CHÍNH PHỦ
Số: 110/BC-CP
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do –
Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 17
tháng 5 năm 2012
|
BÁO
CÁO
Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với
chuyển đổi mô hình tăng
trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả, năng suất và
năng lực cạnh tranh
Kính gửi: Đại biểu Quốc hội khoá XIII
Thực hiện Nghị quyết số 11/2011/QH13 ngày 09 tháng 11 năm 2011 của
Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2012,
Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Kế hoạch và
Đầu tư chủ trì, phối hợp cùng các Bộ, cơ quan có liên quan khẩn trương soạn
thảo, hoàn thiện nội dung Đề án tổng thể tái cơ cấu
kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả,
năng suất và năng lực cạnh tranh.
Trong quá trình soạn thảo, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư đã nhiều lần trực tiếp trao đổi, tham vấn rộng rãi với các nhà
khoa học, cán bộ nghiên cứu, các chuyên gia tư vấn độc lập, đại diện một số
hiệp hội doanh nghiệp và các nhà tài trợ có liên quan thông qua các cuộc hội
thảo khoa học.; đã gửi Đề án xin ý kiến các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ; đã trình Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội để thẩm tra sơ bộ;
đã giới thiệu các nội dung cơ bản của Đề án đến các Đại biểu Quốc hội chuyên
trách và báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc để xin ý kiến.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư dưới sự chỉ
đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ đã nghiên cứu và tiếp thu một cách nghiêm
túc tất cả các ý kiến đóng góp để hoàn thiện và nâng cao chất lượng của Đề án.
Đề
án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng gồm năm
phần:
Phần I: nêu sự cần
thiết của tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng;
Phần II: xác định mục
tiêu và nguyên tắc tái cơ cấu kinh tế;
Phần III: trình bày nội dung, định hướng cơ bản tái cơ cấu kinh
tế;
Phần IV: trình bày hệ thống các nhóm
giải pháp để tái cơ cấu kinh tế;
Phần
V: tổ chức thực
hiện.
Cải
cách kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong hơn 25 năm qua đã đạt
được những thành tựu to lớn trên nhiều mặt. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung
bình hàng năm giai đoạn 2001-2010 là 7,26%; GDP theo giá thực tế năm 2011 đã
gấp hơn 3,8 lần so với năm 2000; từ năm 2010, nước ta đã trở thành quốc gia có
mức thu nhập trung bình thấp theo xếp hạng của Ngân hàng thế giới. Đã đạt được
thành tích vượt bậc về xóa đói giảm nghèo; năm 2011 số hộ nghèo giảm xuống còn
khoảng gần 12%. Cơ cấu kinh tế đã từng bước chuyển đổi tích cực theo hướng hiện
đại; cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã được cải thiện đáng kể cả về số lượng và
chất lượng; một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao đã hình thành và bước
đầu phát triển; đã thu hẹp đáng kể khoảng cách phát triển so với các nền kinh
tế khác trong khu vực[1]. Kinh
tế vĩ mô trong suốt thời kỳ cơ bản duy trì ổn định; các cân đối lớn của nền
kinh tế nhìn chung vẫn được bảo đảm.
Tuy vậy, nền kinh tế nước ta hiện nay đã bộc lộ không ít
yếu kém nội tại. Tăng trưởng GDP tuy vẫn ở mức tương đối cao nhưng đang có xu
hướng chậm lại; chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế còn thấp. Quy mô các ngành kinh tế còn nhỏ và phân tán; sản xuất công
nghiệp phần lớn còn ở dạng gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng nội địa thấp. Đa số các sản phẩm có đóng góp lớn trong GDP và
kim ngạch xuất khẩu đều là sản phẩm nông nghiệp, thủy sản và khoáng sản, các
sản phẩm công nghiệp sơ chế và dịch vụ phục vụ tiêu dùng thâm dụng nhiều lao
động phổ thông. Số ngành, lĩnh vực có công nghệ tiên tiến, hiện đại còn ít;
công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, còn mất cân đối
lớn giữa các khâu trong chuỗi sản xuất và cung ứng. Cơ cấu thành phần kinh tế,
cơ cấu đầu tư và cơ cấu lao động còn bất hợp lý; hiệu quả đầu tư và năng suất
lao động còn thấp; chưa thu hẹp được khoảng cách về năng suất lao động so với
các nước trong khu vực.
Trong khi tốc độ tăng trưởng giảm sút, thì lạm phát luôn
ở mức cao[2]. Các cân đối vĩ mô (gồm cân đối cán cân vãng lại, cân
đối ngân sách, cân đối tiết kiệm nội địa và đầu tư xã hội, dữ trự ngoại tệ quốc
gia.v.v.) chưa vững chắc, nợ nước ngoài và nợ công ở mức cao; nợ xấu ngân hàng
có xu hướng gia tăng. Vì vậy, bất ổn kinh tế vĩ mô luôn là vấn đề phải quan tâm
hàng đầu trong mấy năm gần đây. Từ đầu năm 2011 Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã
phải điều chỉnh mục tiêu chính sách, ưu tiên tập trung các giải pháp kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội.
Thực tế nói trên do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách
quan, bao gồm:
Một là, các yếu tố của tăng trưởng theo chiều rộng đã đến
mức tới hạn; động lực tăng trưởng phụ thuộc vào gia tăng vốn đầu tư, gia tăng
số lượng lao động,.v.v... đã yếu và đang giảm dần. Trong khi đó, các động lực
của tăng trưởng theo chiều sâu chưa được cải thiện để bù đắp những thiếu hụt
của tăng trưởng theo chiều rộng. Hệ quả là, tiềm năng tăng trưởng của nền kinh
tế đang giảm, và bản thân nền kinh tế nước ta hiện nay tự nó không có khả năng đạt
mức tăng trưởng cao như trước đây. Tuy vậy, gia tăng vốn đầu tư dưới các hình
thức và kênh khác nhau vẫn là công cụ chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng. Để đáp
ứng yêu cầu nói trên, chính sách tài khoá và tiền tệ mở rộng đã phải duy trì liên
tục trong nhiều năm; là một trong các nguyên nhân quan trọng của lạm phát cao
và bất ổn kinh tế vĩ mô trong thời gian gần đây.
Nhận thức rõ yếu kém và giới hạn của mô hình tăng trưởng
hiện nay, Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định “đổi mới mô hình
tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế” là định hướng tổng quát của phát triển
kinh tế-xã hội thời kỳ 2011-2020; đồng thời, yêu cầu phải “chuyển đổi mô hình
tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa
chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng,
hiệu quả và tính bền vững”.
Hai là, cùng với
duy trì quá lâu mô hình tăng trưởng theo chiều rộng không còn phù hợp, thì chủ
trương, chính sách và cách thức quản lý, điều hành nền kinh tế ở các cấp, các
ngành chưa thay đổi kịp thời; cơ chế quản lý nhà nước đối với phân bố và sử
dụng nguồn lực quốc gia chưa thật sự hiệu quả, chưa khắc phục được các điểm
nghẽn kìm hãm gia tăng năng suất và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của
nền kinh tế. Môi trường kinh doanh còn nhiều rủi ro và bất hợp lý, chưa thực sự
khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân đầu tư lớn, dài hạn vào đổi mới, nâng cao
trình độ công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Bên cạnh những khó khăn nội tại ở trong nước, trong mấy năm
qua nền kinh tế nước ta luôn phải đối mặt với những tác động bất lợi từ khủng
hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, khủng hoảng nợ công châu Âu,.v.v... Vì
vậy, những yếu kém vốn có của nền kinh
tế, của mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế không những chậm được khắc phục,
mà còn nặng nề hơn.
Thực tế nói trên cho thấy việc tái cơ
cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI và Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương Khóa
XI đã trở nên cần thiết và cấp bách.
Tái cơ cấu kinh tế giai đoạn 2011-2020 và định hướng đến
năm 2030 nhằm hướng đến mục tiêu tổng quát và bốn mục tiêu thành phần.
Mục tiêu tổng quát của tái cơ cấu kinh tế đến năm 2020 là
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực xã
hội, nâng cao năng suất lao động, năng suất các yếu tố tổng hợp và năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế; trên cơ sở đó, hình thành cơ cấu kinh tế hợp
lý và năng động hơn, có năng lực cạnh tranh cao hơn và có tiềm năng tăng trưởng
lớn hơn; thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng
trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, góp phần đạt được các
chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội[3]
mà Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đã xác định; đồng thời, chuyển
đổi nền kinh tế nước ta sang thời tăng trưởng dựa chủ yếu vào các nhân tố gia
tăng năng suất, gia tăng hiệu quả; từ 2020 tiếp tục cũng cố và phát triển vững
chắc các yếu tố tăng năng suất và hiệu quả, tạo tiền đề đưa nền kinh tế nước ta
chuyển lên trình độ phát triển cao hơn vào khoảng cuối 2030[4].
Bốn mục tiêu thành phần của tái cơ
cấu kinh tế bao gồm:
Một là, đảm bảo tăng trưởng kinh tế
ở mức hợp lý, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô một cách vững chắc với lạm phát
thấp và các nền tảng vĩ mô vững mạnh; và giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã
hội;
Hai là, thiết lập phát triển cân đối hợp lý
giữa các địa phương, vùng miền trên cơ sở phát huy lợi thế của từng địa phương,
từng vùng và sự hỗ trợ có hiệu quả từ Trung ương;
Ba là, cải thiện, nâng cấp trình độ
phát triển các ngành kinh tế nói riêng và nền kinh tế nói chung thông qua việc các
ngành sử dụng công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao từng bước thay thế các
ngành công nghệ thấp, thâm dụng lao động và giá trị gia tăng thấp để trở thành
những ngành kinh tế chủ lực của nền kinh tế;
Bốn
là, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập quốc tế và
củng cố vị thế quốc gia trong quan hệ quốc tế; giữ vững ổn định chính trị,
bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
2. Quan điểm tái cơ cấu kinh tế
Tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình
tăng trưởng là một trong các nội dung và nhiệm vụ chủ yếu của Kế hoạch 5 năm
2011-2015 và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020. Vì vậy, để đảm bảo
tính thống nhất và đồng bộ trong tổ chức thực hiện Kế hoạch và Chiến lược, việc
tái cơ cấu kinh tế cần tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
Một là, thực hiện tăng trưởng hợp lý, bền vững và ưu tiên chất
lượng tăng trưởng; đó là tăng trưởng đi đôi với kiểm soát lạm phát, ổn định giá
trị đồng tiền, đảm bảo cân đối vĩ mô vững chắc; tăng trưởng đi kèm với xóa đói
giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, giảm dần bất bình đẳng về thu nhập; bảo tồn
các giá trị văn hóa dân tộc truyền thống tiêu biểu và thân thiện với môi
trường.
Hai là, tái cơ cấu kinh tế phải gắn liền với tiếp tục đổi
mới, mở cửa, tích cực và chủ động hội nhập
quốc tế; phải thu hút sự hưởng ứng và tham gia tích cực của người dân và
các thành phần kinh tế, nhất là tư nhân trong nước và nước ngoài, qua đó, huy
động được tối đa và sử dụng ngày càng hiệu quả hơn các nguồn lực xã hội. Vì
vậy, cần phải tiếp tục đổi mới tư duy, phân định rõ vai trò, chức năng của Nhà
nước và thị trường; tiếp tục đổi mới mở rộng quy mô và hiệu quả hoạt động của
các loại thị trường, đảm bảo ngày càng đầy đủ hơn quyền tự do và cơ hội kinh doanh của người dân và doanh nghiệp; bảo
đảm các nhân tố sản xuất dịch chuyển và phân bố chủ yếu theo tín hiệu của thị
trường. Cùng với việc nâng cao năng lực và hiệu lực quản trị quốc gia, Nhà nước
chuyển mạnh sang vai trò kiến tạo và hỗ trợ phát triển thông qua cơ chế, chính
sách và các đòn bẩy kinh tế, hạn chế dần đầu tư kinh doanh và can thiệp hành
chính vào thị trường.
Ba là, bên cạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, tái cơ cấu kinh tế phải coi trọng và phát huy các lợi thế về nông nghiệp,
phát triển mạnh kinh tế dịch vụ, du lịch đảm bảo xây dựng cơ cấu kinh tế đa
dạng về quy mô các loại hình và ngành, nghề kinh doanh, về trình độ phát triển,
có khả năng thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của tình hình phát triển kinh
tế và thương mại quốc tế; tạo thế và lực cho tăng trưởng kinh tế xanh, bền vững
và ổn định.
Bốn là, tái cơ cấu kinh tế gắn với
chuyển đổi mô hình tăng trưởng là nhiệm vụ lớn, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi
phải được triển khai đồng bộ ở tất cả các ngành, các cấp, các lĩnh vực trên
phạm vi cả nước và ở từng địa phương, đơn vị cơ sở trong thời gian dài nhiều
năm. Đồng thời, các giải
pháp tái cơ cấu kinh tế phải được sắp xếp hệ thống và tuần tự theo thời gian,
theo tính chất của từng nội dung và mối liên kết giữa các vấn đề cần giải
quyết. Theo đó, việc triển khai thực hiện phải kiên quyết và nhất quán, nhưng
tuần tự, từng bước, vững chắc; vừa triển khai, vừa đánh giá và rút ra các kinh
nghiệm để điều chỉnh nếu xét thấy cần thiết, hạn chế tối đa mất mát và phí tổn
trong thực hiện các giải pháp tái cơ cấu kinh tế.
1. Về tái cơ cấu
kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Tái
cơ cấu tổng thể nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng là quá trình
phân bố lại các nguồn lực trên phạm vi quốc gia và toàn bộ nền kinh tế để nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế; trên
cơ sở đó, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và năng động hơn, có năng lực cạnh
tranh cao hơn và có tiềm năng tăng trưởng lớn hơn; nâng trình độ của các ngành
kinh tế nói riêng và nền kinh tế nói chung lên mức phát triển cao hơn.
Quá trình nói trên diễn ra trong trạng thái tĩnh và trạng
thái động. Ở trạng thái tĩnh, trọng
tâm tái cơ cấu kinh tế là làm cho các nguồn lực hiện có được sử dụng có
hiệu quả hơn, lao động có năng suất cao hơn và từ đó, năng lực cạnh tranh cũng
được cải thiện hơn (đây gọi là hiệu quả kỹ thuật).
Ở trạng thái động, hiệu quả sử dụng các nguồn lực, năng
suất lao động và năng lực cạnh tranh được cải thiện (gọi là hiệu quả phân bố)
nhờ dịch chuyển và phân bố lại nguồn lực quốc gia giữa các ngành, lĩnh vực khác
nhau theo tín hiệu của thị trường hoặc theo chỉ dẫn của các chính sách có liên
quan. Các nhân tố sản xuất phải được
phân bố và dịch chuyển từ ngành, từ hoạt động kinh doanh có năng suất thấp sang
các ngành, các hoạt động kinh doanh có năng suất lao động cao hơn; lao động sẽ
được phân bố và chuyển dịch đến các ngành, các vùng và các doanh nghiệp có tiền
lương cao hơn; và đất đai, tài nguyên cũng phải được phân bố cho những nhà đầu
tư, những dự án sử dụng có hiệu quả cao hơn.
Tái cơ cấu kinh tế trong điều kiện cụ thể của nước ta
hiện nay bao gồm 2 nội dung chủ yếu: tái cơ cấu ưu tiên trước mắt và tái cơ cấu
trọng tâm, lâu dài.
2. Về nội dung ưu tiên
trước mắt của tái cơ cấu kinh tế
Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương Khoá XI đã
xác định ba lĩnh vực ưu tiên tái cơ cấu trong 5 năm tới, bao gồm: tái cơ cấu
đầu tư với trọng tâm là đầu tư công, tái cơ cấu thị trường tài chính với trọng
tâm là tái cơ cấu hệ thống các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính,
và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn và tổng công
ty nhà nước.
- Tái cơ cấu thị trường tài
chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống các ngân hàng thương mại và tổ chức
tài chính, trước hết là để loại bỏ nguy cơ mất an toàn đối với hệ thống tài
chính nói riêng và nền kinh tế nói chung, đồng thời, tạo điều kiện để hệ thống
tài chính phát triển bền vững và thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng trung
gian tài chính và chuyển tải tác động của chính sách tiền tệ đến khu vực doanh
nghiệp và hộ gia đình; làm tiền đề thúc đẩy tái cơ cấu trên các lĩnh vực khác
của nền kinh tế. Trong
giai đoạn 2011 - 2015, tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng tập trung lành
mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động, hiệu lực quản trị,
cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng; nâng
cao trật tự, kỷ cương của quản lý nhà nước và đảm bảo nguyên tắc thị trường trong hoạt
động ngân hàng.
- Tái cơ cấu đầu tư mà trọng tâm là
đầu tư công sẽ tập trung vào đổi mới căn bản cơ chế và cách thức huy động,
phân bố, quản lý và sử dụng vốn đầu tư xã hội theo định hướng sau đây:
Một là, huy động hợp lý tổng đầu tư xã hội, đồng thời bảo đảm các cân đối
lớn của nền kinh tế, bao gồm: cân đối giữa tiết kiệm và tiêu dùng, cân đối tiết
kiệm nội địa và đầu tư, cân đối ngân sách, cân đối cán cân thanh toán, nợ công
và nợ nước ngoài.
Hai là, duy trì tỷ trọng hợp lý đầu
tư công trong tổng đầu tư xã hội đi đôi
với tăng cường huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác và cải thiện
hiệu quả đầu tư, nhất là đầu tư công.
Ba là, xác định cụ thể lĩnh vực ưu tiên
đầu tư của nhà nước, trước hết, tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
đồng bộ với một số công trình hiện đại, phát triển nguồn nhân lực và các ngành
không thể thiếu cho phát triển kinh tế - xã hội mà tư nhân không đầu tư, hoặc
không thể đầu tư; đồng thời, đổi mới cơ chế quản lý đảm bảo các dự án có hiệu
quả kinh tế - xã hội cao nhất trong các lĩnh vực ưu tiên đầu tư sẽ được lựa
chọn và thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả nhất.
Bốn là, mở rộng phạm vi và cơ hội cho đầu tư tư nhân, nhất là tư nhân trong
nước. Đối với các ngành, lĩnh vực mà các nhà đầu tư tư nhân chưa muốn
làm, thì khuyến khích họ làm; đối với những ngành mà các nhà đầu tư tư nhân
chưa làm được thì tạo điều kiện và hỗ trợ họ làm; đồng thời, đổi mới chế độ khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ đầu
tư để thu hút đầu tư vào phát triển các
ngành ưu tiên phát triển và vùng kinh tế động lực.
- Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước tập trung thực hiện
đồng thời trên ba nội dung sau đây:
Một là, xác định rõ vai trò, chức
năng của từng loại doanh nghiệp nhà nước (công ích, quốc phòng, an ninh, điều
tiết ổn định kinh tế vĩ mô và vì phát triển quốc gia, nhưng các thành phần kinh
tế khác không đầu tư) để từ đó sắp xếp, phân loại, cơ cấu lại danh mục đầu tư
và ngành nghề kinh doanh, tập trung vào các ngành nghề kinh doanh chính; cổ
phần hóa, đa dạng hóa sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước không cần nắm giữ 100%
sở hữu; thoái vốn ở các doanh nghiệp Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần đa số.
Hai là, đổi mới, phát triển và áp
dụng khung quản trị hiện đại theo thông lệ quốc tế đối với các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước.
Ba là, áp đặt đầy đủ kỷ cương nhà nước và kỷ luật thị trường
buộc các DNNN phải hoạt động đầy đủ theo cơ chế thị trường và cạnh tranh bình
đẳng như các doanh nghiệp khác.
3. Về nội dung trọng tâm và lâu dài của tái cơ cấu kinh tế
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đã xác
định trọng tâm của tái cơ cấu kinh tế là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ
phù hợp với các vùng, thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược
thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh
của sản phẩm, của doanh nghiệp và của nền kinh tế.
Tái cơ cấu ngành sản xuất và dịch vụ phù hợp với các vùng
được thực hiện theo ba định hướng cơ bản: định hướng chung, định hướng cụ
thể đối với công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, và định hướng các ngành ưu
tiên phát triển.
a. Về định hướng chung: tái cơ cấu chủ yếu thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành và nội bộ ngành, và toàn bộ nền kinh tế. Đó
là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế công, nông nghiệp và dịch vụ theo hướng giảm dần
tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp, tăng tương ứng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; chuyển
dịch trong nội bộ ngành theo hướng chuyển từ tiểu ngành, sản phẩm hoặc công
đoạn sản xuất có công nghệ thấp, năng suất thấp và giá trị gia tăng thấp sang
tiểu ngành, sản phẩm hoặc công đoạn sản xuất có hàm lượng khoa công công nghệ
cao, năng suất và giá trị gia tăng cao. Thực
hiện tái cơ cấu nội bộ ngành theo cách “vừa tuần tự tiệm tiến, vừa tăng tốc đột
phá”[5]. Và kết quả cuối cùng là chuyển dịch được trình độ phát triển
và năng lực cạnh tranh của kinh tế nước
ta lên mức phát triển cao hơn.
b. Về định hướng cụ thể đối với nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ:
- Đối với nông, lâm, ngư nghiệp: khai thác và tận dụng tốt các lợi thế của nông nghiệp nhiệt đới bằng cách: xây dựng và
phát triển các vùng chuyên canh qui mô lớn theo hình thức trang trại, gia trại,
khu nông nghiệp công nghệ cao đạt các tiêu chuẩn quốc tế phổ biến về an toàn vệ
sinh thực phẩm; kết nối sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến, dịch vụ
bảo quản và xuất khẩu, tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, với chuỗi giá trị
toàn cầu đối với các sản phẩm: cà phê, chè, cao su, ca cao, hạt tiêu, hạt điều,
cá da trơn, tôm và hải sản khác, lúa gạo, ngô vầ đậu tương ,.v.v... Đối với
nhóm sản phẩm có nhu cầu nội địa lớn nhưng mức độ cạnh tranh trung bình, như
gia cầm, trứng, thịt lợn, cây ăn quả,.v.v… thì duy trì quy mô và phương thức
sản xuất đa dạng, phù hợp với điều kiện thực tế của từng vùng.
- Đối với công nghiệp: thực hiện tái cơ cấu sản xuất công
nghiệp cả về ngành kinh tế kỹ thuật, vùng và giá trị mới, tăng hàm lượng khoa
học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm; chuyển mạnh từ gia
công, lắp ráp là chủ yếu sang chế tạo và chế tác, kết nối với mạng sản xuất và chuỗi cung ứng giá trị toàn
cầu đối với các ngành, sản phẩm hiện có lợi thế cạnh tranh như chế biến
lương thực, thực phẩm, nước giải khát các loại, may mặc, giày da và các sản
phẩm da, vật liệu xây dựng các loại, cáp điện, các sản phẩm gia dụng, các loại
sản phẩm nhựa, sản phẩm phục vụ du lịch,
điện tử và công nghiệp công nghệ thông tin. .v.v.. Đồng thời, tập trung
phát triển một số ngành ưu tiên và công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp phục vụ phát
triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
- Đối với lĩnh vực dịch vụ: thực hiện phát triển lĩnh vực dịch vụ với cơ cấu đa dạng về loại
hình dịch vụ và trình độ phát triển, gồm dịch vụ phát triển kinh doanh, dịch vụ
phục vụ tiêu dùng, dịch vụ thông thường thâm dụng lao động và dịch vụ hiện đại
công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao. Tập trung phát triển các ngành, sản
phẩm dịch vụ có lợi thế cạnh tranh như: dịch vụ thương mại, dịch vụ xây dựng,
khách sạn, nhà hàng, du lịch, viễn thông, tài chính-ngân hàng, dịch vụ
logistics, giáo dục và đào tạo, chăm sóc y tế, các loại dịch vụ sản xuất nông
nghiệp; đồng thời, hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch với sản phẩm du
lịch chất lượng cao, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, có năng
lực cạnh tranh tầm khu vực và quốc tế. Nâng cao hơn nữa tốc độ tăng trưởng và tỷ
trọng của các ngành, sản phẩm dịch vụ chất lượng cao.
c. Định hướng tái cơ cấu theo các ngành ưu tiên phát
triển[6]: là để tiếp tục tăng cường, củng cố và phát triển năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cho giai
đoạn tiếp theo. Các ngành, sản phẩm ưu tiên phát triển dự kiến bao gồm: hoá dầu;
điện tử và công nghiệp công nghệ thông tin; luyện kim, cơ khí chế tạo, công nghiệp
xanh và năng lượng tái tạo, các sản phẩm nông nghiệp có lợi thế cạnh tranh cao
(cà phê, chè, cao su, ca cao, hạt tiêu, hạt điều, cá da trơn, tôm, lúa gạo,.v.v…),
dịch vụ logistics (vận tải
hàng hóa, cảng biển, dịch vụ hải quan, kho bãi và bảo quản hàng hóa, dịch vụ
phân phối,.v.v..); dịch vụ phát triển kinh doanh; dịch vụ du lịch.
d. Về cơ cấu thị trường: định hướng cơ bản là tiếp tục đa dạng hoá
thị trường tiêu thụ, gồm cả thị trường nội địa, mở các thị trường mới (Ấn Độ,
các nước Nam Á khác, châu Phi và Trung Đông, Mỹ La-tinh), đồng thời, ưu tiên
khai thác và tận dụng tối đa cơ các cơ hội từ thị trường xuất khẩu trọng điểm,
chiến lược (Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, EU, ASEAN, Úc); khai thác tốt hơn các
thị trường truyền thống Đông Âu. Coi trọng và phát triển mạnh thị trường trong
nước.
e. Về
vai trò của Nhà nước và doanh nghiệp, người đầu tư: thì
doanh nghiệp, nhà đầu tư có vai trò quyết định trong tái cơ cấu và chuyển dịch
theo cách tuần tự, tiệm tiến. Nhà nước đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, xây dựng
môi trường kinh doanh bình đẳng với rủi ro thấp và các đòn bẩy khuyến khích hợp
lý để thị trường thực sự phân bổ tốt các nguồn lực từ doanh nghiệp, ngành và
vùng sử dụng kém hiệu quả sang doanh nghiệp, ngành và vùng sử dụng có hiệu quả
hơn. Còn doanh nghiệp, nhà đầu tư hoàn toàn tự chủ lựa chọn, quyết định về chiến lược sản phẩm và thị trường, xây dựng và thực thi
kế hoạch nâng cao sức cạnh tranh thông qua việc phát triển, ứng dụng khoa học
công nghệ, đạo tạo và tuyển chọn nhân lực, đổi mới tổ chức quản lý và áp dụng phương
thức quản lý phù hợp, phát triển văn hoá và tạo dựng giá trị mang bản sắc riêng
của doanh nghiệp.
- Đối
với tái cơ cấu và chuyển dịch tăng tốc, đột phá, thì vai trò của Nhà nước là
quan trọng hơn nhiều. Ngoài các yếu tố nói trên, Nhà nước còn kiến tạo và hỗ trợ phát triển bằng việc xác định
ngành ưu tiên phát triển, trực tiếp hoặc tham gia đầu tư dưới các hình thức
thích hợp, trực tiếp xây dựng cơ sở hạ tầng cứng và hạ tầng mềm, dẫn dắt, định
hướng và lôi kéo các nhà đầu tư và các bên khác có liên quan cùng tham gia thực
hiện chương trình tăng tốc, đột phá phát triển các ngành, sản phẩm ưu tiên.
- Tái cơ cấu các ngành sản xuất và
dịch vụ như trình bày trên đây sẽ kéo theo tái cơ cấu vùng kinh tế và tái cơ
cấu, phân bố lại lực lượng lao động theo ngành, theo vùng kinh tế cả về số
lượng, chất lượng.
Các
phận phận hợp thành nội dung cơ bản của tái cơ cấu kinh tế có liên quan và kết
nối với nhau thành hệ thống, phối hợp và bổ sung cho nhau, cùng tác động theo
hướng nâng cao hiệu quả kỷ thuật và hiệu
quả phân bố của nền kinh tế, qua đó, hình thành cơ cấu kinh tế(cơ cấu ngành và
vùng kinh tế) năng động và hợp lý hơn, năng lực cạnh tranh và tiềm năng phát
triển cao hơn.
[1] . Ví
dụ, GDP bình quân đầu người theo đô la sức mua tương đương của Thái Lan năm
1995 cao gấp 4,4 lần so với GDP bình quân đầu người của nước ta, nhưng đến năm
2008 đã giảm xuống chỉ còn 2,2 lần. Tương tự, khoảng cách này của nước ta so với
Singapore đã giảm từ gần 27 lần xuống còn gần 18 lần, so với Indonesia đã giảm
từ 2,3 lần xuống còn 1,4 lần; so với Hàn quốc đã giảm từ 13 lần xuống còn 10,4
lần,.v.v…
[2] Lạm phát trung
bình giai đoạn 2000-2005 là 5,1%/năm, và trung bình cho giai đoạn 2006-2010 là
11,4%/ năm. Năm 2011 tỷ lệ lạm phát dự kiến có thể lên đến 18% so với năm 2010.
Từ năm 2007, lạm phát luôn ở mức hai con số (trừ năm 2009), cao hơn nhiều so
với tốc độ tăng trưởng và thuộc vào một trong số các nền kinh tế có lạm phát
cao trên
thế giới.
[3] Các mục tiêu đó là: đến năm 2020 yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp khoảng
35% cho tăng trưởng kinh tế; giá trị công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công
nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP, giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo
chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp, giảm tiêu hao năng lượng
tính trên GDP 2,5 – 3% hàng năm; tỷ trọng các
ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP; nông nghiệp có bước
phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị
gia tăng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động; tỷ
lệ lao động nông nghiệp khoảng 30-35% lao động xã hội; gia tăng hợp lý tỷ trọng
dịch vụ, đến năm 2020, khu vực dịch vụ chiếm khoảng 43-44% GDP.
[4] Theo Diễn đàn kinh tế Thế giới,
thì quá trình phát triển của một quốc gia gồm 3 thời kỳ. Thời kỳ đầu là tăng
trưởng theo chiều rộng với số lượng các nhân tổ sản xuất là động lực của tăng
trưởng. Thời kỳ thứ hai là nền kinh tế tăng trưởng nhờ các yếu tố gia tăng năng
suất như đào tạo nghề và giáo dục trình độ cao, thị trường hàng hóa, thị trường
lao động vận hành tốt, thị trường tài chính phát triển, có khar năng và mức độ
sẵn sang cao trong tiếp nhận và đổi mới cồng nghệ, tính hoàn hảo, phong phú và
quy mô của nhu cầu thị trường. Thời kỳ thứ ba là thời kỳ tăng trưởng chủ yếu dựa
vào phát triển và sáng tạo công nghệ với độ tinh vi và hoàn hảo của khu vực
doanh nghiệp. Tất cả các nước công nghiệp phát triển hiện đang ở thời kỳ thứ ba
của quá trình phát triển.
[5] Thực hiện tái cơ cấu, chuyển dịch cơ cấu một cách “tuần tự tiệm tiến” đối với các ngành mà công nghệ vệ cơ bản ít
thay đổi. Đối với các ngành có công nghệ
thay đổi nhanh, thực hiện tăng tốc đột phá về phát triển và nâng cấp cơ cấu
kinh tế bằng cách chọn và áp dụng ngay từ đầu loại công nghệ hiện đại nhất. Nói
cách khác, một khi ngành ưu tiên tăng tốc đã được chọn, thì phải lựa chọn và sử
dụng công nghệ thuộc loại hiện đại nhất và áp dụng phương thức tổ chức sản xuất
và quản lý tiên tiến nhất để phát triển ngành đó.
[6] .Các tiêu chí làm
căn cứ để lựa chọn các ngành, sản phẩm loại này bao gồm: tiêu chí về tăng trưởng, tiêu chí về
lợi ích trực tiếp, tiêu chí về mức độ liên kết ngành, tiêu chí về độ rủi ro của
ngành, tiêu chí về ứng dụng công nghệ, không quá xa so với trình độ phát triển
hiện nay ở nước ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét