CÁC CÂN ĐỐI VÀ QUAN HỆ VĨ MÔ CHỦ YẾU CỦA NỀN KTQD
I.
MỞ ĐẦU:
Để xây dựng các mô hình kinh tế vĩ mô
dùng trong phân tích và dự báo ở cấp các Bộ, cơ quan tổng hợp, nhất thiết phải
nắm vững các quan hệ cân đối kinh tế vĩ mô vì mục tiêu phân tích, dự báo của
bất kỳ một cơ quan tổng hợp nào cũng là xem xét ảnh hưởng của chính sách ngành
mình, lĩnh vực mình tới các chỉ tiêu cân đối vĩ mô chung. Các loại cân đối vĩ
mô quan trọng nhất là:
- Cân đối trong hệ thống tài khoản
quốc gia (khối lượng và giá trị);
- Cân đối ngân sách (theo giá trị)
- Cân đối tiền tệ
- Cân đối cán cân thanh toán quốc tế
- Quan hệ qua lại giữa các cân đối
trên.
Ngoài ra còn có một số cân đối vĩ mô
khác như cân đối lao động, cân đối vốn đầu tư... Trong bài này, chúng tôi sẽ
chỉ tập trung giới thiệu rất sơ lược về năm cân đối lớn nêu trên và các phương
pháp chính để dự báo chúng.
II. CÁC CÂN ĐỐI VĨ MÔ VÀ QUAN HỆ GIỮA
CHÚNG
A) Cân đối
trong hệ thống tài khoản quốc gia
Lý
thuyết kinh tế vĩ mô có nhiệm vụ phân tích và giải thích tiến triển của các chỉ
tiêu chính (các biến kinh tế gộp chủ yếu) của nền kinh tế quốc dân. Những chỉ
tiêu kinh tế chính mà lý thuyết kinh tế vĩ mô tập trung phân tích là sản xuất,
thu nhập, tiêu dùng, đầu tư, thu chi ngân sách, khối lượng tiền tệ, ngoại
thương và cán cân thanh toán quốc tế; ngoài ra, để giải thích tiến triển của
các chỉ tiêu này, lý thuyết kinh tế vĩ mô còn phân tích các chỉ tiêu liên quan
như lạm phát, lãi suất, tỷ giá...
Do
tầm quan trọng của các chỉ tiêu trên đối với hoạch định các chính sách kinh tế,
để bắt đầu thực hiện quá trình phân tích và dự báo, cần phải phân tích và giải
thích được xu hướng tiến triển (ngắn, trung và dài hạn) của chúng trong mối
quan hệ tương tác với nhau.
Để
đạt được mục tiêu này, điều đầu tiên là phải có hệ thống thống kê tốt, minh
bạch và nhiều năm. Một trong những hệ thống thống kê tốt nhất hiện nay là Hệ
thống hạch toán quốc gia (hoặc hệ thống tài khoản quốc gia) do Liên hợp quốc
(UN), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), Liên minh Châu Âu (EU),
Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) hợp tác xây dựng năm 1993.
Hệ thống này cho phép cân đối các chỉ tiêu vĩ mô chủ yếu của nền kinh tế quốc
dân, đảm bảo sự khớp nhau giữa các số liệu lịch sử và sự khớp nhau giữa các số
liệu dự báo. Sự khớp nhau này rất quan trọng vì vừa cho phép đảm bảo tính cân
đối của hệ thống kinh tế, vừa cho phép kiểm tra được tình hình phát triển kinh
tế theo các giả thuyết khác nhau. Nó cũng cho phép theo dõi xu hướng phát triển
của các chỉ tiêu chính...
Các tài khoản quốc gia là bộ phận cấu
thành của hệ thống hạch toán quốc gia; chúng cho phép thực hiện các so sánh
quốc tế để các nước học tập kinh nghiệm của nhau trong quá trình phát triển.
Điểm đặc biệt của phương pháp hạch toán theo các tài khoản quốc gia là nó không
gắn liền với bất kỳ lý thuyết kinh tế cụ thể nào, không phản ánh cơ cấu đặc thù
của nước nào, do đó áp dụng được cho mọi quốc gia tại mọi thời điểm.
1)
Các chỉ tiêu gộp trong nền kinh tế quốc dân được phản ánh trong hệ thống tài
khoản quốc gia:
Các chỉ tiêu gộp trong hệ thống tài
khoản quốc gia và mối quan hệ giữa chúng được thể hiện theo sơ đồ dưới đây:
SẢN
XUẤT (GO)
|
|
Tổng sản phẩm
trong nước (GDP)
|
Tiêu dùng trung gian (IC)
|
Tổng sản phẩm trong nước
|
Thu nhập thô chuyển từ nước ngoài về
|
|
Thu
nhập quốc gia thô
|
Thu nhập thô chuyển ra nước ngoài
|
|
Thu nhập quốc gia thô
|
Thu nhập vãng lai chuyển từ nước
ngoài về
|
|
Thu
nhập quốc gia sẵn có thô
|
Thu nhập vãng lai chuyển ra nước
ngoài
|
|
Thu
nhập quốc gia sẵn có thô
|
|
Tiết
kiệm quốc gia thô
|
Tiêu
dùng cuối cùng
|
(1) Tổng giá trị sản xuất (Gross
Output - GO):
Tổng
giá trị sản xuất là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất của toàn bộ nền kinh tế
theo từng thời kỳ tháng, quý, năm.
Chỉ tiêu này được định nghĩa bằng tổng cộng giá trị sản xuất của từng ngành
kinh tế, từng thành phần kinh tế. Như vậy, trong khi chỉ tiêu Tổng sản phẩm xã hội (TSPXH) trong hệ MPS chỉ đo lường tổng
giá trị sản xuất của các ngành sản xuất vật chất thì chỉ tiêu GO bao gồm tất cả
các ngành sản xuất vật chất và phi sản xuất vật chất. Do vậy, GO lớn hơn
TSPXH.
Về nguồn, tổng giá trị sản xuất bao
gồm hai yếu tố: Tiêu dùng trung gian và tổng sản phẩm trong nước (ở cấp ngành
gọi là giá trị mới tăng thêm) được hình thành từ quá trình sản xuất của tất cả
các ngành trong nền kinh tế - xã hội.
Về sử dụng, tổng giá trị sản xuất bao
gồm kết quả sản xuất sử dụng cho nhu cầu sản xuất (tiêu dùng trung gian), cho
tiêu dùng cuối cùng của các hộ gia đình và xã hội (tiêu dùng của Nhà nước), cho
tích luỹ tài sản và để xuất khẩu ra nước ngoài.
Do vai trò của chỉ tiêu này không quan
trọng bằng chỉ tiêu GDP nên hiện nay ít tài liệu thống kê đưa chỉ tiêu này vào
danh mục số liệu công bố. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn có thể tìm thấy để đáp
ứng yêu cầu khi nghiên cứu, phân tích kinh tế.
(2) Tiêu dùng trung gian
(Intermediate Consumption - IC) :
Tiêu dùng trung gian gồm toàn bộ chi
phí vật chất và dịch vụ cho phục vụ cho quá trình sản xuất. Trong tiêu dùng
trung gian, có các yếu tố sau:
-
Chi phí sản phẩm vật chất gồm nguyên
vật liệu chính và phụ, nhiên liệu, dầu mỡ, điện, khí đốt, chi phí công cụ sản
xuất nhỏ, vật rẻ tiền mau hỏng...
-
Chi phí dịch vụ gồm vận tải, thương
nghiệp, bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng, dịch vụ pháp lý, quảng cáo,...
Như
vậy so sánh khái niệm tiêu dùng trung gian trong hệ SNA với khái niệm tiêu hao
vật chất (THVC) trong hệ MPS, chúng ta thấy có hai điểm khác nhau cơ bản:
-
Tiêu dùng trung gian tính đến mọi chi phí cho sản xuất, được hạch toán vào giá
thành sản phẩm, kể cả các chi phí vật chất lẫn chi phí dịch vụ, trong khi tiêu
hao vật chất không tính đến chi phí dịch vụ trong quá trình sản xuất.
-
Tiêu dùng trung gian không tính khấu hao tài sản cố định, khấu hao được đưa vào
chỉ tiêu giá trị tăng thêm vì được coi là thu nhập của quá trình sản xuất (bán
dần tài sản cố định). Ngược lại, tiêu hao vật chất có tính cả khấu hao.
(3) Tổng sản phẩm trong nước (Gross
Domestic Product - GDP)
Tổng sản phẩm trong nước còn được gọi là tổng sản phẩm quốc
nội. Đây là chỉ tiêu gộp quan trọng nhất và được sử dụng nhiều nhất trong phân
tích kinh tế.
Tổng sản phẩm trong nước đo lường toàn
bộ sản phẩm vật chất và dịch vụ (được đem ra trao đổi hoặc không) do tất cả các
ngành kinh tế (hoặc tất cả các thành phần kinh tế) mới sáng tạo ra trong từng
thời kỳ. Cụ thể, tổng sản phẩm trong nước bằng tổng giá trị tăng thêm của tất
cả các ngành (hoặc tất cả các thành phần kinh tế) cộng với thuế nhập khẩu hàng
hoá dịch vụ từ nước ngoài.
Chính vì ở cấp địa phương không xác
định được thuế nhập khẩu mà địa phương phải chịu, nên rất khó tính GDP địa
phương. Do vậy, thực chất cái được gọi là GDP địa phương hiện nay chỉ là giá
trị tăng thêm tạo ra ở địa phương trong thời kỳ đó. Tình hình cũng tương tự đối
với giá trị tăng thêm của các ngành.
So
với khái niệm Thu nhập quốc dân (TNQD) trong hệ MPS, GDP bao gồm toàn bộ giá
trị tăng thêm của tất cả các ngành kinh tế, sản xuất vật chất và phi sản xuất
vật chất, trong khi Thu nhập quốc dân chỉ tính đến giá trị tăng thêm của các
ngành thuộc khu vực sản xuất vật chất. Do vậy, GDP lớn hơn TNQD. Người ta đã
ước tính GDP các năm 1980 bằng TNQD những năm đó nhân với hệ số 1,33.
Khái niệm "sản phẩm" trong
GDP được sử dụng để chỉ các hàng hoá và dịch vụ sản xuất ra để thoả mãn nhu cầu
cuối cùng (tức là cho tiêu dùng) trong năm. Do vậy, giá trị sản phẩm sẽ bằng
toàn bộ giá trị sản xuất trừ đi giá trị hàng hoá và dịch vụ được sử dụng làm
đầu vào của quá trình sản xuất, tức là trừ đi toàn bộ giá trị tiêu dùng trung
gian. Làm như vậy để tránh tính trùng các kết quả sản xuất vì tiêu dùng trung
gian đã được sản xuất trong các thời kỳ trước.
Về
công thức, chúng ta có:
GDP
= GO - IC
và
TNQD = TSPXH - THVC
trong
đó GO > TSPXH, GDP > TNQD và IC ¹ THVC
(4) Thu nhập quốc gia thô (RNB):
Thu nhập quốc gia thô được định nghĩa
bằng GDP cộng với thu nhập ban đầu của người không thường trú chuyển cho người
thường trú và trừ đi thu nhập ban đầu của người thường trú trả cho người không
thường trú.
Nói đơn giản, đó là GDP cộng với phần
thu nhập do người Lào đầu tư ra nước ngoài chuyển về trừ đi phần phải trả cho
người nước ngoài đầu tư vào nước Lào. Quan hệ ở đây mới tính theo tài khoản
vốn.
Thu nhập ban đầu bao gồm: (i) Thuế
ròng (thuế trừ trợ cấp) thu từ sản xuất và nhập khẩu, đây là phần Nhà nước được
hưởng; (ii) Thu nhập của người lao động; (iii) Thu nhập của chủ sở hữu, lãi
suất vốn đầu tư...
(5) Thu nhập quốc gia thô sẵn có
(RNDB):
Thu nhập quốc gia thô sẵn có bằng thu
nhập quốc gia thô cộng thêm phần thu nhập vãng lai ròng (vào trừ ra) chuyển từ
nước ngoài về. Đây là quan hệ thu nhập có tính đến cán cân tài khoản vãng lai.
Nói đơn giản, thu nhập quốc gia thô
sẵn có bằng thu nhập quốc gia thô trừ đi chi vãng lai trả người nước ngoài tạm
ở nước ta cộng với nhận vãng lai từ nước ngoài của người Lào thường trú ở nước
ngoài chuyển về.
Thu nhập vãng lai bao gồm ba bộ phận:
(i) Thuế đánh vào chuyển thu nhập và tài sản; (ii) Các khoản đóng góp xã hội
theo quy định của pháp luật; (iii) Một số loại thu nhập vãng lai khác.
Về nguyên tắc, thu nhập quốc gia thô
sẵn có là một chỉ tiêu rất quan trọng vì nó đo lường thu nhập thực tế và có thể
sử dụng của một đất nước; trên cơ sở chỉ tiêu này, người ta sẽ phân chia sử
dụng theo mục đích tiết kiệm hoặc tiêu dùng.
(6) Tiết kiệm quốc gia thô (BNS):
Tiết kiệm quốc gia thô là phần còn lại
của thu nhập quốc gia thô sẵn có sau khi đã tiêu dùng cuối cùng. trong đó tiêu
dùng cuối cùng gồm tiêu dùng nhà nước và tiêu dùng của dân cư. Như vậy, tiết
kiệm quốc gia thô là phần thu nhập chưa được tiêu dùng.
(7) Tiết kiệm nội địa thô (BDS):
Tiết kiệm nội địa thô được định nghĩa
bằng tổng sản phẩm trong nước trừ đi tiêu dùng cuối cùng. Như vậy, tiết kiệm
nội địa thô khác với tiết kiệm quốc gia thô ở chỗ nó không tính đến quan hệ
thanh toán với nước ngoài, tức là không tính đến thu nhập ròng từ tài khoản vốn
lẫn tài khoản vãng lai giữa người thường trú và người không thường trú.
(8) Tiêu dùng cuối cùng (C):
Tiêu dùng cuối cùng là sử dụng hàng
hoá và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu của các cá nhân hoặc tập thể. Tiêu dùng cuối
cùng khác với tiêu dùng trung gian vì tiêu dùng trung gian hợp thành từ các đầu
vào sử dụng trong quá trình sản xuất.
(9) Đầu tư hình thành tài sản cố
định (FBCF):
Đầu tư hình thành tài sản cố định là
tổng số vốn đầu tư được thực hiện với mục đích làm tăng tài sản cố định trong
kỳ. Việc đầu tư thường do Nhà nước và doanh nghiệp thực hiện; tuy nhiên các hộ
gia đình cũng tham gia đầu tư như mua hoặc xây nhà mới.
(10) Tài sản cố định (FBC):
Tài sản cố định gồm tài sản cố định
mới tăng trong kỳ và tài sản cố định đã có đầu kỳ trừ đi số đã được khấu hao
trong kỳ.
(11) Cầu nội địa cuối cùng
Cầu nội địa cuối cùng là tổng của tiêu
cùng cuối cùng, đầu tư hình thành tài sản cố định và thay đổi dự trữ.
(12) Tổng cầu:
Tổng cầu bằng cầu nội địa cuối cùng cộng với
cầu xuất khẩu ròng; trong đó cầu xuất khẩu ròng bằng xuất khẩu trừ đi nhập khẩu
hàng hoá và dịch vụ
2)
Chu trình kinh tế đã được đơn giản hoá:
a) Chu kỳ kinh tế:
Để xây dựng mối quan hệ giữa các chỉ
tiêu trên, chúng ta có thể mô tả dưới dạng các công thức toán học chu trình
diễn ra trong kinh tế thông qua các quan hệ giữa các nhóm tác nhân kinh tế.
Khái niệm chu trình kinh tế bao gồm
các luồng chuyển động vật chất và tiền tệ giữa các khu vực trong nền kinh tế,
gắn với quan hệ sản xuất, thu nhập và tiêu dùng.
Thực tế, quá trình sản xuất sẽ đồng
thời vừa tạo ra sản phẩm, vừa tạo ra thu nhập; thu nhập này đến lượt mình lại
được chi tiêu để mua sắm sản phẩm và tạo ra cầu.
Nếu phân chia nền kinh tế ra làm 4 khu
vực thể chế gồm các hộ gia đình, các doanh nghiệp, nhà nước và phần còn lại
phản ánh quan hệ với nước ngoài, thì giữa những khu vực này có một số quan hệ
sau:
(Sơ đồ vẽ rời bên ngoài, không có trong file nên nay không còn)
(1) Doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và dịch vụ để bán; khi đó doanh
nghiệp sẽ phải thuê nhân công, đồng thời mua các đầu vào cần thiết từ các doanh
nghiệp khác. Các sản phẩm làm ra được bán trên thị trường hàng hoá và dịch vụ.
Giá trị của chúng sau khi trừ các chi phí đầu vào sẽ tạo thành giá trị gia tăng
hay tổng sản phẩm trong nước, sau đó được phân chia cho các thể chế như: Nhà
nước thu thuế, các hộ gia đình nhận thu nhập qua lương. Phần còn lại cũng được
coi là thuộc các hộ gia đình với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp hay sở hữu
vốn.
Trong trường hợp này, chúng ta coi
doanh nghiệp không tiết kiệm (toàn bộ số lãi có thể tiết kiệm đã được chuyển
cho các hộ gia đình), cũng không đầu tư (các gia đình sẽ thực hiện đầu tư bằng
cách cho doanh nghiệp vay vốn).
(2) Các hộ gia đình nắm giữ các yếu tố sản xuất, cung cấp dịch vụ cho
các doanh nghiệp và nhận lại các thanh toán, tạo thành thu nhập của các hộ gia
đình.
Thu nhập sẵn có của các hộ gia đình
bằng thu nhập trên trừ đi thuế thu nhập và thuế tài sản phải nộp nhà nước. Với
số thu nhập sẵn có này, các gia đình sẽ thực hiện tiêu dùng hoặc đầu tư. Tiết
kiệm của các hộ gia đình bằng thu nhập sẵn có trừ đi tiêu dùng. Khả năng cấp
tài chính của các hộ gia đình chính là chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư của
họ.
(3) Nhà nước cung cấp chủ yếu các dịch vụ phi hàng hoá. Nhà nước thu
thuế đánh vào sản xuất và vào thu nhập và tài sản, đồng thời lại giúp đỡ tài
chính cho các hộ gia đình và mua hàng hoá và dịch vụ do các doanh nghiệp sản
xuất ra.
Tiết kiệm của nhà nước bằng chênh lệch
giữa thu và chi của nhà nước. Khả năng cấp tài chính của nhà nước chính là chênh
lệch giữa tiết kiệm và đầu tư của nhà nước.
(4) Phần còn lại là một tài khoản phản ánh hoạt động trao đổi giữa
các đơn vị thường trú và không thường
trú đối với đất nước, đơn giản là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ,
hoạt động đầu tư... Lưu ý là khi nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, sẽ có một khoản
tiền phải chuyển ra nước ngoài. Ngược lại, nếu là hành động xuất khẩu, thì sẽ
có một khoản tiền chuyển vào nước.
Đối với từng khu vực, có thể xảy ra
tình trạng tiết kiệm dương hoặc âm tuỳ theo tiêu dùng thấp hơn hay cao hơn thu
nhập sẵn có. Mặt khác, tiết kiệm này cũng có thể cao hơn hay thấp hơn đầu tư.
Nếu tiết kiệm của một khu vực thấp hơn đầu tư thì sẽ rơi vào tình trạng thiếu
hụt và cần nguồn bù đắp tài chính. Trên bình diện quốc gia, nhu cầu (tiết kiệm
thấp hơn đầu tư) hay khả năng tài chính (tiết kiệm cao hơn đầu tư) được bù đắp
bằng khả năng hay nhu cầu tài chính của bên ngoài (phần còn lại).
b) Các quan hệ kế toán:
Chu trình kinh tế đơn giản trên có thể
được diễn đạt bằng các phương trình kế toán giữa các chỉ tiêu gộp của hệ thống
tài khoản quốc gia, cụ thể như sau:
(1) Qua sản xuất, các doanh nghiệp phân phối thu nhập (GDP) cho các khu vực như sau:
- Nhà nước nhận thuế: TP
- Hộ gia đình nhận lương: RS
- Phần còn lại của doanh nghiệp: EBE
Cân đối: TP + RS + EBE
= GDP
(2) Thu nhập sẵn có của các hộ gia đình (RDBP) gồm thu nhập từ lương
(RS), từ phần còn lại của doanh nghiệp (EBE), từ hỗ trợ của nhà nước (TR) nhưng
lại phải trừ đi thuế thu nhập và thuế tài sản (IR):
RDBP = RS +
EBE + TR - IR
Thay phương trình (1) trên vào phương
trình này, chúng ta còn có:
RDBP
= GDP - TP - IR
+ TR
tức là bằng tổng sản phẩm trong nước
trừ đi thuế đánh vào sản xuất song lại được cộng với tiền hỗ trợ của nhà nước.
(3) Thu nhập sẵn có của nhà nước (RDBG) gồm thu nhập từ thuế và các
chuyển giao ròng khác:
RDBG =
TP + IR -
TR
(4) Thu nhập quốc gia sẵn có gồm thu nhập sẵn có của các hộ gia đình và
nhà nước, tức là:
RNDB = RDBP
+ RDBG = GDP
(trong trường hợp này, để đơn giản,
chúng ta giả thiết thu nhập từ nhân tố - tài khoản vốn - và từ chuyển giao ròng
- tài khoản vãng lai - với phần bên ngoài bằng 0).
(5) Thu nhập quốc gia sẵn có được sử dụng cho tiêu dùng và tiết kiệm:
- Cho tiêu dùng: C = CP
+ CG
- Cho tiết kiệm gia đình: SP = RDBP
- CP
- Cho tiết kiệm nhà nước: SG = RDBG - CG
- Cho tiết kiệm quốc gia: S = RNDB - CP - CG = GDP - C
trong đó C là tiêu dùng cuối cùng, CP
và CG lần lượt là tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng nhà nước, SP và SG lần lượt là
tiết kiệm cá nhân và tiết kiệm của nhà nước.
(6) Tài chính:
Chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư
của mỗi khu vực sẽ tạo ra khả năng tài chính (chênh lệch dương) hoặc nhu cầu
tài chính (chênh lệch âm):
- Khả năng tài chính của khu vực tư
nhân:
CFP
= SP - IP
= GDP - TP - IR + TR - CP - IP
- Khả năng tài chính của khu vực nhà
nước:
CFG
= SG - IG
= TP + IR - TR - CG - IG
- Khả năng tài chính của quốc gia:
CF =
S - I
= GDP -
C - I
trong đó I là tổng vốn đầu tư của nền
kinh tế, IP và IG lần lượt là đầu tư cá nhân và đầu tư của nhà nước.
(7) Cầu hàng hoá và dịch vụ:
Cầu hàng hoá và dịch vụ của toàn nền
kinh tế bao gồm ba thành phần:
- Tiêu dùng: C = CP
+ CG
- Đầu tư: I = IP
+ IG
- Trao đổi hàng hoá và dịch vụ với bên
ngoài: X - M
trong đó: X là xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ;
M là nhập khẩu hàng hoá và
dịch vụ.
(8) Nhu
cầu tài chính từ bên ngoài:
- Nhu cầu tài chính của quốc gia:
CF =
S - I
= GDP -
C - I
- Nhu cầu này sẽ được đáp ứng bằng
nguồn từ bên ngoài:
SE =
- CF
- Cân bằng với bên ngoài:
X -
M = - SE
= CF
từ
đây suy ra:
X
- M =
GDP - C
- I
điều
này cũng tương đương với cân bằng tổng quát:
GDP
= C +
I + X - M
Lưu ý là các quan hệ trên đều là các quan hệ kế toán
để đảm bảo tính cân đối trong nền kinh tế; không phải là các quan hệ nhân quả
giữa các biến kinh tế vĩ mô liên quan.
Ví
dụ phương trình sản xuất phải bằng với tổng cầu không có nghĩa là người ta luôn
phải chấp nhận áp dụng học thuyết Keynes cho nền kinh tế, trong đó cân bằng
kinh tế được xác định bởi tổng cầu.
3) Ba phương pháp tính tổng sản phẩm trong nước
Theo
chu trình kinh tế nêu trên, có thể thấy GDP có thể được tính theo ba phương
pháp: (i) Sản xuất, (ii) thu nhập, (iii) Tiêu dùng. Việc sử dụng ba phương pháp
này để tính GDP không chỉ cần thiết về phương pháp luận mà còn để đảm bảo có
được các tính toán GDP chính xác nhất tuỳ theo các nguồn số liệu thống kê khác
nhau.
Sơ đồ tính GDP theo ba phương pháp như sau:
Phương
pháp 1 Phương pháp 2 Phương pháp 3
GO
|
IC
|
||||||||||||||||
Nhập
|
Xuất
Đầu
tư
Tiêu
dùng
|
||||||||||||||||
GDP
|
GDP
|
TP
|
GDP
|
||||||||||||||
RS
|
|||||||||||||||||
EBE
|
a) Tính GDP theo phương pháp sản xuất:
Đây là cách được áp dụng nhiều nhất
tại các nước đang phát triển. Việc tính GDP theo phương pháp này rất phù hợp
với định nghĩa GDP, tức là tính tổng giá trị gia tăng của các đơn vị thể chế
thường trú. Khi sử dụng khái niệm giá trị gia tăng, sẽ tránh được tình trạng
tính trùng nhiều lần cùng một kết quả sản xuất, mà chỉ tính phần đóng góp của
từng đơn vị tới sản xuất. Ví dụ khi tính giá trị gia tăng của công nghiệp chế
biến thực phẩm, dùng khái niệm giá trị gia tăng sẽ loại bỏ được tính trùng đầu
vào qua các khâu của quá trình chế biến. Khi đó, giá trị gia tăng sẽ là chênh
lệch giữa toàn bộ giá trị sản xuất và giá trị các đầu vào phục vụ sản xuất (tức
là tiêu dùng trung gian).
Quy trình tính toán GDP theo phương
pháp sản xuất gồm các bước sau:
+
Bước 1: Tính giá trị tăng thêm của từng ngành và thành phần kinh tế theo công thức:
Giá
trị tăng thêm = Giá trị sản xuất - Tiêu dùng trung gian.
Việc
tính hai chỉ tiêu giá trị sản xuất và tiêu dùng trung gian cụ thể cho các ngành
căn cứ vào phương pháp phức tạp của ngành thống kê và đòi hỏi lượng thông tin rất
lớn, nên không được trình bày ở đây.
+ Bước hai: Tính GDP theo công thức:
GDP
= Tổng giá trị tăng thêm + Thuế nhập khẩu đánh vào hàng hoá, dịch vụ nhập từ
nước ngoài.
Trong thực tế, không phải bao giờ cũng
tính trực tiếp được giá trị gia tăng bằng cách lấy giá trị sản xuất trừ đi tiêu
dùng trung gian. Do vậy, người ta thường chia các hoạt động sản xuất làm 2
loại: loại có thể đem bán trên thị trường và loại không thể đem bán trên thị
trường. Loại thứ 2 này thường là các dịch vụ công không mất tiền hoặc được cung
cấp với giá rất thấp so với giá trị thật của chúng.
Tiếp đến, người ta đánh giá giá trị
sản xuất căn cứ vào chi phí sản xuất gồm 3 thành phần chính là tiêu dùng trung
gian, tiền lương và thuế (giả thiết lợi nhuận bằng 0). Khi đó, theo đúng định
nghĩa, giá trị gia tăng sẽ bằng giá trị sản xuất trừ đi tiêu dùng trung gian
(vì các dịch vụ này không tạo ra lợi nhuận).
b) Tính GDP theo phương pháp thu nhập
hay phương pháp phân phối:
Trong sơ đồ chu trình kinh tế đơn giản
nêu trên, các doanh nghiệp sản xuất ra toàn bộ GDP của đất nước; tiếp đến GDP
sẽ là nguồn để phân chia sử dụng cho nhà nước (thuế), người lao động (tiền
lương) và doanh nghiệp (lợi nhuận). Do vậy, theo phương pháp này, tổng sản phẩm
trong nước bao gồm các yếu tố sau:
- Thu nhập từ sản xuất của người sản
xuất, gồm tiền lương, tiền trả công lao động, tiền trích bảo hiểm xã hội trả
thay lương và các thu nhập khác từ sản xuất.
- Thuế sản xuất (không bao gồm thuế
lợi tức, thuế thu nhập và các lệ phí khác không được xem là thuế sản xuất). Thuế
sản xuất bao gồm thuế doanh thu hoặc thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế vốn, thuế tài nguyên: đất, rừng, hầm mỏ, thuế
môn bài, các lệ phí được xem như thuế sản xuất.
- Khấu hao tài sản cố định;
- Giá trị thặng dư và các thu nhập
khác từ sản xuất.
Nếu khấu hao tài sản cố định đã được
đưa vào thành thu nhập của người sản xuất hoặc nhà đầu tư thì công thức xác
định GDP như sau:
GDP =
RS + TP
+ EBE
Thu nhập ban đầu này được tính toán từ
các hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị thường trú; nó sẽ được phân
phối cho các đơn vị thường trú khác và có thể cho cả các đơn vị không thường
trú. Ngược lại, cũng có thể có cả thu nhập của các đơn vị thường trú ở nước
ngoài chuyển thu nhập về. Đây là quan hệ với phần còn lại hay là với bên ngoài.
Do vậy, phát sinh khái niệm thu nhập quốc dân thô; chỉ tiêu này được
tính bằng cách lấy GDP công với thu nhập từ nước ngoài chuyển về trừ đi thu
nhập phải trả cho người nước ngoài thường trú tại nước ta (tức là trừ đi thu
nhập chuyển đi nước ngoài).
Phương pháp phân phối cũng tính cho
từng ngành kinh tế, thành phần kinh tế rồi tổng hợp cho toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
c) Phương pháp sử dụng cuối cùng, hay
còn được gọi là phương pháp chi tiêu:
Sản xuất (PR) là nguồn quan trọng nhất
để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng. Tuy nhiên, để xác định tổng cung
của nền kinh tế, cần phải bổ sung vào đó khối lượng hàng hoá và dịch vụ được
nhập khẩu từ bên ngoài (M).
Tổng cung hàng hoá và dịch vụ (PR+M)
được các khu vực kinh tế thường trú sử dụng, tức là đáp ứng tổng cầu nội địa
của nền kinh tế (các đơn vị thường trú) và xuất khẩu (các đơn vị không thường
trú).
Tổng cầu nội địa bao gồm tiêu dùng
trung gian và tiêu dùng cuối cùng; trong đó tiêu dùng cuối cùng tiêu dùng cuối
cùng gồm tiêu dùng của khu vực tư nhân, tiêu dùng của khu vực nhà nước và tiêu
dùng cho đầu tư. Tiêu dùng cho đầu tư lại có thể được chia thành đầu tư của khu
vực tư nhân và đầu tư của khu vực nhà nước, hoặc đầu tư tài sản cố định.
Về nguyên tắc, tổng cung phải luôn
luôn bằng tổng cầu; tuy nhiên, trong thực tế, điều này chỉ được đảm bảo nếu các
tính toán thống kê cho kết quả khớp nhau. Thực tế, tiêu dùng được tính theo giá
do người sử dụng trả trong đó có tính cả thuế đối với hàng nhập khẩu và thuế sản
xuất, thuế giá trị gia tăng...; trong khi đó, cung được tính theo giá của người
sản xuất hoặc theo giá thị trường.
Theo phương pháp này, tổng sản phẩm
trong nước cho phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân được tính theo công thức
sau:
Tổng sản phẩm trong nước
|
=
|
Tiêu
dùng cuối cùng của dân cư và xã hội (nhà nước)
|
+
|
Tích
luỹ tài sản cố định và tài sản lưu động
|
+
|
Xuất
khẩu hàng hoá và dịch vụ theo giá FOB
|
-
|
Nhập
khẩu hàng hoá và dịch vụ theo giá FOB
|
Cụ
thể, chúng ta có:
Cân bằng cung cầu:
PR +
M = IC
+ C +
I + X
từ đây, chúng ta có:
PR - IC
= C +
I + X
- M
hay: GDP
= C +
I + X
- M
Vế phải của phương trình trên là tổng
cầu nội địa cuối cùng cộng với xuất khẩu rồi trừ đi nhập khẩu.
Lưu ý khái niệm tổng cầu nội địa được
hiểu bao gồm tiêu dùng trung gian và tổng cầu nội địa cuối cùng, tức là bằng
(IC +
C + I).
Phạm vi, phương pháp, nguồn thông tin
tính các chỉ tiêu về phải trong công thức trên không được nêu ở đây. Bạn đọc có
thể tìm hiểu trong các tài liệu chuyên sâu của Tổng cục Thống kê.
d) Kỹ thuật xử lý khi tính toán GDP:
(1)
Về xử lý sai số:
Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế, chỉ
tiêu tổng sản phẩm trong nước được tính đồng thời theo ba phương pháp nêu trên.
Ba phương pháp này dựa vào các nguồn thông tin khác nhau nên kết quả tính GDP
thường không giống nhau. Chênh lệch giữa GDP tính toán theo các phương pháp
khác nhau được gọi là sai số thống kê.
Ở Việt Nam, phương pháp sản xuất được
coi là phương pháp cơ bản vì chúng ta có số liệu tương đối tốt về sản xuất
trong khi các số liệu về thu nhập và tiêu dùng còn thiếu nhiều. Kết quả tính
theo phương pháp sản xuất được dùng để làm căn cứ kiểm tra và để chỉnh các kết
quả tính toán theo hai phương pháp phân phối và sử dụng cuối cùng. Nếu sai số
thống kê không vượt quá khoảng từ -2% đến +2% thì kết quả được chấp nhận. Nếu
sai số thống kê vượt quá khoảng này thì phải chỉnh lý theo phương pháp sau:
- Trường hợp sai số lớn hơn ±5% so với
giá trị sản xuất: Phải kiểm tra lại các nguồn thông tin sử dụng do các đơn vị
cơ sở cung cấp để tính GDP, gồm thông tin để tính giá trị sản xuất, chi phí
trung gian, giá trị tăng thêm, như doanh thu tiêu thụ, chênh lệch đầu cuối kỳ
về thành phẩm tồn kho, sản phẩm dở dang, chi phí sản xuất theo yếu tố, thuế
doanh thu, xuất nhập khẩu phải nộp, lợi tức từ các hoạt động sản xuất, kinh
doanh... Nhiều chủ doanh nghiệp khai thấp doanh thu, lợi nhuận để trốn thuế,
khai tăng chi phí để giảm thuế lợi tức... có thể là nguyên nhân làm mất cân đối
chung trong hạch toán toàn ngành kinh tế. Tóm lại, phải kiểm tra lại mọi nguồn
thông tin và tính lại khi sai số lớn hơn ±5%.
- Trường hợp sai số lớn nằm giữa ±2% và ±5% so với giá trị sản xuất:
Trong trường hợp này, số liệu sẽ được
chỉnh theo nguyên tắc sau:
+
Nếu giá trị sản xuất < Chi phí trung gian + Giá trị tăng thêm
thì sai số cần phải chỉnh sẽ là:
Giá
trị sản xuất - (Chi phí trung gian + Giá trị tăng thêm) = -a
trong
đó a là sai số cần phải chỉnh. Toàn bộ sai số sẽ được cộng thêm vào giá trị sản
xuất, tức giá trị sản xuất đúng bằng giá trị sản xuất tính lúc đầu cộng với sai
số phải chỉnh theo công thức:
Giá trị sản xuất + a = Chi phí trung gian +
Giá trị tăng thêm
+ Nếu giá trị sản xuất > Chi phí trung gian
+ Giá trị tăng thêm
thì
sai số cần chỉnh là:
Giá trị sản xuất - (Chi phí trung gian + Giá
trị tăng thêm) = a
Chúng
ta sẽ phân bổ sai số a vào cả chi phí trung gian lẫn giá trị tăng thêm. Gọi a1
là lượng sai số phân bổ vào chi phí trung gian, ta có:
a1
= a * Chi phí trung gian / (Chi phí trung gian + Giá trị tăng thêm)
Khi đó, sai số cần phân bổ vào giá trị
tăng thêm là:
a2
= a - a1
Số
liệu sau khi điều chỉnh là:
Giá
trị sản xuất = (Chi phí trung gian + a1) + (Giá trị tăng thêm + a2)
(2)
Về các phương pháp tính chỉ tiêu GDP theo giá cố định và giá GDP:
GDP và các thành phần của nó cũng như
nhiều chỉ tiêu gộp khác có thể được đo bằng khối lượng hoặc bằng giá trị, tức
là được tính theo giá cố định hoặc giá hiện hành.
- Để đo lường thành tựu phát triển
kinh tế hoặc sự tăng trưởng của các chỉ tiêu kinh tế gộp, người ta phải loại
trừ ảnh hưởng của yếu tố tăng, giảm giá, chỉ tính đến sự tăng giảm thực (khối
lượng) của chỉ tiêu đó. Trong trường hợp này, các chỉ tiêu phải được tính theo
giá cố định hoặc giá so sánh, thông thường là theo giá cố định.
- Tuy nhiên, việc sử dụng các chỉ tiêu
kinh tế gộp tính theo giá hiện hành cũng có nhiều ưu điểm. Ví dụ khi tính theo
giá hiện hành, sẽ có thể tính gộp được mọi thành phần của các chỉ tiêu mà bình
thường khó có thể làm được. Hoặc nhờ nghiên cứu dưới dạng giá hiện hành, có thể
xem xét chúng trong quan hệ với các biến tài chính, tiền tệ và khả năng cân đối
tài chính để đáp ứng những yêu cầu của các chỉ tiêu vĩ mô...
Khái niệm cơ sở:
Đối với một phần tử, giá trị tiền tệ
của nó có thể được định nghĩa là tích của giá tính trên đơn vị (p) và khối
lượng của nó (q). Khi đó, có thể tính được tổng giá trị của nhiều phần tử mặc
dù chúng được đo lường bằng các thước đo khác nhau hoặc với khối lượng, đơn giá
khác nhau... Ví dụ GDP gồm đồng thời sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ
và trong mỗi ngành này lại gồm nhiều ngành và nhiều sản phẩm chi tiết hơn với
đơn giá và số lượng rất khác nhau; do đó nếu không sử dụng thước đo tiền tệ thì
không thể gộp chúng lại được.
Đồng thời, người ta cũng có thể phân
rã (tách) biến động của các chỉ tiêu theo giá trị và theo khối lượng bằng cách
sau: Đối với đo lường tiến triển về lượng của một chỉ tiêu gộp, người ta giữ
nguyên các đơn vị tiền tệ bằng cách giữ giá cả đúng bằng giá năm trước (gọi là
năm cơ sở), nhưng thay khối lượng năm trước bằng khối lượng năm nay. Khi đó, sẽ
xác định mức tăng lên về lượng của chỉ tiêu đó vì đã giữ giá không đổi. Giá của
năm cơ sở được gọi là giá cố định. Nếu đó là giá này được lấy là giá được hình
thành tự phát trên thị trường thì đó là giá so sánh; còn nếu đó là giá so sánh
đã được điều chỉnh để loại bỏ những yếu tố ngẫu nhiên, bất thường, thì được gọi
là giá cố định.
Phương pháp xác định giá trị và biến
động của các chỉ tiêu gộp như sau:
Gọi Vit là giá trị của sản
phẩm i tại thời điểm t;
Pit là giá 1 đơn vị của sản phẩm i tại thời điểm t;
Qit là khối lượng sản phẩm i tại thời điểm t;
thì
ta có quan hệ:
Vit = Pit * Qit
Gọi
Pit/ Pi0 là chỉ số giá năm t so với năm cơ sở 0, tức là
mức thay đổi giá giữa năm t và năm 0, thì ta có"
Vit = (Pit
/ Pi0) * Qit * Pi0
trong
đó Qit * Pi0 là khối lượng năm t nhưng tính theo giá năm
cơ sở.
Khi
đó, thay đổi của Vi từ năm 0 đến năm t, tức Vit / Vi0
được phân tách như sau:
Vit / Vi0 = (Pit
* Qit) / (Pi0 * Qi0)
= [(Pit * Qit) / (Pi0
* Qit)] * [(Pi0 * Qit) / (Pi0 * Qi0)]
Trong
công thức cuối cùng này, cụm đầu tiên [(Pit * Qit) / (Pi0
* Qit)] phản ánh thay đổi của giá cả, cụm thứ hai [(Pi0 *
Qit) / (Pi0 * Qi0)] phản ánh thay đổi của khối
lượng (tức là khi được tính theo giá cố định năm gốc).
Việc
phân tách này có thể được thực hiện với toàn bộ các sản phẩm, tức là:
Vt / V0 = [S(Pit * Qit) / S(Pi0 * Qit)] * [S(Pi0 * Qit) / S(Pi0 * Qi0)]
Trong
công thức trên, cụm đầu tiên đại diện cho chỉ tiêu chỉ số giá cả vì nó đo lường
tiến triển giá trị của cùng một giỏ hàng hoá (cùng khối lượng Qit)
nhưng giá cả đã chuyển từ giá ban đầu (Pi0) của giỏ hàng hoá sang
giá ở thời điểm t (Pit). Tương tự, cụm thứ hai so sánh giá trị của
hai giỏ hàng hoá khác nhau (Qi0 và Qit) theo cùng một giá
là giá năm gốc (Pi0); do vậy, cụm thứ hai đo lường tiến triển về mặt
lượng của chỉ tiêu V.
Phương
trình trên có thể được nói gọn như sau:
Chỉ số giá trị (Vt/V0)
= Chỉ số giá * Chỉ số khối lượng
Công
thức quan hệ giữa giá trị, giá cả và khối lượng này có thể được áp dụng để tính
gộp bất kỳ các nhóm sản phẩm nào. Đặc biệt, nó được sử dụng rộng rãi trong tính
toán kết quả sản xuất của nền kinh tế, trước hết là tính GDP.
Xác
định GDP và các thành phần của nó
Ba
cách dưới đây thường được dùng trong tính toán GDP và các thành phần của nó khi
chuyển từ cân đối hiện vật sang cân đối giá trị hoặc ngược lại:
- Phương pháp hai chỉ số giá:
Giả
sử biết chỉ số giá sản xuất của các ngành khác nhau, khi đó làm theo 5 bước
sau:
+
Chia sản xuất tính theo giá hiện hành của từng ngành cho chỉ số giá tương ứng
của ngành đó để tìm ra giá trị sản xuất của các ngành theo giá cố định;
+
Chia tiêu dùng trung gian theo giá hiện hành của từng ngành cho chỉ số giá
tương ứng của loại tiêu dùng trung gian đó.
+
Đối với mỗi ngành, giá trị gia tăng tính theo giá cố định sẽ bằng chênh lệch
giữa giá trị sản xuất và giá trị tiêu dùng trung gian được tính trong hai bước
trên.
+
Từ đây, tính GDP theo giá cố định bằng tổng các giá trị gia tăng theo giá cố
định của các ngành.
+
Cuối cùng tính chỉ số giá GDP bằng cách lấy GDP theo giá hiện hành chia cho GDP
theo giá cố định.
- Phương pháp từ khối lượng và giá cố định:
Nếu
ta có thông tin về khối lượng, đồng thời biết hệ thống giá cố định của 1 năm
nào đó thì có thể làm như sau:
+
Tính giá trị sản xuất và tiêu dùng trung gian của các ngành theo giá cố định
+
Trừ giá trị sản xuất bởi tiêu dùng trung gian để có giá trị gia tăng. Cộng các
giá trị gia tăng có GDP
+
Chia GDP theo giá hiện hành cho GDP theo giá cố định để có chỉ số giá GDP.
- Phương pháp từ các thành phần sử dụng cuối
cùng:
Chúng
ta biết GDP là tổng các thành phần của cầu cuối cùng, do đó cũng có thể tính
GDP theo giá cố định và chỉ số giá GDP bằng cách sau:
+
Chia mỗi thành phần của cầu tính theo giá hiện hành (cầu danh nghĩa), gồm tiêu
dùng, đầu tư, xuất và nhập khẩu, bởi các chỉ số giá tương ứng của nó để thu
được các chỉ tiêu thành phần theo giá cố định.
+
Cộng các chỉ tiêu thành phần theo giá cố định trên để tính ra GDP theo giá cố
định;
+
Chia GDP theo giá hiện hành cho GDP theo giá cố định để có chỉ số giá GDP.
Về
tính toán chỉ tiêu giá:
Chỉ số giá của một chỉ
tiêu gộp nào đó (deflator) được định nghĩa là tỷ lệ giữa chỉ tiêu gộp đó tính
theo giá hiện hành với bản thân chỉ tiêu gộp đó tính theo giá cố định. Do đặc
trưng không lộ mặt của nó nên người ta thường gọi là giá ẩn (implicit price).
Tuy nhiên, vẫn có thể xác định nó một cách tường minh (explicit) theo kiểu là
trung bình trọng số của một số chỉ số khác.
Ví dụ trường hợp chỉ số Paasche và Laspeyre:
Chỉ
số giá P được định nghĩa là tỷ lệ giữa chỉ tiêu gộp V và bản thân nó nhưng được
tính theo giá cố định, gọi là Q. Khi đó, chúng ta có:
Pt/P0 = (Vt/V0)
/ (Qt/Q0)
hay: = S(Pit
* Qit) / S(Pi0
* Qi0)
= S(Pit
* Qit) / [S(Pit * Qi0) * (Pi0 /
Pit)]
Chia
cả tử số và mẫu số cho S(Pit
* Qit), chúng ta có:
Pt/P0 = 1 /
S {[(Pit
* Qit) / [S(Pit
* Qit) * 1 / (Pit / Pi0)]}
Như
vậy, trong phương pháp này, chỉ số giá là trung bình trọng số của các chỉ số
phần tử cấu thành (Pit / Pi0); các hệ số được dùng làm
trọng số là Pit * Qit / [S(Pit
* Qit)], tức là trọng số của thời kỳ hiện tại. Chỉ số này được gọi
là chỉ số Paasche.
Tương
tự, chỉ số khối lượng (Qt/Q0) cũng có thể xác định thông
qua các chỉ số thành phần của nó với trọng số theo năm cơ sở. Chỉ số này được
gọi là chỉ số Laspeyres. Công thức
tính như sau:
(Qt/Q0) = S(Pi0 * Qit) / S(Pi0 * Qi0)
= [S(Pi0 * Qi0 * (Qit / Qi0)]
/ S(Pi0
* Qi0)
= S {[(Pi0 * Qi0)/ S(Pi0 * Qi0)] * (Qit /
Qi0)}
Để
đo lường tiến triển của các chỉ tiêu giá (ví dụ giá sản xuất hoặc giá tiêu
dùng), thông thường người ta tính toán chúng bằng cách lấy trung bình trọng số
các thành phần của chúng. Trọng số thường là tỷ trọng khối lượng của từng thành
phần trong tổng khối lượng sản xuất hoặc tiêu dùng.
Hiện
nay, đa số các nước trên thế giới đều tính toán và công bố định kỳ các chỉ số
giá, trong đó tập tryng vào chỉ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số giá bán lẻ. Trọng
số trong các tính toán này là tỷ trọng tiêu dùng từng mặt, nhóm hàng trong tổng
tiêu dùng của các hộ gia đình. Chúng thường được xác định thông qua các cuộc
điều tra cơ cấu tiêu dùng của các hộ gia đình (giỏ hàng hoá của người đi mua
hàng). Các chỉ số giá thường được tính theo tháng nhưng các trọng số được điều
tra một lần rồi được sử dụng trong nhiều năm do tính ổn định tương đối của
chúng. Công thức tính thường là chỉ số Laspeyres
(trung bình cộng với trọng số cố định).
Trong
một số nước, người ta có tính toán và công bố định kỳ các chỉ số tổng hợp đo
lường tiến triển của giá bán buôn, giá sản xuất, giá xuất nhập khẩu, giá lao
động (tiền lương). Công thức tính thường cũng là chỉ số Laspeyres (trung bình cộng với trọng số cố định).
Lợi
thế lớn nhất của chỉ số Laspeyres là
tính đơn giản (ví trọng số cố định) và khả năng đo lường biến động của giá
không liên quan tới thay đổi cơ cấu. Tuy
nhiên, điểm bất lợi của nó cũng chính là không tính đến những thay đổi cơ cấu
hay hành vi của người tiêu dùng, do đó có nguy cơ dùng trọng số không phản ánh
đúng tình hình.
Chỉ
số Laspeyres lại có những ưu điểm đối
lập. Nó phản ánh tốt hậu quả của việc thay đổi cơ cấu nhưng lại không giải thích tốt các tiến triển
của giá, nhất là khi có những thay đổi cơ cấu diễn ra mạnh.
(3) Phân biệt các chỉ tiêu khối lượng, giá trị và giá
cả:
Việc
phân biệt các chỉ tiêu khối lượng, giá trị và giá cả rất quan trọng trong mô
hình hoá để đảm bảo nhận dạng đúng các phương trình trong mô hình. Thường có
những nhầm lẫn rất nguy hiểm là một biến khối lượng (tính theo giá cố định) lại
phụ thuộc vào một biến giá trị (tính theo giá hiện hành). Khi đó quan hệ là giả
tạo vì biến khối lượng phải chịu ảnh hưởng của cả yếu tố giá hoặc bản chất của
quan hệ là quan hệ giữa 2 chỉ tiêu giá chứ không phải giữa hai chỉ tiêu lượng.
Thông
thường các biến sản xuất, tiêu dùng, đầu tư, xuất nhập khẩu... được tính theo
hai loại giá cố định và hiện hành (khối lượng và giá trị), nhưng các chỉ tiêu
tài chính, tiền tệ, hoạt động của thị trường... chỉ được tính theo giá hiện
hành hoặc so với GDP. Khi muốn đánh giá thành tựu kinh tế, xã hội thì phải dùng
chỉ tiêu khối lượng, nhưng khi muốn xem xét vai trò và ảnh hưởng của các yếu tố
tài chính tiền tệ tới biến đổi các luồng hàng hoá, dịch vụ thì phải sử dụng
quan hệ giữa các biến giá trị với các biến khối lượng.
Cầu
nối trung gian giữa các loại chỉ tiêu khối lượng và giá trị là giá cả. Do đó,
nói chung biến giá cả có ảnh hưởng đến tất cả các khối trong mô hình, như là
mạng lưới mạch máu trong cơ thể vậy.
Trong
hệ thống tài khoản quốc gia, để đảm bảo tính khớp nhau của các chỉ tiêu, vấn đề
giá cả - khối lượng được xử lý theo ba cách, trong đó cách thông dụng nhất như
sau: Tính toán các chỉ tiêu theo giá cố định của một năm cơ sở. Thông thường,
các biến trọng số nên được thay đổi 5 năm 1 lần, nhưng của ta rất chậm được
thay đổi, ví dụ như tính chỉ số giá tiêu dùng, cơ cấu giỏ hàng hoá đến nay rất
lạc hậu.
Ưu
điểm của phương pháp này là đơn giản vì dùng giá cố định 1 năm cho nhiều năm;
có sự khớp nhau hoàn toàn vì các chỉ tiêu tổng hợp là tổng cộng của các chỉ
tiêu thành phần; và có thể so sánh các chỉ tiêu với nhau vì có cùng một năm
gốc.
********
Vì đưa lên mạng khó khăn nên chủ Blog phải chia làm nhiều phần, mong bạn đọc thông cảm. Xin xem tiếp trong theo thứ tự (2), (3)...
Nhiều hình không xuất hiện, nếu bạn nào cần bản đủ thì gửi thư cho mình để mình gửi cho.
Xin cám ơn.
could you send me please! Gmail: vanthanhtrungxn@gmail.com
Trả lờiXóathank for sharing....
Xin chào anh Tran Mai, Loại bài viết này rất bổ ích và có giá trị! A có thể gửi giúp bài đầy đủ cho em được không?
Trả lờiXóaĐây là email của em: thatuco@gmail.com
Cảm ơn a nhiều và chúc a mọi điều an lành
Anh gửi cho em với. Em biết anh ở nhiều diễn đàn khác, anh là người đi trước, mong chỉ giáo đàn em nhiều nhé.
Trả lờiXóaEmail của em: pkdvn1977@yahoo.com
Cảm ơn anh nhiều!
Mình đã gửi cho các bạn (và một số bạn khác đề nghị qua gửi email trực tiếp) rồi đấy. Không nhận được thì báo nhé.
Trả lờiXóaChú cho cháu xin bản đầy đủ theo email thuyphunguyen@gmail.com được không ạ?
XóaCháu cảm ơn chú nhiều.
Tôi đã gửi cho bạn rồi đấy.
XóaXin chào! Cảm ơn bài viết rất nhiều. Dạ chú có thể cho cháu bài đầy đủ không ạ.
Trả lờiXóaMail của cháu là : aipham92@gmail.com
Chú ơi, cháu cũng muốn chú gửi cho cháu với. Cám ơn chú. thehung88@hotmail.com
Trả lờiXóaCảm ơn bài viết của chú rất nhiều. Dạ chú có thể cho cháu bài đầy đủ không ạ.
Trả lờiXóaMail của cháu là: letung.qth@gmail.com
P/s: bạn nào có rồi có thì gửi cho mình với, thanks !
Chú ơi, cháu thâys bài này hay quá. Chú có thể gửi cho cháu vào bacduyvu@gmail.com được không ạ. Cháu cảm ơn chú nhiều lắm
Trả lờiXóaChu oi,chu cho chau xin bai nay duoc khong
Trả lờiXóaMail con la nguyentan.lab@gmail.com
Cam on chu nhieu
Xin chú gửi giúp qua mail cho cháu là, nhapcuaviet@gmail.com.
Trả lờiXóaCam on chú nhiều.
Cảm ơn Bác! Chúc Bác luôn mạnh khoẻ và duy trì ngọn lửa có nhiều bài viết cho chúng cháu.
Trả lờiXóaBài viết này của Bác rất hay và ý nghĩa! Mong Bác gửi cho Cháu: lpn162@gmail.com.
Cảm ơn Bác nhiều!
Tôi đã gửi bài cho các bạn theo yêu cầu.
Trả lờiXóaThưa Bác, Bác cho cháu xin bài viết này với. email : khanh_hoangquoc_bmt@yahoo.com
Trả lờiXóaCảm ơn Bác nhiều ạ!
Tôi đã gửi bạn bài trên, và trả lời email bạn ở đây:
Xóahttp://toithichdoc.blogspot.ch/2014/04/tra-loi-ban-oc-chi-so-on-inh-cua-nen.html
Chào Bác, Bác cho cháu xin bài viết đầy đủ với ạ. Email của cháu: lantaenganger@gmail.com
Trả lờiXóaCám ơn Bác và chúc Bác thật nhiều sức khỏe
Bác Mai cho cháu xin bài đầy đủ nhé. Email của cháu: khanhkerry@yahoo.com. Cảm ơn bác nhiều.
Trả lờiXóaBác Mai cho cháu xin bài đầy đủ nhé. Email của cháu: khanhkerry@yahoo.com. Cảm ơn bác nhiều.
Trả lờiXóaBác Mai cho cháu xin bản đủ với ạ. Email của cháu là thuhoangkim@gmail.com Cảm ơn bác nhiều.
Trả lờiXóaBác cho cháu xin bản đầy đủ ạ
Trả lờiXóaEmail: huongmoclan_882004@yahoo.com
Cháu cảm ơn bác nhiều ạ
Hay tuyệt và rất đầy đủ nữa. Xin cảm ơn tác giả rất nhiều :D
Trả lờiXóaBác cho cháu xin bản đầy đủ ạ
Trả lờiXóaEmail: buidanhduc81@gmail.com
Cháu cảm ơn bác nhiều ạ
Cháu chào bác Mai. Bác cho cháu xin bản đầy đủ với ạ.
Trả lờiXóaEmail: hungdang.dhnh@gmail.com
Cháu cảm ơn Bác ạ