trọng nhất là cuộc đụng độ ngày
25 Tháng Tám tại Ải Hữu Nghị, nơi mà các binh
sĩ Trung Quốc và Việt Nam đã giao tranh một trận
đánh nhỏ đáng sợ sau khi các nhân viên an ninh Việt
Nam bị cáo giác đã xua đuổi 2000 người gốc
Hoa tràn qua biên giới sang Trung Quốc.
Các nguyên do của cuộc di cư
đông đảo vẫn còn là đề tài của cuộc
đấu khẩu chua chát giữa Bắc Kinh và Hà Nội.
Phia Trung Quốc cáo buộc Việt Nam đã ngược
đãi và trục xuất các Hoa kiều hải ngoại. Hà
Nội buộc tội rằng một số cư dân gộc
Hoa nào đó với “một ý định xấu xa” và một
số viên chức tòa đại sứ Trung Quốc nào
đó phải chịu trách nhiệm về việc loan truyền
các tin đồn gây hoang mang một cách tổng quát rằng
cộng đồng người Hoa tại Việt Nam sẽ
trở thành mục tiêu của các sự trả thù của Việt
Nam vì sự ủng hộ của Bắc Kinh dành cho chế
độ Pol Pot trong cuộc giao tranh khi đó đang xảy
ra giữa Việt Nam và Kampuchea.
Trước khi có cuộc di cư ồ
ạt, Việt Nam đã có trong khoảng từ 1.5 đến
1.8 triệu cư dân gốc Trung Hoa. Một số trong họ
là công dân Trung Quốc và một số là công dân Việt Nam,
nhưng tin tức về các tỷ số thuộc mỗi
loại thì sơ sài. Hơn 80% trong họ sinh sống tại
miền nam và nơi tập trung đông nhất là tại Chợ
Lớn, vốn là một phần của thành phố Sàigòn trước
đây. Thiểu số các doanh nhân giàu có trong họ rõ ràng vẫn
còn kiểm soát phần lớn nội thương của xứ
sở vào đầu năm 1978, ngay dù đã vài năm sau khi
có sự cai trị của cộng sản. Trong năm 1975,
1976, và 1977, Hà Nội, không tham khảo với Trung Quốc,
như đòi hỏi trong một sự thỏa thuận
dường như bằng miệng năm 1955, đã thực
hiện các áp lực gia tăng trên các cư dân Trung Hoa, buộc
phải đăng ký làm công dân Vi8ệt nam.
Khi cuộc giao tranh giữa Việt
Nam và Kampuchea gia tăng cường độ trong năm
1977 và 1978, sự ủng hộ của Trung Quốc cho chế
độ Kampuchea và sự tức giận của Hà Nội
trước sự ủng hộ đó cũng gia tăng
theo. Cảm thức chống Trung Quốc tăng trưởng,
các chiến thắng của Việt Nam trước quân xâm
lăng Trung Hoa trong quá khứ càng được kỷ niệm
một cách nồng nhiệt trong truyền thông và trên diễn
trường, và người Việt gốc Hoa càng trở
nên lo sợ. Tại một cuộc biểu tình mà các thanh
niên gốc Hoa mở ra tại Chợ Lớn trong Tháng Ba
1978 để phản đối chống lại sự
trưng binh họ cho cuộc chiến tranh chống lại
Kampuchea và để đòi hỏi quyền được
xác nhận tư cách công dân Trung Quốc, vào khoảng mười
kẻ biểu tình được tường thuật
đã bị giết chết khi cảnh sát nổ súng. 28
Các sự thiếu hụt lúa gạo
gia tăng tại Việt Nam trong năm 1977 và 1978 đã dẫn
dắt đến một sự leo thang mau lẹ của
các giá cả chợ đen và của sự thù nghịch nhắm
vào các nhà mậu dịch chính yếu có gốc Hoa, các kẻ
kiểm soát thị trường đó. Trong Tháng Ba 1978,
đảng đã quyết định đàn áp dữ dội
tại miền nam và quốc hữu hóa tất cả các
doanh nghiệp tư nhân ngoại trừ một số các cửa
hiệu mua bán nhỏ. Những kẻ trở nên bị thất
nghiệp bởi biện pháp này bị bắt buộc rời
khỏi các thành phố đên “các vùng kinh tế mới” ở
các khu vực nông thôn. Nhiều người ưa thích việc
chạy trốn ra khỏi xứ sở.
Thời khắc nguy kịch trong số
phận của công đồng Hoa kiều hải ngoại
tại Việt Nam đã xảy đến vào lúc khi Bắc
Kinh tích cực tìm cách sửa chữa các quan hệ của
nó với Hoa kiều hải ngoại ở mọi noi, các
quan hệ vốn bị tổn hại một cách nặng
nề trong Cuộc Cách Mạng Văn Hóa và hậu thời
của nó. Một số tổ chức “mặt trận thống
nhất” nào đó đặc biệt quan tâm đến công
tác Hoa kiều hải ngoại đã được phục
hồi vào đầu năm 1978, chắc chắn với hy
vọng cùng với các sự việc khác nhằm nâng cao các
sự đóng góp ngoại tệ từ nguồn lực đó
cho chương trình hiện đại hóa. Điều này
có nghĩa rằng phía Trung Quốc đặc biệt “nhạy
cảm về nỗi thống khổ của Hoa kiều hải
ngoại tại Việt Nam và đến các hàm ý cuộc khủng
hoảng có thể có đối với các Hoa kiều hải
ngoại ở các nơi khác tại Đông Nam Á và các quan hệ
của Trung Quốc với các chính quyền địa
phương”. 29
Vào đầu Tháng Năm 1978, phía
Trung Quốc có loan báo rằng họ sẽ cắt giảm viện
trợ của họ cho Việt Nam hầu đáp ứng
các phí tổn của việc tái định cư hàng chục
nghìn Hoa kiều hải ngoại đã sẵn bị “trục
xuất” bởi Hà Nội. Vào ngày 3 Tháng Bẩy, chỉ bốn
ngày sau sự thu nhận Việt Nam hôm 29 Tháng sáu vào Hội
Đồng Tương Trợ Kinh Tế (Council of Mutual
Economic Assistance: CMEA hay Comecon) do Sô Viết chế ngự, Bắc
Kinh thông báo cho Hà Nội rằng nó chấm dứt tất cả
sự viện trợ của Trung Quốc và triệu hồi
tất cả các nhân viên kỹ thuật của nó bởi vì
các hoạt động chống Trung Quốc và sự loại
trừ các cư dân gốc Hoa của Việt Nam. Trong sự
phúc đáp của mình hôm 6 Tháng Bảy, Hà Nội than phiền
về việc Bắc Kinh có “một loạt các hành vi chống
lại Việt Nam” và “thường xuyên cung cấp sự ủng
hộ mọi mặt” cho nhà chức trách Kampuchea “để
thực hiện một cuộc chiến tranh xâm lược”
như một phần của một ý đồ đã tính
toán trước … nhằm ép buộc Việt Nam phải từ
bỏ đường lối đứng đắn của
nó về sự độc lập, chủ quyền và liên
đới quốc tế”. 30
Vấn đề Hoa kiều hải
ngoại đã trở nên dính mắc một cách rối rắm
với một vấn đề còn gây phân hóa hơn nữa
– cuộc xung đột của Việt Nam với Kampuchea.
CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM –
KAMPUCHEA
Trong quan điểm của ít nhất
một giới chức thẩm quyền, chính cuộc giao
tranh giữa Việt Nam và Kampuchea, trong đó Trung Quốc trở
nên dính líu một. cách sâu xa, “đã là yếu tố
đơn độc quan trọng nhất trong việc nâng
các quan hệ Trung – Việt đến điểm khủng
hoảng”. 31 Ngay dù các nhà phân tích khác có thể ngần
ngại để mô tả nó như yếu tố
“đơn độc” quan trọng nhất, chắc chắn
họ sẽ đồng ý rằng đó là một yếu tố
rất quan trọng.
Các vấn đề liên can đến
cuộc xung đột Kampuchea – Việt Nam thì quá phức tạp
cho hơn một sự đề cập thoáng qua ở
đây. 32 Phủ chùm lên trên sự đối nghịch
lịch sử trước đây giữa một Việt
Nam mở rộng và một Căm Bốt thu nhỏ trong một
thời kỳ trước khi có sự chinh phục của
người Pháp là các kinh nghiệm phân biệt dưới
sự cai trị của thuộc dân Pháp. Khi đó một lần
nữa, các đảng cộng sản Kampuchea và Việt Nam
đối đầu với các kẻ thù khác nhau trong cuộc
đấu tranh giành quyền lực của họ. Việt
Nam chiến đấu chống lại một kẻ địch
ngoại quốc trong khi Kampuchea đánh với “một chế
độ tân thực dân nhưng có tính chất bản xứ”.
33 Chính vì thế họ đã phát triển các mô hình
cách mạng khác biệt để đối phó với các
tình hình khác nhau, nhưng cùng lúc cả hai đảng đều
phải kêu gọi mạnh mẽ đến các cảm thức
dân tộc chủ nghĩa của nhân dân riêng của họ.
Vào lúc phe cộng sản Kampuchea
thành công trong việc lật đổ chế độ Lon
Nol hồi Tháng Tư 1975, họ không ở trong tâm trạng
để chấp nhận sự ám chỉ nhẹ nhàng nhất
của bất kỳ sự phục hồi nào ý niệm về
một liên bang Đông Dương vốn được
phát huy bởi đảng Cộng sản Đông Dương
lùi về thập niên 1930. 34 Họ đã bác bỏ
tất cả các sự thúc giục của Việt Nam để
gia nhập vào một “mối quan hệ đặc biệt”
với Việt Nam bởi họ lo sợ sự chấp nhận
một mối quan hệ như thế có nghĩa từ bỏ
sự độc lập dân tộc khó khăn mới giành
thắng được của mình. Trong việc chấp
nhận lập trường này, họ đã nhận được
sự ủng hộ và cổ vũ mạnh mẽ của Bắc
Kinh, nơi mà từ đầu thập niên 1970 đã lo ngại
về một khả tính của Đông Dương thời
hậu chiến bị thống trị bởi một Việt
Nam ngày càng đứng vào hàng ngũ cùng với chủ
nghĩa đế quốc xã hội Sô Viết. 35
Sau khi Hà Nội cắt đứt viện trợ của nó
cho Kampuchea tiếp theo sau Hiệp Định Paris 1973, chính Trung
Quốc đã bước vào khoảng trống và đã cung
cấp cho phe Khmer Đỏ các vũ khí mà họ cần thiết
để hoàn tất sự lật đổ chế độ
của Lon Nol. 36 Sự trợ giúp kinh tế và quân
sự Trung Quốc tiếp tục sau khi có sự sụp
đổ của chế độ đó và số lượng
đã gia tăng khi việc giao tranh giữa Việt Nam và
Kampuchea gia tăng và sự trợ giúp của Sô Viết cho Việt
Nam cũng tăng theo.
Như hơn một tác giả
đã vạch ra, các mệnh lệnh chiến lược của
Trung Quốc và Việt Nam đã đụng độ nhau một
cách dữ dội tại Đông Dương. 37
Để bảo toàn sự kiểm soát của trên miền
nam mới được “giải phóng”, Hà Nội đã cần
có một Kampuchea thân thiện và nhu thuận. Thay vào đó
nó thấy mình tham dự vào các cuộc xung đột lãnh thổ
tốn kém với một chế độ Pol Pot rất thù
hận do Trung Quốc trợ giúp và xúi bẩy, và các cuộc
xung đột này đang xoi mòn sức mạnh kinh tế của
nó và triệt hạ các nỗ lực của nó nhằm củng
cố và tái xây dựng miền nam.
Phía Trung Quốc, quan tâm như thường
xuyên về an ninh biên cương phía nam của họ, hy vọng
có các chế độ thừa kế thân hữu và độc
lập (với Moscow) khắp cõi Đông Dương. Thay
vào đó họ thấy mình tham gia vào một sự tranh
giành gia tăng với một Việt Nam hùng mạnh về
quân sự, dường như chắc chắn có ý định
mở rộng bá quyền của nó trên Kampuchea cũng
như Lào. Điều tệ hại hơn, theo quan điểm
của Bắc Kinh, là quốc gia quân phiệt, bành trướng
này ngày càng thắt chặt hơn bao giờ hết vào hàng
ngũ của một trong hai siêu cường “nguy hiểm
hơn”. Khi Hà Nội dựng lên chế độ bù nhìn của
riêng nó tại Phnom Penh hôm 7 Tháng Một 1979, hai tuần lễ
sau khi phóng ra một cuộc xâm lăng toàn diện vào
Kampuchea, hai tháng sau khi ký kết Hiệp Ước Thân Hữu
của nó với Moscow, và sáu tháng sau khi gia nhập khối
Comecon, các viễn ảnh của Trung Quốc một ngày kia
sẽ phải chiến đấu một cuộc chiến
tranh trên hai mặt trận chống lại hai nước
“chủ trương bá quyền” hùng mạnh bắt đầu
xem ra thực sự đáng kinh hoàng.
YẾU TỐ SÔ VIẾT
Gần như tất cả các tác
giả bình luận cho đến nay về các căn nguyên của
Cuộc Chiến Tranh Trung – Việt đều nhặt ra sự
quan ngại ám ảnh của Trung Quốc về liên minh
chính trị và quân sự đang được thắt chặt
giữa Sô Viết “bá quyền toàn cầu” và Việt Nam “bá
quyền cấp vùng” như yếu tố mạnh mẽ nhất
giải thích cho cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt
Nam.
Nhiều bằng chứng có thể
được tìm thấy xác nhận quan điểm này
trong các lời tuyên bố và các sự phân tích của Trung Quốc
được đưa ra hồi cuối năm 1978 và
đầu năm 1979. Các bài viết với nhan đề
như “Chiến Lược Đế Quốc Chủ
Nghĩa Xã Hội tại Á Châu” 38 đã nhấn mạnh
đến các tham vọng bành trướng của Sô Viết
khắp Á Châu và tính chất cộng đồng của các
quyền lợi giữa Moscow và sát thủ của nó, “Cuba tại
Á Châu”. Việc ấn định thời biểu của
cuộc tấn kích lớn lao của Việt Nam đánh chế
độ Pol Pot không phải không được lưu ý,
như nó đã diễn tra rất chóng sau khi có sự kết
thúc Bản Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác
giữa Liên Bang Sô Viết và Việt Nam. Nhóm cầm quyền
tại Bắc Kinh hẳn cũng đã phải nhận xét
rằng điều khoản then chốt của hiệp ước,
điều 6, gần như giống hệt với ngôn từ
của điều 9 trong bản Hiệp Ước Hòa Bình,
Hữu Nghị, và Hợp Tác giữa Ấn Độ - Sô
Viết hôm 9 Tháng Tám 1971: “ … Trong trường hợp một
bên kết ước là đối tượng của một
cuộc tấn công hay đe dọa tấn công, giới cao
câp của các bên kết ước sẽ tức thời khởi
sự các sự tham khảo hỗ tương với quan
điểm loại trừ mối đe dọa đó và thực
hiện các biện pháp thích đáng để bảo đảm
hòa bình và an ninh cho các xứ sở của họ”. 39
Cuộc “giải phóng” của Ấn
Độ vùng Bangladesk, trước đây là Đông Hồi,
cũng diễn ra không lâu sau khi có bản hiệp ước
của nó với Liên Bang Sô Viết. Vào lúc đó, Trung Quốc,
bận tâm với hậu quả của vụ Lâm Bưu,
đã không có thể, và có lẽ không có ý muốn có hành động
nhằm ngăn cản sự chia cắt do Sô Viết hậu
thuẫn, một đồng minh của Trung Quốc,
Pakistan. Liệu Trung Quốc một lần nữa, lại
phải chịu “đứng im bất động trong khi
đồng minh duy nhất của nó tại Đông
Dương bị xâm lăng và thực sự bị sáp nhập
bởi quân đội Việt Nam do Sô Viết hậu thuẫn
hay không?
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc bị
đối diện với “một cuộc khủng hoảng
về niềm tin”. 40 Họ nhiều lần thúc giục
Tây Phương và Thế Giới Thứ Ba đừng
nhượng bộ trước sự xâm lược do Sô
Viết khởi hứng, mà cần chống cự lại
điều đó, bất luận nó có thể xảy ra ở
đâu. Liệu họ giờ đây lại chính mình không
làm gì cả, khi một sự xâm lược như thế đang
diễn ra không phải ở Phi Châu xa xôi mà ngay tại
ngưỡng cửa của Trung Quốc? Bắc Kinh không
thể chịu được việc cho phép, như Đặng
Tiểu Bình đã phát biểu về nó trong một ngôn ngữ
màu mè điển hình, “các kẻ Cuba ở phương
Đông” du côn du kề mà lại không bị kiềm chế
tại Lào, Kampuchea hay ngay ở các vùng biên giới của
Trung Quốc”. 41 Nếu Trung Quốc sẽ thi hành sự
“tự kiềm chê’, như chính quyền Carter đã bào chữa,
khi đó điều này sẽ bị nhìn bởi Liên Bang Sô
Viết như một. lời mời gọi xâm nhập một
cách hung hăng vào Trung Quốc. 42
VÀ YẾU TỐ MỸ
Trong khi có sự đồng ý sâu rộng
về vai trò chủ yếu của “yếu tố Sô Viêt’
trong cuộc xung đột Trung – Việt, “yếu tố Mý
hiếm khi nào được đề cập đến,
ngoại trừ trong các sự biện minh chính thức của
Việt Nam và Sô Viết. Có vẻ là có một sự thỏa
thuận ngầm giữa các nhà phân tích Tây Phương rằng
lần này Hoa Thịnh Đốn đã không thực sự
dính líu. Sự hạ thấp vai trò của Hoa Kỳ này thì
quá nổi bật, so với tầm mức can dự trước
đây của Hoa Kỳ tại Đông Dương, đáng
để khảo sát xem liệu trong thực tế điều
đó có đúng hay không.
Điều chắc chắn đúng
rằng bởi chứng bệnh được mệnh
danh là “hội chứng Việt Nam”, Quốc Hội và chính
quyền Carter đã cực kỳ miễn cưỡng
để cho phép các lực lượng vũ trang của
đất nước trở nên dính líu một cách trực
tiếp vào bất kỳ cuộc phiêu lưu quân sự trên
một quy mô rông lớn nào nữa tại Đông Nam Á hay bất
kỳ nơi nào trong Thế Giới Thứ Ba.
Tuy nhiên, điều này không có
nghĩa Hoa Kỳ thôi không có các quyền lợi kinh tế
và quân sự đáng kể tại Đông Nam Á. Như cố
tác giả Malcolm Caldwell đã vạch ra trong một bài viết
linh cảm mà ông vừa viết ngay trước khi có cuộc
ám sát bi thảm nhắm vào ông tại Phnom Penh hồi cuối
năm qua, “mặc dù Hoa Thịnh Đốn có thể cảm
thấy thuận tiện để cổ vũ ấn
tượng – mà người ta sẽ nhận được
khi đọc các lời tuyên bố và phản tuyên bố của
Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh – rằng chỉ có Mạc
Tư Khoa và Bắc Kinh giờ đây đang tranh chấp
quyền lực và ảnh hưởng tại Đông Nam Á,
các sự kiện thì rất khác biệt”. Sự hiện diện
quân sự của Hoa Kỳ trong vùng đến nay vẫn còn
là lớn nhất trong số bất kỳ cường quốc
ngoại lai nào, và “các quyền lợi kinh tế của Nga
dù khá lớn hiện nay tại Đông Nam Á, chúng không thể
nào so sánh về tầm mức lớn lao, hay trong ý nghĩa
chính trị với Nhật Bản và Hoa Kỳ”. 43
Cũng không nên giả định rằng
Hoa Kỳ đã thôi không còn quan tâm đến ai là kẻ kiểm
soát vùng Đông Dương. Suốt từ đầu thập
niên 1940, Hoa Thính Đốn đã nhất quán gắng sức,
với sự thành công biến đổi, để
ngăn chặn một loạt điều được
nhận thức là các quyền lực thù nghịch – đế
quốc Nhật Bản, chủ nghĩa thực dân Pháp (một
cách ngắn ngủi), “chủ nghĩa cộng sản còn
nguyên khối”, Trung Cộng Đỏ, chế độ cộng
sản Hà Nội -- khỏi việc kiểm soát bán đảo
Đông Dương có tầm quan trọng về mặt chiến
lược. Ít có sự nghi ngờ rằng một lý do tại
sao Hoa Thịnh Đốn đã chơi “lá bài Trung Quốc”
một cách quả quyết vào cuối năm 1978 đến
nỗi nó cảm thấy rằng giờ đây nó chia sẻ
một cộng đồng quyền lợi với Bắc
Kinh trong việc cố gắng ngăn chặn uy thế
quân sự gia tăng của một Việt Nam thống nhất
và theo chủ trương bành trướng.
Khi các mối quan hệ và các chính
sách của các đại cường được nhìn từ
một quan điểm Việt Nam, thay vì từ một quan
điểm chống Sô Viết hiện nay, một cách mỉa
mai, “là bình thường” ở cả Trung Quốc lẫn
Tây Phương, chúng có thể xuất hiện dưới
một ánh sáng rất khác biệt. Chắc chắn, bằng
chứng hiện lên về sự thông đồng gia
tăng giữa chủ nghĩa bành trướng của
Trung Quốc và chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ
trong năm 1978 và 1979 hẳn phải mang vẻ rất
đáng kinh hoàng đối với Hà Nội: các lời tuyên
bố hùng hổ chống Sô Viết của Zbigniee Brzezinski
dọc theo bức Vạn Lý Trường Thành trong Tháng Năm
1978; các sự cự tuyệt nhiều lần của Hoa Thịnh
Đốn trước các nỗ lực ngày càng khẩn thiết
để hòa giải của Hà Nội; 44 sự tái
tục cấm vận kinh tế của Tổng Thống
Carter; sự bình thường hóa các quan hệ của Hoa Kỳ
với Bắc Kinh hôm 1 Tháng Một 1979; sự tiếp
đón thân mật dành cho Đặng Tiểu Bình khi ông ta
đến thăm viếng Hoa Kỳ trong Tháng Một 1979;
và sự tán thưởng nồng nhiệt mà họ Đặng
nhận được từ trong một số giới người
Mỹ khi ông ta loan báo rằng Việt Nam sẽ cần phải
được dạy cho một bài học.
Tại Hà Nội, ít nhất, có thể
không có sự nghi ngờ về vai trò chủ yếu được
đóng giữ bởi Mỹ khi khuyến khích cuộc xâm
lăng tàn phá của Trung Quốc ở các tỉnh biên giới
phía bắc. Tuy nhiên, người ta không phải đi đến,
cho đến nay, để ôm lấy thế giới quan của
Việt Nam hầu nhìn nhận rằng động thái của
“siêu cường kia” ít nhất đã có một số ảnh
hưởng trên các biến cố dẫn dắt đến
chiến tranh.
CÁC BIẾN SỐ NỘI BỘ
Trong khi vấn đề Hoa kiều
hải ngoại thường được đề cập
đến và chủ nghĩa dân tộc Việt Nam và chủ
nghĩa dân tộc Trung Quốc thỉnh thoảng được
nêu ra, các biến số nội bộ khác đã nhận được
sự chú ý sơ sài trên các sự phân tích được ấn
hành về các nguyên do của cuộc chiến tranh. Bởi
vì phần lớn các lý thuyết gia và các kẻ thực hành
chính trị quốc tế giờ đây đồng ý trên tầm
quan trọng tổng quát của các cội nguồn quốc
nội trong động thái đối ngoại, sự
đối đãi hạn chế này cần một vài sự
giải thích.
Trong trường hợp này, sự
dè dặt phân tích có lẽ có thể được quy cho sự
khan hiếm tin tức liên hệ về các tiến trình chính
trị của hai đối thủ, 45 hơn là cho
niềm tin rằng chính trị đối nội thì không
quan hệ. Tuy nhiên, bất kể bằng chứng hạn
chế khả cung, điều có thể lập luận một
cách khả tín rằng các sự cứu xét chính trị nội
bộ ở cả hai bên biên giới ít nhất cũng có trợ
lực phần nào vào sự bùng nổ chiến tranh.
Tại Trung Quốc, sự theo
đuổi mãnh liệt của giới lãnh đạo Các
Chương Trình Tứ Hiện Đại Hóa (nông nghiêp,
công nghiệp, quốc phòng, cùng khoa hoc và kỹ thuật)
đã được kèm theo bởi việc thách đố
và lật đổ các mục đích và giá trị của học
thuyết họ Mao, và điều này chắc chắn khiêu
khích một số sự kháng cự quả quyết trong
các cơ cấu của đảng. Nhóm cầm quyền
Đặng – Hoa xem ra đã thắng thế tại phiên họp
khoáng đại thứ ba của Ủy ban Trung Ương
Đảng Thứ Mười Một, vốn được
tổ chức trong Tháng Mười Hai 1978, nhưng để
đạt được và củng cố sự thắng
lợi của họ, họ đã phải động viên
mọi nguồn ủng hộ khả hữu. Họ đã
không thể chịu được việc tảng lờ
các bộ phận trong quan điểm Trung Quốc trong và
ngoài đảng có các cảm nhận yêu nước bị
xúc phạm bởi sự vô ơn của Hà Nội đối
với sự trợ giúp của Trung Quốc trong quá khứ,
bởi sự đối xử của nó với các Hoa kiều
hải ngoại, bởi động thái bành trướng của
nó tại Đông Nam Á, và bởi sự xếp hàng chặt
chẽ của nó với kẻ thù chính của Trung Quốc.
Một số các nhà phân tích cũng
đã phỏng đoán rằng Đặng Tiểu Bình
đã phải dựa một cách nặng nề vào sự ủng
hộ của các nhà lãnh đạo quân đội để
giành thắng cuộc đấu tranh trong đảng và rằng
ông ta có thể đã chấp thuận cuộc “hoàn kich’ chống
lại Việt Nam để đáp ứng với áp lực
từ các cá nhân này là các kẻ được giả định
quan tâm đến việc lâm trận của các binh sĩ của
họ, và để trắc nghiệm các nhược điểm
về tinh thần, cơ cấu chỉ huy và tiếp vận.
46 Không có bằng chứng vững chắc cho
đên nay được đưa ra để hỗ trợ
cho giả thuyết đặc biệt này.
Tại Việt Nam cũng vậy,
các cuộc đấu tranh trong đảng hẳn phải
có một số ảnh hưởng trên các biến cố dẫn
dắt đến chiến tranh. Tại Đại Hội
Đảng Lần Thứ Tư, được tổ chức
trong Tháng Mười Hai 1976, đã dẫn đến việc
các phần tử thân Trung Quốc, trong đó có nhà lãnh đạo
đảng kỳ cựu Hoàng Văn Hoan, bị loại bỏ
ra khỏi Bộ Chính Trị và Ủy Ban Trung Ương,
và, dưới ảnh hưởng của viên tổng bí thư,
Lê Duẩn, đảng đã có một khuynh hướng rõ
rệt ngả về phía Mạc Tư Khoa. Tuy nhiên, các phần
tử được gọi là “ôn hòa” trong đảng,
đứng đầu bởi Thủ Tướng Phạm
Văn Đồng, vẫn phấn đấu trong suốt
năm 1977 và đầu năm 1978 để ngăn cản
Việt Nam không rơi hoàn toàn vào vòng tay ôm của Sô Viết.
Vào mùa hè năm 1978, họ đã phải nhìn nhận thua cuộc
bởi có sự từ khước của cả Hoa Thịnh
Đốn lẫn Bắc Kinh để đáp ứng một
cách tích cực với các sự tiến tới của họ.
47 Sau đó, ảnh hưởng của cả Lê Duẩn
lẫn các nhân vật quân sự thân Sô Viết chẳng hạn
như Bộ Trưởng Quốc Phòng xem ra đã
được tăng cường.
Tại Việt Nam, cảm tính dân tộc
chủ nghĩa trong các nhà lãnh đạo và quảng đại
quân chúng cũng tự xuất hiện, đặc biệt
khi sự ủng hộ của Trung Quốc cho nỗ lực
chiến tranh của Kampuchea được gia tăng. Một
trong các di sản nghịch lý và không may của cuộc đấu
tranh ba mươi năm chống lại người Pháp và
người Mỹ là một khuynh hướng chống
Trung Quốc được nâng cao một cách không tự
nhiện trong chủ nghĩa dân tộc Việt Nam hiện
đại. Để động viên một cách thành công cảm
tính dân tộc chủ nghĩa Việt Nam chống lại chủ
nghĩa thực dân Pháp và chủ nghĩa đế quốc
Mỹ, phe cộng sản đã bày tỏ lòng tôn kính trong sự
tưởng nhớ đến các anh hùng dân tộc trong quá
khứ, và dĩ nhiên hầu như tất cả các nhân vật
này đều đã phải đấu tranh chống lại
sự can thiệp hay đô hộ của đế triều
Trung Quốc.
Một yếu tố nội bộ
khác đáng để nói tới, ngay dù nó đã thực sự
bị lãng quên trong các sự phân tích trước đây về
cuộc chiến, là yếu tố ý thức hệ (Mác-xít,
Leninít), vốn thường được cho là có một
số tầm quan trọng trong việc giải thích các quyết
định chính sách ngoại giao của các nước theo
xã hội chủ nghĩa. Rõ ràng có một sự tin tưởng
phổ biến rằng bởi các đặc điểm
Chính Trị Thực Tế (Realpolitik) quá nổi bật trong
cuộc xung đột này, vì thế ý thức hệ hẳn
là không quan hệ. Một quan điểm như thế
không kể đến sự kiện rằng các sự cứu
xét quyền lực được xây dựng vào trong tâm
điểm của lý thuyết cộng sản. Quyền lực
thì không xung đột với ý thức hệ mà với các
phương tiện theo đó các mục đích ý thức hệ
được thực hiện. 48
Trong thực tế có các căn bản
vững chắc cho việc lập luận rằng các yếu
tố ý thức hệ làm phân hóa trầm trọng các đảng
[cộng sản] Trung Quốc và Việt Nam, như chúng
đã làm đối với một số đảng khác. Khuynh
hướng tổng quát cho ý thức hệ dễ làm phân
hóa hơn là thống nhất các quốc gia cộng sản
đã được ghi nhận trong một quyển sách gần
đây bởi một nhà trung hoa học ngưoời Pháp:
Les partis communists sont des machines à produire une
idéologie unifiée … La production permanente d’une doctrine unifiée
universellement valuable porte au rejet permanent de l’hétérogène. Aussi les
partis communists rejettent-ils les “déviants” apparus en leur sein, mais
également les parties “frères” dès lors qu’ils ne produisent pas la même
idéologie qu’eux. Cet univers ne supporte ni le pluralism interne ni, si l’on
peut dire, le pluralism externe. 49
[tiêng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch]
Sau cùng, một biến số nội
bộ nhất thiết phải, ít nhất, được
nói qua ở đây là “yếu tố cá tính”. Hồ Chí Minh chết
trong năm 1969, và Mao Trạch Đông cùng Chu Ân Lai chết
trong năm 1976. Liệu thực sự có khả tính rằng
Trung Quốc và Việt Nam sẽ đi đến chiến
tranh nếu các đồng chí già này hãy còn sống và khỏe
mạnh tại Hà Nội và Bắc Kinh hay không? Đến tầm
mức nào mà sự bùng nổ chiến tranh có thể được
quy chiếu cho các sức ép và sự căng thẳng của
các tiến trình thừa kế chúnh trị ở cả hai nước?
Cuộc thảo luận này không cách
nào làm cạn kiệt danh sách các biến số nội bộ
liên hệ có tiềm năng, nhưng nó phải đủ
để cho thấy rằng các yếu tố nội bộ
thì cũng quan trọng đối với bất kỳ sự
cứu xét nào về các nguyên nhân của cuộc Chiến
Tranh Trung – Việt như chúng thường được
tin như thế trong các sự giải thích về các hành
động khác trong chính sách ngoại giao.
LƯỢNG ĐỊNH CÁC SỰ GIẢI
THÍCH
Nỗ lực khảo sát tổng
quát này về các sự giải thích khác nhau đã được
đưa ra hay sẽ được đưa ra để
luận giải cho Cuộc Chiến Tranh Trung – Việt
năm 1979, với sự giới hạn về khuôn khổ,
tất nhiên có phần sơ sài và không đầy đủ.
Tuy nhiên, ít nhất nó đã lôi kéo sự chú ý đến một
số các biến số không được biết đến
hay xem nhẹ trong các sự phân tích trước đây.
Không may, đến tầm mức mà nó đã thành công trong việc
việc thiết lập sự quan hệ của chúng, nó
cũng đã làm rậm rạp thêm “khu rừng các lý thuyêt’
đến mức độ đó và làm phức tạp thêm
công tác lượng định các công hiệu cá nhân của
chúng.
Một cách để làm nhẹ công
tác đó là quyết định, chắc chắn khá độc
đoán, rằng các yếu tố đoản kỳ hơn
nhiều phần có hiệu năng hơn các yếu tố trường
kỳ hơn trong việc giải thích sự bùng nổ của
chiến tranh. Nếu nguyên tắc chỉ đạo này được
chấp nhận, khi đó các sự tranh giành lịch sử
cổ truyền sẽ bị quy định xuống một
trình độ thấp của sự quan trọng so với
các biến cố lịch sử gần cận hơn. Tiến
trình lượng định cũng có thể được
đơn giản hóa nếu nó được đặt
tiêu điểm khá chật hẹp hơn vào các yếu tố
chịu trách nhiệm cho sự bùng nổ thực tế của
chiến tranh. Nếu nguyên tắc chỉ đạo đó
được chấp nhận, khi ấy điều có lẽ
có thể đồng ý rằng trong khi phía Trung Quốc bàng
hoàng về sự ủng hộ của Hà Nội cho cuộc
xâm lăng của Sô Viết hồi năm 1968 vào Tiệp Khắc
và sự thất kinh của Việt Nam trước lời
mời của Trung Quốc vào năm 1971 đến [Tổng
Thống] Nixon thì rất quan trọng trong việc giải
thích sự tan vỡ của liên minh, chúng không nhất thiết
chiếm tất cả phần quan trọng trong việc giải
thích sự bùng nổ của các chiến sự. Bởi vì
khoảng cách từ sự tan rã của liên minh đến
sự bùng nổ chiến tranh thì khá xa, một cách may mắn,
và sự kiện này không nhất thiết đã phải dẫn
dắt đến sự kiện kia.
Trong thực tế điều có thể
lập luận một cách khả tín rằng hai mươi
tháng trước Tháng Hai 1979 thì thực sự là các tháng chủ
yếu. Vào khoảng nửa sau năm 1977, sự giao tranh
giữa Việt Nam và Kampuchea đã vươn lên các mức
độ quan trọng, biên giới Trung – Việt và các sự
tranh chấp lãnh thổ đang gia tăng, vấn đề
Hoa kiều hải ngoại đã trở nên một đề
tài của sự tranh cãi gay gắt trong các cuộc
thương thảo kín đáo giữa Hà Nội và Bắc
Kinh, và phe “ôn hòa” của Việt Nam đã bắt đầu
cảm thấy rằng có thể đã không có sự lựa
chọn thực sự nào ngoài việc dựa nặng nề
vào phía Sô Viết. Tất cả các chiều hướng
này vẫn tiếp tục và được tăng cường
trong năm 1978. Chúng đã được củng cố bởi
các cảm tính dân tộc chủ nghĩa được
đề cao khi giới lãnh đạo Trung Quốc đã
động viên để xây dựng một xứ sở
xã hội chủ nghĩa hiện đại và hùng mạnh,
và giới lãnh đạo Việt Nam đã động viên
cho cuộc xâm lăng ồ ạt của họ vào
Kampuchea. Vào cuối năm, Việt Nam đã đứng vào
hàng ngũ một cách vững chắc với khối Sô Viết
và sự hòa hoãn Trung Quốc – Hoa Kỳ đang phát triển.
50
Một cách rõ ràng, sự thông thái
theo quy ước đã chính xác khi lập luận rằng yếu
tố Sô Viết và cuộc xung đột Việt Nam –
Kampuchea là các nguyên do mạnh mẽ của cuộc Chiến
Tranh Trung – Việt, nhưng, nó cũng sai lầm không kém
trong việc xem nhẹ sự quan trọng của các cuộc
tranh chấp lãnh thổ và biên giới, vấn đề Hoa
Kiều hải ngoại cùng các biến số nội bộ
khác, và yếu tố Mỹ.
CÁC KẾT QUẢ VÀ CÁC VIỄN ẢNH
Vào lúc kết thúc chiến tranh ít nhất
60,000 binh sĩ và thường dân Việt Nam và Trung Quốc
đã bị chết hay bị thương, và các kiến
trúc công cộng cùng các nhà máy điện tại các thị
trấn biên giới chính yếu của Việt Nam đã bị
san bằng. Sự chuyển hướng các tài nguyên khan hiếm
cho các công tác quân sự và tái xây dựng kinh tế đã làm
suy yếu hơn nữa nền kinh tế vốn đã sẵn
nghèo nàn của Việt Nam. Tại Trung Quốc, bởi cả
các phí tổn của chiến tranh và nhu cầu củng cố
các sự phòng thủ biên giới nói chung, kinh phí quân sự
đã tăng từ 15% trong ngân sách nhà nước năm
1978 lên đến khoảng 18% trong dự thảo ngân sách
nhà nước năm 1979. 51 Các kinh phí cho các Hoa kiều
hải ngoại cũng phải nâng cao bởi cuộc di
cư từ Việt Nam sang Trung Quốc đã tái diễn tiếp
theo sau cuộc giao tranh ở biên giới.
Trái với một số kỳ vọng
trước đây, chiến tranh xem ra đã không triệt hạ
vị thế nội bộ hay các chính sách của Đặng
Tiểu Bình. Tuy nhiên tại Việt Nam, vị thế của
Thủ Tướng Phạm Văn Đồng rõ ràng đã
bị suy yếu. Mặc dù ông ta có hiện diện tại
phiên họp thứ năm của Quốc Hội Kỳ Sáu
trong Tháng Năm 1979, ông đã không đưa ra báo cáo nhân danh
chính phủ, như thường lệ. Bản báo cáo được
trình bày bởi Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng
Quốc Phòng, Tướng Võ Nguyên Giáp. Một dấu hiệu
ngoạn mục khác của sự bất đồng trong
giới lãnh đạo Việt Nam và sự đào thoát của
đảng viên kỳ cựu Hoàng Văn Hoan sang Trung Quốc
trong Tháng Bảy và sự tường thuật rằng bốn
nhà lãnh đạo khác trong đảng bị cáo buộc thân
Bắc Kinh đã bị đặt dưới sự quản
thúc tại gia. 52
Phía Việt Nam đã bị đánh
đập nhưng không bị trừng trị bởi cuộc
tấn công của Trung Quốc. Họ bị buộc phải
rút chỉ một phần binh sĩ của mình, một cách
tạm thời, khỏi Kampuchea, và kể từ khi có chiến
tranh, sự kiểm soát của họ trên Lào được
xiết chặt, trong khi Trung Quốc bị yêu cầu bởi
Vạn Tượng (Vientiane) hãy chấm dứt các dự
án viện trợ của Trung Quốc trong nước Lào.
Tuy nhiên, phía Trung Quốc đã thành công trong việc phóng ra một
cuộc tấn công vào Việt Nam mà không khiêu khích một sự
trả đũa của Sô Viết và chính vì thế đã
chứng minh rằng một hiệp ước thân hữu
với các nước bà quyền lớn không cung cấp sự
bảo đảm cho nước tiểu bá quyền rằng
nó có thể trốn không bị tổn hại gì với các
hành động xâm lược chống lại các láng giềng
của nó. Phía Trung Quốc cũng rõ ràng đã chiếm giữ
một số các khoảnh nhỏ thuộc phần đất
tranh chấp dọc biên giới.
Ảnh hưởng của Sô Viết
tại Việt Nam dĩ nhiên đã được tăng cường
kể từ khi có chiến tranh, trong khi sự xếp hàng
không chính thức giữa Trung Quốc, Hoa Kỳ, và Nhật
Bản cũng tiến triển như thế. Một tổn
thất chính yếu của cuộc chiến, hay, chính xác
hơn, của sự vận động ngoại giao và
chính trị thời tiền chiến tranh, là Lý Thuyết Ba
Thế Giới của Trung Quốc. Vào đầu Tháng Hai
trong cuộc phỏng vấn nổi tiếng của ông với
tạp chí Time, họ Đặng có loan báo rằng mặt
trận thống nhất chống lại chủ nghĩa bá
quyền Sô Viết giờ đây bao gồm Hoa Kỳ, thành
viên khác của Thế Giới Thứ Nhất mà Thế Giới
Thứ Nhì và Thứ Ba đã hợp lại để chống
đối. Liệu lý thuyết này đã chết đi hay
chỉ tạm thời không còn hoạt động vẫn
chưa được biết rõ.
Cả Hà Nội lẫn Bắc Kinh
đều có thể không thực sự chịu nổi các
phí tổn chính trị và kinh tế sẽ phát sinh bởi một
hiệp giao tranh nữa. Cả hai đều rất cần
hòa bình và sự thống nhất nội bộ để
theo đuổi các chương trình liên hệ của họ
nhằm tái xây dựng và hiện đại hóa. Song, trong số
lượng gia tăng của các “biến cô’ được
tường thuật, có các dấu hiệu không tốt rằng
một số các nhà lãnh đạo Trung Quốc cảm thấy
rằng tiểu bá quyền Việt Nam bướng bỉnh
cần phải được dạy cho một bài học
thứ nhì. Và rằng về phần họ [Việt Nam], nhiều
kẻ học trò ngoan cố tìm kiếm một vài loại
trả thù cho sự phá hoại bị gây ra trong bài học
thứ nhất.
Nếu có một hiệp kế tiếp,
đấu trường nhiều phần sẽ là Biển
Nam Hải hơn là biên giới đất liền. Các
năng lực quân sự của Trung Quốc hiện tại
không đủ cho một cuộc xâm lăng toàn diện vào
một Việt Nam đã được tăng cường
mạnh mẽ bởi các tiếp liệu mới của các
vũ khí của Sô Viết, và một cuộc tấn công vào
các lực lượng của Việt Nam tại Lào sẽ
có rủi rỏ nhận được quá nhiều sự
bất ưng thuận thế giới. Tuy nhiên, các năng
lực và quyết tâm của Trung Quốc thì đủ mạnh
để nâng cao một sự phòng thủ mạnh mẽ
và phản công chống lại bất kỳ sự thách
đố nào của Việt Nam đối với vị thế
của họ tại Quần Đảo Hoàng Sa hay các khu vực
trên biển mà họ tuyên xác tại Vịnh Bắc Bộ,
trừ khi cuộc tấn kích của Việt Nam được
hậu thuẫn bởi hải lực hùng mạnh của
Sô Viết. Trong thực tế nhiều điều có thể
tùy thuộc vào các thái độ và các chính sách của hai siêu
cường, và tầm mức mà Moscow sẽ muốn yểm
trợ một cách công khai và Hoa Thịnh Đốn sẽ lựa
chọn việc tán thành một cách kín đáo một cuộc
chiến tranh Trung – Việt khác, phần lớn cũng tùy
thuộc vào phương cách Bắc Kinh lựa chọn
để phản ứng trước bất kỳ các cuộc
tấn công thêm nữa của Việt Nam tại Kampuchea./-
___
CHÚ THÍCH
1. Các bộ đội Trung Quốc
đã phóng ra “cuộc phản công” của họ đánh vào Việt
Nam hôm 17 Tháng Hai và được tường thuật
đã hoàn tất sự triệt thoái của họ về
lãnh thổ Trung Quốc vào hôm 16 Tháng Ba.
2. Xem, thí dụ, Robert McFadden, New York
Times, 18 Tháng Hai 1979, và Don Oberdorfer, Washington Post, 1
Tháng Tư 1979.
3. John Gittings, ‘Peking Exacts Price for Company
Hanoi Keeps’, Manchester Guardian Weekly, 25 Tháng Hai 1979. Cùng quan
điểm được bày tỏ bởi Ross Terrill trên tờ
Montreal Star, 26 Tháng Hai 1979.
4. New York Times, 19 Tháng Hai 1979.
5. Elizabeth Becker, Far Eastern Economic Review,
CIII (2 Tháng Ba 1979).
6. Dennis Duncanson, ‘China’s Vietnam War: New and Old
Strategic Imperatives’, World Today, xxv (Tháng Sáu 1979), 241-8.
7. Muốn có một tổng quan về
các quan hệ kể từ 1950, xem Jay Taylor, China and
Southeast Asia: Peking’s Relations with Revolutionary Movements (ấn bản
lần thứ nhì; New York 1976), các chương 1, 3, 6.
Cũng rất hữu dụng để xem: King C. Chen,
Vietnam and China, 1938-1954 (Princeton 1969); Robert O’Neill, Peking-Hanoi
Relations in 1970 (Canberra 1971); Donald Zagoria, Vietnam Triangle: Moscow,
Peking, Hanoi (New York 1968).
8. Câu văn được mượn của
James Kurth, “The Multinational Corporation, U. S. Foreign Policy, and the Less
Developed Countries’, trong sách đồng biên tập bởi Abdul
A. Said và Luis R. Simmons, The New Sovereigns: Multinational Corporations
as World Powers (Englewood Cliffs, NJ, 1975), trang 139.
9. Từ ngữ của câu hỏi làm gợi
nhớ một cách hiếu kỳ về loại đã được
nêu lên trong các sự tra hỏi sớm nhất trên các nguyên
do của cuộc chiến tranh biên giới Trung - Ấn năm
1962. Sự tra hỏi “chính thống’ trong năm 1962 và 1963
là: tại sao Trung Quốc đã thực hiện cuộc xâm
lược vào Ấn Độ? Phần lớn các cuộc
nghiên cứu sau này về cuộc chiến tranh này đã khởi
đi với một câu hỏi nhẹ nhõm hơn.
10. “Nó thì tốt hơn”, Hồ Chí Minh
đã nói với Paul Mus trong năm kế đó, sau khi có sự
quay trở lại của các nhà chức trách thực dân
Pháp, “để ngửi phân của người Pháp trong một
thời khoảng ngắn thay vì phải ăn cứt
người Tàu suốt một đời”, Chen, Vietnam and
China, trang 99.
11. Alexander Woodside, “Peking and Hanoi: Anatomy of
a Revolutionary Partnership”, International Journal, XXIV (winter
1968-9), 66.
12. Mùa Phục Sinh năm 1916 và hậu quả
của nó chắc chắn là các yếu tố mạnh mẽ
hơn cả những hành vi của Cromwell trong việc giải
thích các sự căng thẳng trong các quan hệ
đương thời giữa Anh Quốc và Ái Nhĩ Lan.
13. Trong Tháng Mười 1930, danh xưng
đã được thay đổi thành đảng Cộng
Sản Đông Dương, như một kết quả của
áp lực từ khối Comintern.
14. Muốn có thêm chi tiết về thời
kỳ này, xem Douglas Pike, History of Vietnamese Communism, 1925-1976
(Stanford1978).
15. Muốn có một sự phân tích nhiều
hơn về các sự tương đồng này, xem
Woodside, “Peking and Hanoi”, các trang 72-6.
16. Keesing’s Contemporary Archives, 23 Tháng Hai
1979, trang 29471. Hàn Niệm Long, thứ trưởng Bộ
Ngoại Giao Trung Quốc, tuyên xác rằng tổng số viện
trợ lên tới “các con số hàng tỷ yuan [đồng
Nguyên]”, Beijing Review, xxii (4 Tháng Năm 1979), 10.
17. Allen Whiting, The Chinese Calculus of
Deterrence (Ann Arbor 1975) các trang 186-95.
18. Peking Review, XVIII (2 Tháng Năm
1975). Bức thông điệp được ký tên bởi
Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, và Chu Đức và được
kết hợp một số vào các khẩu hiệu và thành
ngữ được ưa chuộng trong thời cực
thịnh của liên minh, chẳng hạn như “Trung Quốc
và Việt Nam là các láng giềng thân cận nhau như môi với
răng”. Điều được hứa hẹn rằng
trong những ngày sắp đến, “nhân dân Trung Quốc sẽ
tiếp tục trước sau như một đoàn kết
và chiến đấu cùng với nhân dân Việt Nam”.
19. Nayan Chanda, “Secrets of Former Friends”, Far
Eastern Economic Review, CIII (15 Tháng Sáu 1979).
20. Linda Dillon, Bruce Burton, và Walter Soderlund,
“Who was the Principal Enemy?: Shifts in Official Chinese Perceptions of the
TwoSuperpowers, 1968-1969”, Asian Survey, XVII (Tháng Năm 1977),
456-73.
21. Gittings, “Peking Exacts Price”.
22. Các sự phân định và các mối
quan hệ biên giới nổi tiếng là các vấn đề
phức tạp để bấu víu. Một cuộc khảo
sát rất hữu dụng về bối cảnh lịch sử
và địa dư của biên giới Trung – Việt có thể
tìm thấy trong sách của J. R. V. Prescott, Map of Mainland Asia
by Treaty (Carlton, Victoria, 1975), các trang 447-56.
23. Phía Việt Nam đưa ra các con số
sau đây về các sự khiêu khích và xâm phạm của phía
Trung Quốc: 1974 – 179; 1975 – 294; 1976 – 812; 1977 – 873; 1978 – 2175.
(Nguồn tin: Bộ Ngoại Giao, Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam, “Thông Tư về Các Sự Khiêu Khích và
Xâm Phạm Lãnh Thổ của Trung Quốc”, VNA, Hà Nội,
16 Tháng Ba 1979.) Các con số của phía Trung Quốc về
các vụ tấn công của Việt Nam tại biên giới
Trung Quốc là: 1974 – 121; 1975 – 439; 1976 – 986; 1977 – 752; 1978 –
1108; 1979 (tính đến ngày 16 Tháng Hai) – 129. (Nguồn tin:
bình luận của Tân Hoa Xã, trong bài viết “How Did the
Sino-Vietnamese Border Dispute Come About?”, Beijing Review, XXII (25
Tháng Năm 1979).
24. Chúng được gọi là Xisha (Tây
Sa) bởi Trung Quốc và là Hoàng Sa bởi phía Việt Nam.
25. Chúng được gọi là Nam Sa
(Nansha) bởi phía Trung Quốc và là Trường Sa bởi
phía Việt Nam. Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và Phi Luật
Tân tiếp tục chiếm đóng một số đảo.
Muốn biết thêm chi tiết, xem Hungdah Chiu, “South China Sea
Islands: Implications for Delimiting the Seabed and Future Shipping Routes”, China
Quarterly, số 72 (Tháng Mười Hai 1977), 743-65.
26. Nó được gọi là Beibu Gulf bởi
phía Trung Quốc và Vịnh Bắc Bộ bởi phía Việt
Nam.
27. Phía Trung Quốc tuyên xác rằng đầu
năm 1977, khi các biến cố dọc biên giới đã sẵn
xảy ra trung bình hai hay ba vụ mỗi ngày, Hà Nội “đặt
ra các biện pháp để thiết lập một Hành
Lang An Toàn [Cordon Sanitaire, tiếng Pháp trong nguyên bản,
chú của người dịch], xua đẩy vào lãnh thổ
Trung Quốc số đông đảo các người dân gốc
Trung Quốc và các công dân Việt Nam đã từng sinh sống
tại các khu vực biên giới trong nhiều thế hệ”;
Hàn Niệm Long, trưởng phái đoàn chính phủ Trung Quốc,
trong một diễn văn tại phiên họp khoáng đại
thứ nhì của các cuộc thương thuyết giữa
Trung Quốc – Việt Nam ở Hà Nội, trong Tháng Tư
1979 (Beijing Review, XXII [4 Tháng Năm 1979], trang 11).
28. Keesing’s Contemporary Archives, 23 Tháng
Hai 1979, trang 29469.
29. Michael Yahuda, “Vietnam and China – the Roots of
Conflict”, China Now, số 82 (Tháng Một /Tháng Hai 1979),
trang 9.
30. Keesing’s Contemporary Archives, 23 Tháng
Hai 1979, trang 29471.
31. Gareth Porter, “The Sino-Vietnamese Conflict in
Southeast Asia”, Current History, XLV (Tháng Mười Hai 1978),
193.
32. Muốn có các sự khảo sát hữu
ích về các vấn đề này, xem “Vietnam – Kampuchea War”, Southeast
Asia Chronicle, số 64 (Tháng Chín – Tháng Mười 1978); Karl
Jackson, “Cambodia 1978: War, Pillage, and Purge in Democratic Kampuchea”, Asian
Survey, XIX (Tháng Một 1979); Sheldon Simon, “New Conflict in
Indochina”, Problems of Communism, XXVII (Tháng Chín – Tháng Mười
1978).
33. Stephen Heder, “Origins of the Conflict”, trong Southeast
Asia Chronicle, số 64 (Tháng Chín – Tháng Mười 1978), 3.
34. Cả khái niệm và đảng đều
chính thức bị khai tử trong thập niên 1950.
35. Trong năm 1971, Chu Ân Lai có nói với một
vị đại sứ Âu Châu không được xác định
rằng “chúng tôi không muốn nhìn thấy bất kỳ một
nước nào của Đông Dương thống trị
các nước khác”; Ross Terrill, 800,000,000: The Real China
(London 1972), trang 221.
36. Simon, “New Conflict in Indochina”, trang 22.
37. Duncanson, “China’s Vietnam War”; Nayan Chanda,
“L’affrontement de deux nationalisms”, Le monde diplomatique, XXVII
(Tháng Chín 1978).
38. Beijing Review, XXII (19 Tháng Một
1979).
39. Nguồn: Current Digest of the Soviet Press,
XXX, số 44, trang 10. Muốn có bản văn của hiệp
ước với Ấn Độ, xem Robert Jackson, South
Asian Crisis (London 1975), các trang 188-91.
40. Michael Yahuda, “China’s New Outlook: The End of
Isolationism”, World Today, XXXV (Tháng Năm 1979), 184.
41. New York Times, 28 Tháng Hai 1979.
42. Edward Friedman, “The Risk China Faces”, cùng
nơi dẫn trên, 4 Tháng Hai 1979.
43. “China and South East Asia”, Broadsheet (London),
Tháng Mười Một 1978.
44. Muốn có một cuộc thảo luận
về các hậu quả sự sự từ chối của
Hoa Thịnh Đốn không chịu đáp ứng trước
các đề nghị của Việt Nam, xem Derek Davies,
“Carter’s Neglect, Moscow’s Victory”, Far Eastern Economic Review, CIII
(2 Tháng Hai 1979).
45. Hai thí dụ hay về điều có
thể thu đạt được xuyên qua sự phân tích
thấu đáo các dữ liệu hạn chế cung cấp
là của Thomas Gottlieb, Chinese Foreign Policy Factionalism and the
Origins of the Strategic Triangle (Santa Monica, Calif., Tháng Mười
Mo9^t. 1977), và của Allen Whiting, Chinese Domestic Politics and
Foreign Policy in the 1970s (Ann Arbor, Mich. 1979).
46. David Bonavia, Far Eastern Economic Review,
CIII (2 Tháng Ba 1979).
47. Davies, “Carter’s Neglect, Moscow’s Victory”.
48. Terrill, 800,000,000, ttrang 223.
49. Jean Daubier, Les Nouveaux Maitres de la Chine
(Paris 1979), được trích dẫn bởi Jean de la
Guérivière trong Le Devoir, 23 Tháng Hai 1979, trang 24.
50.Liệu sẽ là quá tưởng tượng
để nêu ý kiến rằng Cuộc Chiến Tranh Trung –
Việt phát sinh, xin lỗi ông Zbigniev Brzezinski [cố vấn
an ninh quốc gia của Tổng Thống Carter lúc bấy giờ,
chú của người dịch] là một cuộc chiến
tranh ủy nhiệm của Sô Viết – Mỹ hay không?
51. Các tỷ lệ bách phân được
tính toán trên căn bản các dữ liệu được
trình bày trong một báo cáo bởi bộ trưởng tài
chính Trung Quốc, ông Zhang Jingfu, Beijing Review, XXII (20 Tháng
Bảy 1979).
52. Nayan Chanda, “A Massive Shock for Vietnam”, Far
Eastern Economic Review, CIII (10 Tháng Tám 1979).
_____
Nguồn: Bruce Burton, Contending
explanations of the 1979 Sino – Vietnamese War, International Journal, Volume
XXXIV, no. 4/Autumn 1979, các trang 699-722.
Ngô
Bắc dịch và
phụ chú
24.09.2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét