QUỐC HỘI KHÓA XIII
ỦY BAN
KINH TẾ
Số: 430/BC-UBKT13
|
CỘNG HÒA
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2012
|
BÁO CÁO
một số ý kiến về Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
theo hướng nâng cao chất lượng,
hiệu quả và khả năng cạnh tranh
Thực hiện Nghị
quyết số 11/2011/QH13 ngày 09/11/2011 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội năm 2012, Ủy ban Kinh tế được giao nhiệm vụ xem xét và có ý kiến về
Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo
hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh (sau đây gọi tắt là
Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế) do Chính phủ trình. Để chuẩn bị báo cáo,
Ủy ban Kinh tế đã tổ
chức Diễn đàn để lấy ý kiến đóng góp của một số bộ, ngành, địa phương, các
chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
nghe và cho ý kiến về Đề án này tại phiên họp Thứ 7 (ngày 19/4/2012) và Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã tổ chức Hội nghị trực tuyến để lấy ý kiến các đại biểu
Quốc hội tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (ngày 27/4/2012).
Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội, trên cơ sở Báo cáo
của Chính phủ, ý kiến của các thành viên Ủy ban Kinh tế; qua tổng hợp ý kiến
của các cơ quan hữu quan, các chuyên gia kinh tế, các nhà khoa học, các nhà
quản lý và qua giám sát, khảo sát
thực tế, Ủy ban Kinh tế xin báo cáo một số ý kiến như sau:
I. Những vấn đề chung
1. Về sự cần thiết tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô
hình tăng trưởng
Đa số ý kiến thành viên Ủy ban Kinh
tế đề nghị Đề án cần nêu bật các điểm đặc trưng cần thiết phải tái cơ cấu tổng
thể nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và đề nghị bổ sung một số
nội dung sau:
- Tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu năm 2008, khủng hoảng nợ công 2010-2011 ở châu Âu đã làm chậm lại dòng vốn
đầu tư và thương mại toàn cầu, đặt ra yêu cầu đối với nhiều quốc gia phải
tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng phù hợp với những diễn
biến mới như một tất yếu khách quan.
- Đối với Việt
Nam, sau hơn 25 năm đổi mới từ một quốc gia nghèo và chậm phát triển đã gia
nhập nhóm các quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình thấp, nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành. Cơ cấu kinh
tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực[1]. Kết quả
này là do quá trình chuyển đổi và thực hiện các mô hình tăng trưởng phù hợp với
điều kiện của Việt Nam một cách liên tục qua các thời kỳ như sau: (1) giai đoạn
1986 - 1997: khắc phục khủng hoảng của mô hình kế hoạch hóa tập trung[2]; (2) giai
đoạn 1998 - 2007: tận dụng thời cơ hướng tới xuất khẩu[3].
Bên cạnh những thành tựu đã đạt
được, từ năm 2007 đến nay, trước những diễn biến của kinh tế thế giới và trong
nước, nền kinh tế Việt Nam cũng đã bộc lộ nhiều yếu kém cần được khắc phục. Mô
hình tăng trưởng hướng tới xuất khẩu chủ yếu dựa vào các yếu tố theo chiều rộng
sử dụng nhiều vốn và lao động đã đến giới hạn; áp dụng kinh tế thị trường chưa
đầy đủ; chưa hình thành cơ chế cạnh tranh tích cực phát huy nguồn lực của các
thành phần kinh tế; các động lực tăng trưởng theo chiều sâu chưa được cải thiện
để trở thành động lực phát triển; cơ cấu kinh tế chậm đổi mới để đáp ứng yêu
cầu phát triển nhanh, bền vững của nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong bối cảnh đó, Ủy ban Kinh tế
cho rằng, việc tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng là
hết sức cần thiết, phù hợp với yêu cầu khách quan và phù hợp với chủ trương,
đường lối của Đảng.
2. Về đánh giá thực trạng cơ cấu kinh tế nước ta hiện
nay và nguyên nhân
Đa số ý kiến
thành viên Ủy ban Kinh tế nhất trí với những đánh giá thực trạng cơ cấu
kinh tế nước ta hiện nay, những tồn tại, yếu kém đã nêu trong Đề án. Tuy
nhiên đề nghị cần phân tích làm rõ nguyên nhân do thể chế chưa phù hợp, chính
sách chưa đúng, chưa đủ hay đã có chính sách nhưng công tác tổ chức thực hiện
chưa tốt. Từ đó, làm cơ sở đề xuất các giải pháp mới phù hợp hơn, vì hầu hết
các nguyên nhân nêu trong Đề án không mới, đã tồn tại trong nhiều năm, đã được
nhận diện và đã áp dụng nhiều giải pháp để khắc phục nhưng chưa có chuyển
biến toàn diện.
3. Về nội dung tái cơ cấu
Đề án đã xác định mô hình tăng
trưởng trong thời gian 2012-2020 và 5 bộ phận hợp thành[4].
Mục tiêu đạt được của Đề án sẽ là các chỉ tiêu cụ thể trong Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm đến năm 2020.
Ủy ban Kinh tế đề xuất xây dựng Đề
án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế như một hệ thống chính sách để tập trung
thực hiện 3 đột phá: về thể chế, nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng đã được
xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015. Trên cơ sở đó, triển khai các đề
án thành phần theo ngành, lĩnh vực, vùng, xác định rõ thứ tự ưu tiên, chủ thể thực
hiện và lộ trình thực hiện tái cơ cấu bao gồm những ngành, lĩnh vực trọng điểm,
cần thực hiện trước, những ngành, lĩnh vực thực hiện sau hoặc thực hiện đồng
thời, có bước đi hợp lý tránh gây đột biến lớn với khung thời gian cụ thể là
đến năm 2020. Một số ý kiến khác đề nghị định hướng nội dung Đề án tổng thể tái
cơ cấu nền kinh tế phải xác định bao gồm tất cả các đề án thành phần và đánh
giá tác động toàn diện nền kinh tế trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Cụ thể, Đảng và Quốc hội đã xác
định trong 5 năm tới tập trung vào 3 lĩnh vực trọng tâm nhất bao gồm: (1) Tái
cơ cấu lại đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; (2) Cơ cấu lại thị trường tài
chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ
chức tài chính; (3) Tái cơ cấu doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế,
trong đó trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Ngoài ra, Ủy ban
Kinh tế cho rằng, đối với những Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành[5]
do yêu cầu cấp thiết của quá trình tái cơ cấu, cần tiếp tục thực hiện và sẽ được
điều chỉnh cần thiết sau khi Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế được thông
qua để bảo đảm sự hài hòa, thống nhất trong khuôn khổ chung.
4. Về chi phí thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế và đánh giá
tác động của việc thực hiện Đề án đối với việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế -
xã hội đã đề ra
Đa số ý kiến thành viên Ủy ban Kinh
tế cho rằng, việc tính toán chi phí để thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với
đổi mới mô hình tăng trưởng là hết sức cần thiết, nhất là trong điều kiện của
Việt Nam nguồn lực bị hạn chế. Việc tính toán chi phí này sẽ góp phần xác định
những nội dung cần ưu tiên thực hiện, tránh dàn trải, lãng phí. Ngoài ra, phải
tính toán về chi phí xã hội, môi trường, an ninh, quốc phòng, đối ngoại của đất
nước… là cần thiết để có giải pháp phù hợp.
II. Về những vấn đề cụ thể
1. Mục tiêu chung của Đề án
Đa số ý kiến thành viên Ủy ban Kinh
tế cơ bản nhất trí với 4 mục tiêu nêu trong Đề án, đồng thời nhấn mạnh mục tiêu
chung của việc tái cơ cấu là thay đổi thể chế, cơ chế, công cụ phân bố, quản lý và sử dụng nguồn lực
quốc gia theo mô hình tăng trưởng mới với
cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, hiệu quả hơn, nâng cao khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế, bảo đảm phát triển bền vững và phù hợp với xu hướng toàn cầu
hóa. Để đạt được mục tiêu chung này, những chỉ tiêu cụ thể được xác định trên
cơ sở Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020.
Mô hình tăng
trưởng mới trong giai đoạn 2011-2020 cần phải huy động mọi nguồn lực xã hội để
đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, mở
rộng thị trường và phát triển thị phần đối với sản phẩm của nước ta, đồng thời
giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, thực
hiện tăng trưởng xanh và bảo đảm an sinh xã hội. Đặt vấn đề mô hình tăng trưởng
như vậy là tương đối phù hợp với 3 đột phá đã được nêu trong Nghị quyết của
Đảng.
2. Về quan điểm chỉ đạo
Đa số ý kiến thành viên Ủy ban
Kinh tế thấy rằng, tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển bền vững là yêu cầu
xuyên suốt trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng để đạt được mục tiêu tổng quát tăng trưởng nhanh, bền vững cùng với tiến
bộ, công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, giữ vững ổn định chính
trị - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ. Do vậy, cần có sự đồng bộ giữa Đề án và các Chiến lược liên quan[6] đã được thông qua.
Cần làm rõ mối quan hệ của hội nhập quốc tế và vai
trò của nhà nước trong bối cảnh mới, chuyển đổi nhanh hơn đối với vai trò quản
lý nhà nước, hạn chế việc tham gia trực tiếp và chi phối hoạt động sản xuất,
kinh doanh sang điều hành kinh tế vĩ mô bằng pháp luật, minh bạch chính
sách và thực hiện công bằng giữa các thành phần kinh tế. Đa số ý kiến
thành viên Ủy ban Kinh tế cho rằng, trong 10 năm tới nên thực hiện theo hướng:
Chính phủ chỉ hoạch định và ban hành cơ chế, chính sách và chọn một số khâu đột
phá trong đó sử dụng nguồn lực từ ngân sách nhà nước, chủ thể thực hiện không
chỉ là DNNN mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác cùng tham gia.
Về chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, đề nghị cần tạo sự đồng thuận và thống nhất quan điểm về phát huy nội
lực cùng với độc lập tự chủ trong kinh tế phù hợp với mô hình tăng trưởng mới.
Mặc dù đặc trưng quan trọng của xu thế toàn cầu hóa là tự do hóa thương mại, có
sự phụ thuộc lẫn nhau và liên kết tương đối chặt chẽ trong vùng, khu vực và
toàn cầu, đồng thời tham gia bình đẳng vào việc hình thành một sản phẩm hoàn
chỉnh có thương hiệu quốc tế (chuỗi giá trị).
Một số ý kiến đề
nghị bổ sung quan điểm xây dựng quan hệ lao động hài hòa, bảo vệ quyền lợi
chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động, coi trọng vai trò của
đào tạo nguồn nhân lực, sở hữu trí tuệ và sự đóng góp của khoa học, kỹ thuật và
công nghệ.
3. Về phương hướng tái cơ cấu nền kinh tế
3.1. Về định hướng
chung tái cơ cấu nền kinh tế
Ủy ban Kinh tế
đề nghị làm rõ, bổ sung một số nội dung sau:
- Việc quy
hoạch phát triển các khu kinh tế, vùng kinh tế, hệ thống sản xuất, hệ
thống cung ứng dựa trên việc lựa chọn những vùng có lợi thế phát
triển để lan tỏa làm động lực thúc đẩy các vùng khác phát triển. Cần
làm rõ mối quan hệ giữa quy hoạch tổng thể nền kinh tế với quy hoạch vùng, quy
hoạch ngành động lực phát triển.
- Đối với lĩnh
vực đất đai, các ý kiến cho rằng sửa đổi Luật đất đai phải bảo đảm việc sử dụng
đất mang tính ổn định, dài hạn bằng việc xác định rõ chủ thể sở hữu theo
Hiến pháp, phân biệt rõ quyền của người sử dụng trong việc chuyển đổi mục đích
sử dụng với quyền quản lý nhà nước của chính quyền các cấp nhằm tạo ra động
lực để các chủ thể quản lý và sử dụng khai thác một cách hiệu quả
tài nguyên, tài sản đặc biệt, tư liệu sản xuất chủ yếu này.
3.2. Về định hướng tái cơ cấu cụ thể đối
với nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ
Đối với lĩnh vực nông nghiệp: Đề án mới
xác định các mục tiêu mang tính định tính đối với sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp và ngư nghiệp trong cơ cấu sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp[7].
Do vậy, cần xác
định mục tiêu mang tính định lượng đối với cơ cấu sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp và ngư nghiệp, việc định lượng cũng mang tính tương đối, tuy nhiên sẽ
bảo đảm tính ổn định hơn, hạn chế sự phá vỡ quy hoạch như trong thời gian qua.
- Đối với mục tiêu chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của lĩnh vực nông nghiệp từ mức hiện nay là chiếm 20,6% GDP xuống
15% GDP được nêu trong Đề án là khó khả thi[8].
Đồng thời, Đề án chưa làm rõ được nguồn lực tài chính và lộ trình
thực hiện, cũng như chưa đề xuất được các cơ chế, chính sách để huy động mọi
nguồn lực xã hội nhằm đạt được mục tiêu này. Đa số ý kiến thành viên Ủy ban
Kinh tế nhận thấy, để đạt được mục tiêu này cần giải pháp và chính sách
mạnh mẽ có tính chất đột phá đối với đổi mới đầu tư công, quan tâm đầu tư phát
triển giống, nghiên cứu và khuyến khích chuyển giao khoa học, công nghệ. Ưu
tiên phát triển những lĩnh vực còn tiềm năng như thủy sản, công nghiệp chế biến
“sâu”, xây dựng hệ thống sản xuất, hệ thống cung ứng các sản phẩm
nông sản, xúc tiến thương mại, hỗ trợ kỹ thuật sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm cũng như trong mối liên kết thị trường toàn cầu…. Ngoài ra, Ủy ban Kinh
tế đề nghị:
+ Cần đổi mới phương thức sản xuất nông
nghiệp theo hướng tăng quy mô sản xuất, tập trung hình thành vùng sản xuất
chuyên canh phải giải quyết những bất cập liên quan đến quản lý và sử dụng đất
hiện nay. Dựa trên các động lực thị trường,
giao đất theo hướng ổn định, lâu dài cho nông dân trực tiếp sản xuất, khuyến
khích nông dân được giao đất liên kết theo phương thức tập thể để tích tụ ruộng
đất nhằm phát triển sản xuất hàng hóa lớn, áp dụng khoa học, công nghệ và
cơ giới hóa để tăng hiệu quả sử dụng đất. Phát huy vai trò của Nhà nước trong
việc hỗ trợ và tạo động lực cho các thành phần kinh tế đầu tư vào các loại đất
chưa đem lại hiệu quả kinh tế như đất trống đồi núi trọc, đất rừng…
+ Kiên
quyết thực hiện quy hoạch đất nông nghiệp đã được phê duyệt đảm bảo
an ninh lương thực quốc gia. Thực hiện nghiêm Nghị quyết số 17/2011/QH13 của
Quốc hội về quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm
giai đoạn 2011-2015 cấp quốc gia[9]
.
Đối với lĩnh vực công nghiệp: Đề án chưa đưa ra được các căn
cứ khoa học trong việc định hướng phát triển ngành và sản phẩm ưu tiên gắn với
thực trạng kinh tế nước ta. Một số ngành sử dụng nhiều lao động như may
mặc, thủy sản vẫn đóng góp hiệu quả vào tăng trưởng kinh tế và giải
quyết việc làm trong vòng 10 năm tới nhưng chưa được đề cập đúng mức trong
Đề án. Ngoài ra, Đề án đã đưa ra được những tiêu chí lựa chọn ngành và
sản phẩm ưu tiên nhưng chưa đầy đủ. Vì vậy, những ngành, sản phẩm
được lựa chọn cũng như thứ tự các ngành được lựa chọn chưa thực sự thuyết
phục, chưa phù hợp với các định hướng lớn đã được Đại hội toàn quốc lần thứ XI
của Đảng thông qua.
Đa số ý kiến thành viên Ủy ban Kinh
tế đề nghị Đề án cần bám sát vào Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, cân
nhắc việc lựa chọn các ngành, sản phẩm ưu tiên phát triển để xây dựng năng lực
cạnh tranh. Đề án là bước cụ thể hóa của Nghị quyết nên cần đưa ra những tiêu
chí đánh giá phù hợp với những thay đổi về thể chế, chính sách
trong tương lai để doanh nghiệp có thể lựa chọn ngành, sản phẩm thích hợp với yêu cầu của thị trường. Ngoài ra,
đề nghị cân nhắc ưu tiên phát triển một số ngành, sản phẩm mà Việt Nam có
tiềm năng như sản phẩm nông nghiệp xanh.
Đối với lĩnh vực dịch vụ: Cần chú trọng phát triển thương
mại điện tử, dịch vụ phần mềm, dịch vụ xây dựng, vận tải, dịch vụ tài chính
và logistics… Do các lĩnh vực này có tác động hỗ trợ mạnh và tiềm năng ảnh
hưởng lớn, việc phối hợp liên ngành hiệu quả cả chiều rộng và chiều sâu trong
giai đoạn sắp tới sẽ đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội nói chung và ngành công nghiệp của Việt Nam nói riêng.
4. Những giải pháp chủ yếu
Đề án đưa ra 13 nhóm giải pháp chủ
yếu, tuy nhiên, các nhóm giải pháp chưa có sự gắn kết với nhau, cũng
như chưa thực sự đồng bộ giữa các Đề án tái cơ cấu các ngành, lĩnh vực
và thiếu các giải pháp đối với vấn đề xã hội, môi trường. Đa số ý kiến
thành viên Ủy ban Kinh tế đề nghị bổ sung một số giải pháp về mặt xã
hội và bảo vệ môi trường để đảm bảo phát triển kinh tế bền vững.
4.1. Nhóm giải pháp
liên quan đến xây dựng chương trình, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch
Đa số ý kiến thành viên Ủy ban Kinh
tế cho rằng, tồn tại lớn là quy hoạch, định hướng còn nặng theo ngành và địa phương phục vụ cho các
lợi ích ngắn hạn. Vì thế, quy hoạch tổng thể thường bị điều chỉnh, phá vỡ, hiệu
quả đầu tư thấp, cơ cấu chuyển dịch không đúng yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng bền
vững, nâng cao sức cạnh tranh.
Ủy ban Kinh tế
đề nghị bổ sung giải pháp phát triển kinh tế vùng phải đồng bộ với việc xây
dựng và thực hiện chương trình phát triển các ngành, sản phẩm ưu tiên, hình
thành mối liên kết giữa các địa phương trong vùng thông qua liên kết ngành và
phát huy lợi thế của kinh tế vùng.
4.2. Hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường
Đa số ý kiến thành viên Ủy ban Kinh
tế đồng tình với các giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường nêu
trong Đề án. Xây dựng thể chế phù hợp, nâng cao chất lượng chính sách,
tính công khai, minh bạch của chính sách và năng lực điều hành của
các cơ quan nhà nước là một trong những tiền đề quan trọng để phát
triển kinh tế. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường cũng là yêu cầu cấp bách
để đáp ứng cam kết của Việt Nam khi gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO),
theo đó chậm nhất đến 31/12/2018, Việt Nam phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường để không bị coi là quốc gia có nền kinh tế phi thị trường trong quan hệ
thương mại với các quốc gia khác[10].
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, hiện nay mới đang tiến hành quy trình sửa đổi Hiến
pháp. Cần cập nhật những tư tưởng, những quy định mới về hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường cụ thể trong Đề án.
4.3. Nhóm giải pháp
liên quan đến ổn định kinh tế vĩ mô và tái cơ cấu thị trường tài chính
Ủy ban Kinh tế cho rằng, việc phối
hợp chặt chẽ và hiệu quả chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa cũng như các
chính sách khác như thương mại, đầu tư là giải pháp hết sức quan trọng, là
nguyên tắc trong điều hành kinh tế vĩ mô để đạt được ổn định kinh tế vĩ mô và
các cân đối lớn của nền kinh tế. Đối với từng nhóm giải pháp, đề nghị bổ sung
những giải pháp sau đây:
- Với mục
tiêu phát triển thị trường tài chính lành mạnh, khắc phục hậu quả
của khủng hoảng và hạn chế mang tính hệ thống của thị trường tài
chính, cần có Đề án chung về tái cơ cấu thị trường tài chính và lộ trình
phù hợp, cụ thể:
+ Trước mắt, tập
trung xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, đảm bảo quyền lợi chính
đáng của người gửi tiền; quyền lợi và trách nhiệm của chủ sở hữu. Làm
rõ nguồn tài chính thực hiện việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng
thương mại, các tổ chức tài chính và phải có các biện pháp cụ thể để tránh
thất thoát tài sản của nhà nước.
+ Phát triển
song song cả thị trường tiền tệ và thị trường vốn, trong đó tập trung phát
triển nhanh hơn, hiệu quả hơn thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu, giảm
dần việc huy động vốn đầu tư chủ yếu từ tín dụng ngân hàng. Tái cơ cấu bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế để những dịch vụ này phát triển bền vững, phục vụ hiệu
quả nhu cầu của người dân.
+ Tái cơ cấu ngân hàng thương mại Nhà
nước cần gắn với tái cơ cấu DNNN; tăng cường năng lực giám sát thị trường
tài chính; nâng cao vai trò, trị trí của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
với tư cách là Ngân hàng Trung ương, nhất là trách nhiệm công bố mục
tiêu chính sách, minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình. Từng
bước xây dựng Ngân hàng Trung ương theo hướng độc lập thực thi chính sách
tiền tệ nhằm ổn định giá trị đồng tiền, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng
và hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống
thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo
định hướng XHCN.
- Cần xây dựng Chiến lược nợ Chính phủ và nợ
quốc gia mang tính dài hạn, bảo đảm hiệu quả trong đầu tư và khả năng trả nợ
hàng năm.
Bên cạnh các biện pháp nêu trên, Ủy
ban Kinh tế đề nghị Đề án cần tập trung làm rõ việc tái cấu trúc thị trường vốn
để phục vụ đầu tư phát triển trong điều kiện đầu tư công giảm[11].
4.4. Nhóm giải pháp
liên quan đến tái cơ cấu đầu tư bao gồm cả đầu tư công và đầu tư của các thành
phần kinh tế
- Về cách thức sử dụng các nguồn
vốn đầu tư, đề nghị Đề án làm rõ với nguồn lực có hạn hiện nay, cần ưu tiên
đầu tư công vào lĩnh vực nào, nhiều ý kiến thành viên Ủy ban Kinh tế đề nghị
cần tập trung phát triển khoa học, công nghệ ứng dụng ở những ngành, lĩnh
vực ưu tiên tạo giá trị gia tăng lớn. Tập trung sử dụng nguồn vốn vay nước
ngoài của các DNNN có bảo lãnh của Chính phủ cho các dự án trọng điểm trong
sản xuất- kinh doanh có tính hiệu quả, tập trung vào cơ sở hạ tầng và những sản
phẩm có lợi thế cạnh tranh trong hiện tại và dài hạn. Bên cạnh đó, cần có
tổng kết, đánh giá thực tiễn áp dụng hình thức hợp tác công tư (PPP) vừa
qua và kinh nghiệm của các nước trên thế giới, hoàn thiện khung pháp
lý trước khi mở rộng hình thức này.
- Về cách thức
quản lý các nguồn vốn, cần thiết lập mô hình quản lý tài chính cho các
dự án đầu tư công, phân loại, sắp xếp hợp lý căn cứ vào tính chất nguồn vốn
hình thành, khắc phục trùng lắp, chồng chéo giữa các nguồn vốn và khó
quản lý, kém hiệu quả hiện nay.
4.5. Nhóm giải pháp
liên quan đến tái cơ cấu doanh nghiệp
Ủy ban Kinh tế đề nghị Đề án xây
dựng hệ thống thể chế với ưu tiên đầu tiên là xây dựng cơ chế quản lý minh bạch
của DNNN, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phải cạnh tranh bình đẳng. Sử dụng
vốn và tài sản có hiệu quả, giảm dần và loại trừ các chi phí ngoài kinh
doanh, công bố minh bạch thông tin định kỳ rộng rãi trước công chúng.
Đối với doanh nghiệp khu vực tư nhân, việc tái cơ cấu cần chú trọng tăng năng
lực quản trị doanh nghiệp, tăng tính minh bạch hoạt động, kết quả tài
chính, tiến tới huy động vốn trên thị trường vốn để đầu tư mở rộng sản
xuất-kinh doanh khi có nhu cầu, giảm phụ thuộc vào đầu tư công và vốn tín dụng
thương mại ngân hàng.
Đối với trọng tâm là tái cơ
cấu DNNN, hầu hết các thành viên Ủy ban Kinh tế đề nghị không sử dụng DNNN là một công cụ
điều tiết kinh tế vĩ mô, bình ổn nền kinh tế mà DNNN có nhiệm vụ quan
trọng là đi trước, mở đường ở những ngành, lĩnh vực mà các doanh nghiệp
thuộc thành phần khác không đủ năng lực, những ngành đòi hỏi về vốn
và công nghệ, tạo nền tảng cơ bản cho những ngành sản xuất công nghệ
hiện đại có giá trị gia tăng cao. Việc thoái vốn của các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước ra khỏi các ngành kinh doanh không liên quan nhiệm vụ sản xuất,
kinh doanh chính, nhất là trong lĩnh vực tài chính liên quan chặt chẽ đến đề án
tái cơ cấu thị trường tài chính, nên cần có
lộ trình thực hiện một cách cẩn trọng để tránh gây đột biến lớn đối với nền
kinh tế.
Ngoài ra, kiên quyết tách bạch
nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận với các nhiệm vụ an sinh
xã hội khác không vì mục tiêu lợi nhuận. Cần hạn chế tối đa trách nhiệm chính
trị - xã hội đối với các DNNN, nhiệm vụ này do chính sách tài khóa và chính
sách an sinh xã hội thực hiện.
Cần đánh giá một cách khách quan, toàn diện
chương trình thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước để từ đó có chính sách
tiếp theo cho phù hợp như: Ban hành Luật quản lý việc sử dụng vốn nhà nước
vào mục đích đầu tư, kinh doanh tại các doanh nghiệp Nhà nước. Cải cách hệ
thống quản trị đối với các DNNN và xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt
động của DNNN. Nghiên cứu thành lập cơ quan quản lý vốn nhà nước tương
đối độc lập và được trao đầy đủ thẩm quyền. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về
tổ chức và mô hình hoạt động của tập đoàn kinh tế, kinh doanh lành mạnh theo
nguyên tắc thị trường, trước mắt giảm tối đa tính độc quyền của tập đoàn, tổng
công ty, hoàn thiện mô hình công ty mẹ - công ty con[12].
Hoàn thiện cơ chế người đại diện phần vốn nhà
nước tại doanh nghiệp trên cơ sở làm rõ địa vị pháp lý, mối quan hệ với cơ quan
quản lý vốn, cơ quan quản lý nhà nước.
4.6. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Ủy ban Kinh tế
thấy rằng, đề án chưa nêu bật giải pháp tận dụng thời kỳ “cơ cấu vàng”
về dân số như một động lực quan trọng để tăng trưởng kinh tế, cần
nâng cao đóng góp của lao động trong tăng trưởng kinh tế ở mức hợp
lý, phù hợp với từng thời kỳ. Việc hiện đại hóa trong nông nghiệp
theo hướng tăng quy mô sản xuất, tập trung phát triển vùng sản xuất chuyên
canh, áp dụng kỹ thuật sản xuất hiện đại sẽ làm giảm nhu cầu sử dụng
lao động trong khu vực nông nghiệp, cần có các giải pháp, chính sách
phù hợp để giải quyết vấn đề việc làm cho lực lượng lao động dư
thừa này. Đa số ý kiến thành viên Ủy ban Kinh tế đề nghị bổ sung giải
pháp cho vấn đề này, đồng thời nhấn mạnh giải pháp tạo liên kết chặt chẽ giữa
quy hoạch các khu kinh tế, vùng kinh tế và quy hoạch các trung tâm dạy
nghề, các cơ sở giáo dục và đào tạo phù hợp với đặc trưng về tập
quán, văn hóa - xã hội của từng địa phương.
Ngoài các nhóm giải pháp chủ yếu
trên, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ cần lượng hóa giải pháp được tính toán
bằng kết quả như một “bài toán” thì rõ tính khả thi và thuyết phục hơn.
5. Tổ chức thực hiện
Đa số ý kiến
thành viên Ủy ban Kinh tế cho rằng, cần hình thành một tổ chức chịu trách nhiệm
giúp Quốc hội, Chính phủ thực hiện Đề án này. Nếu cần thiết, Quốc hội xem xét,
trao cho tổ chức này có một số thẩm quyền nhất định để thực hiện nhiệm vụ.
Xin kính trình Quốc hội xem xét,
cho ý kiến./.
Nơi nhận:
- Các vị đại biểu Quốc hội;
- Lãnh đạo Vụ
Kinh tế (để tham mưu, phục vụ);
- Lưu: HC, KT.
|
TM. ỦY BAN KINH TẾ
CHỦ NHIỆM
(đã ký)
Nguyễn Văn Giàu
|
[1] Trong đó
nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 20,6%, công
nghiệp và xây dựng chiếm 41%, dịch vụ chiếm xấp xỉ 40% GDP.
[2] Các đột phá cơ bản được áp
dụng trong giai đoạn này bao gồm: (i) đột phá về tư duy chính trị, tư duy kinh
tế để xóa bỏ các ràng buộc về thể chế quản lý kinh tế, quản lý nhà nước từ mô hình
kinh tế kế hoạch hóa tập trung; (ii) nông nghiệp được coi trọng đổi mới thông
qua các chính sách như Chỉ thị 100, Khoán 10 với mục tiêu cơ bản ổn định được
đời sống của nhân dân; (iii) sản xuất hàng tiêu dùng thay thế hàng nhập khẩu;
(iv) thực hiện tổng thể các biện pháp chống cấm vận thông qua bước đột phá là
thúc đẩy thương mại Việt - Trung; (v) thực hiện đột phá, đổi mới về nhân sự…
[3] Các đột phá chính trong thời
kỳ này có thể nêu ra: (i) tiếp tục chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước
ngoài và đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính; (ii) đẩy mạnh công tác cổ phần
hóa DNNN; (iii) ưu đãi dành cho doanh nghiệp chế biến thủy sản, dệt may, da dày
xuất khẩu; (iv) hội nhập sâu, rộng vào kinh tế quốc tế…
[4]
Bao gồm: (1) Tái cơ cấu hệ thống các TCTD mà trọng tâm là các ngân hàng thương
mại; (2) Tái cơ cấu thị trường chứng khoán và các định chế tài chính; (3) Tái
cơ cấu DNNN và phát triển mạnh quy mô và nâng cao chất lượng dân doanh; (4) Tái
cơ cấu đầu tư mà trọng tâm là đầu tư công; (5) Tái cơ cấu ngành kinh tế và cơ
cấu vùng kinh tế.
[5] Theo báo cáo của Bộ KH&ĐT,
tái cơ cấu đầu tư công đã được triển khai từ tháng 11/2011 bằng Quyết định 1792
của Thủ tướng Chính phủ. Ngày 01/03/2012, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành
Quyết định số 254/2012/QĐ-TTg phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ ngân hàng thương
mại và Quyết định số 252/2012/QĐ-CP phê duyệt chiến lược phát triển thị
trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
[6] Ví
dụ, ngày 12/4/2012, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 432/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững
Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
[7] Hiện nay tỷ trọng sản xuất nông nghiệp trong cơ cấu
nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn khá lớn (80%); kinh tế nông thôn còn nặng về nông
nghiệp thuần (chiếm tới 65%); cơ cấu cây trồng và vật nuôi chưa có thay đổi
đáng kể; ngành thủy sản phát triển chưa đồng bộ cả trong nuôi trồng, đánh bắt,
chế biến và các dịch vụ hậu cần khác, cần có sự hỗ trợ của nhà nước
trong một số khâu.
[8] Tỷ trọng ngành nông, lâm,
ngư nghiệp năm 2005 là 20,7% GDP, năm 2010 là 20,6% GDP tức là cả giai đoạn
2005-2010 tỷ trọng nông nghiệp chỉ giảm 0,1%.
[9] Duy trì 3,812 triệu ha đất trồng lúa, trong
đó duy trì 3,222 triệu ha đất chuyên trồng lúa nước 2 vụ trở lên.
[10] Việt
Nam chấp nhận bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm (từ 12/2006 đến
muộn nhất là ngày 31/12/2018). Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu Việt Nam chứng
minh được với đối tác nào là kinh tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế
thị trường thì đối tác đó ngừng áp dụng chế độ “phi thị trường” đối với Việt
Nam. Chế độ “phi thị trường” chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá
giá. Các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù đối với
hàng xuất khẩu của Việt Nam dù bị coi là nền kinh tế phi thị trường.
[11] Việc tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán
phát triển bền vững là một kênh huy động vốn đầu tư rất phù hợp với yêu cầu
phát triển bền vững, vừa giảm áp lực đối với hệ thống tổ chức tín dụng trong việc
đáp ứng vốn đầu tư của xã hội, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình
cổ phần hóa DNNN, thực hiện IPO các tập đoàn, tổng công ty đã cổ phần hóa để thực
hiện thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo đề án tái cơ cấu DNNN. Mặt khác
khi doanh nghiệp đã tham gia thị trường chứng khoán thì tạo thêm một kênh giám
sát của xã hội, của nhà đầu tư đối với tài chính doanh nghiệp, làm hạn chế phát
sinh tiêu cực.
[12] Theo nguyên tắc chủ sở hữu
(công ty mẹ) được quyền định đoạt vốn, tài sản của công ty con theo quy định
của pháp luật; lành mạnh hóa quan hệ sở hữu trong nội bộ tập đoàn, tổng công ty
theo hướng không cho phép công ty con đầu tư ngược trở lại vào công ty mẹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét