Chủ Nhật, 27 tháng 5, 2012

(2) UBKT thẩm tra KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ NĂM 2011 VÀ 4 THÁNG ĐẦU NĂM 2012

QUỐC HỘI KHÓA XIII
UỶ BAN KINH TẾ


 
Số:  431/BC-UBKT13
  CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


 
Hà Nội, ngày  18  tháng 5 năm 2012

BÁO CÁO
thẩm tra đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011, tình hình triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012

Để chuẩn bị cho Kỳ họp Thứ 3 của Quốc hội, ngày 14/5/2012, Ủy ban Kinh tế đã tổ chức phiên họp toàn thể để xem xét, thẩm tra Báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011, tình hình triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong những tháng đầu năm 2012. Tham dự phiên họp có đại diện Thường trực Hội đồng dân tộc, một số Ủy ban của Quốc hội và lãnh đạo một số Bộ, ngành, cơ quan hữu quan.

Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội, trên cơ sở Báo cáo của Chính phủ, ý kiến của các đại biểu dự họp; qua tổng hợp ý kiến của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, một số Đoàn ĐBQH, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các chuyên gia kinh tế, nhà khoa học và qua giám sát, khảo sát thực tế, Ủy ban Kinh tế thay mặt Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội xin báo cáo một số ý kiến như sau: 



PHẦN I
ĐÁNH GIÁ BỔ SUNG KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI
VỀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2011

Tại Kỳ họp Thứ 2, Chính phủ đã báo cáo về tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 9 tháng và ước thực hiện 3 tháng cuối năm 2011; Ủy ban Kinh tế đã trình Quốc hội báo cáo thẩm tra, trong đó dự kiến 16/22 chỉ tiêu đạt và vượt Kế hoạch. Đến nay, đánh giá lại kết quả thực hiện, có 15/22 chỉ tiêu đạt và vượt theo Nghị quyết của Quốc hội, so báo cáo tại Kỳ họp Thứ 2 chỉ có thêm 1 chỉ tiêu không đạt theo Nghị quyết.


Tăng trưởng kinh tế năm 2011 đạt 5,89%, đặc biệt khu vực nông nghiệp đã tăng đến 4%, mức cao nhất trong vòng ba năm qua và cao hơn khá nhiều so với trung bình 10 năm trở lại đây; sản lượng lúa đạt 42,4 triệu tấn, tăng 2,3 triệu tấn so với năm 2010, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia và đóng góp đáng kể tăng tổng kim ngạch xuất khẩu. Các cân đối vĩ mô tiếp tục được cải thiện. Kim ngạch xuất khẩu tăng cao, góp phần vào việc giảm dần tỷ lệ nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và ổn định tỷ giá ngoại tệ[1]. Cán cân vốn và tài chính có sự cải thiện đáng kể với nguồn vốn đầu tư nước ngoài giải ngân và đăng ký mới ổn định trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn[2]. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã có xu hướng giảm dần kể từ tháng 5/2011. Bội chi ngân sách đạt 4,9% GDP[3], dư nợ công bằng 52,9% GDP (đến hết 31/12/2010 là 57,3% GDP); dư nợ Chính phủ bằng 41,9% GDP (đến hết 31/12/2010 là 45,7% GDP); dư nợ nước ngoài của Quốc gia bằng 41,1% GDP (đến hết 31/12/ 2010 là 42,2% GDP). Các chỉ số này đã cải thiện đáng kể và thể hiện tăng tính an toàn an ninh tài chính quốc gia.
Công tác an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm[4]. Tỷ lệ hộ nghèo giảm trên 2%, trong đó riêng 62 huyện nghèo giảm trên 4,5% đạt cao hơn mục tiêu đề ra. Công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đã có những chuyển biến tích cực trên một số mặt. Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai nhiều biện pháp, đẩy mạnh thực hiện các quy định về công khai, minh bạch trong sử dụng ngân sách, tài sản công, kinh phí chi tiêu nội bộ. Việc thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đã chủ động nắm bắt, đánh giá tình hình, triển khai lực lượng, phương án tăng cường bảo vệ chủ quyền vùng biển, biên giới, tạo điều kiện và hỗ trợ nhân dân làm kinh tế trên các vùng biển, ngăn chặn kịp thời các hoạt động vi phạm chủ quyền lãnh thổ nước ta.
Nguyên nhân của những kết quả đạt được trên là do Đảng, Nhà nước nhận định, đánh giá sát tình hình, kịp thời có định hướng chỉ đạo và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp với diễn biến mới[5]. Đồng thời tập trung chỉ đạo, điều hành với quyết tâm cao, quyết liệt, thống nhất và kiên định theo các mục tiêu đã đề ra là nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định kết quả thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô và duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý.
Tuy nhiên, một số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế, ý kiến của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội đề nghị cần đánh giá sâu sắc hơn các mặt tồn tại, về từng chỉ tiêu đạt, không đạt, nguyên nhân đối với các chỉ tiêu không đạt theo kế hoạch đề ra, nhất là các nguyên nhân chủ quan. Có ý kiến đề nghị cần báo cáo giải trình thêm về một số số liệu như tỷ lệ giảm nghèo, tạo việc làm mới, tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh... để thấy rõ thực trạng, có giải pháp khắc phục và tăng tính thuyết phục hơn.
Một số ý kiến cho rằng, lạm phát rất cao, tác động lớn đến sản xuất và đời sống. Trong báo cáo có nêu nguyên nhân là do cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng chưa hợp lý, do nới lỏng chính sách tài khóa, tiền tệ trong nhiều năm, nhưng đề nghị cần đánh giá một cách toàn diện hơn, vì trong vài năm qua với các nguyên nhân này mà kiểm soát lạm phát vẫn chưa ổn định, có năm rất cao, có năm lại thấp.
Đối với quản lý ngân sách, mặc dù áp dụng cắt giảm chi thường xuyên 10%, chi ngân sách năm 2011 vẫn vượt 13,8% so với dự toán và hơn 28,58% so với năm 2010 (so với 642,2 nghìn tỷ đồng), trong đó chi đầu tư phát triển đã tăng 27,5% so với dự toán, chủ yếu là tăng chi đầu tư do tăng thu từ đấu giá quyền sử dụng đất. Một số ý kiến đề nghị cần xem xét, báo cáo về chất lượng công tác lập dự toán thu, chi ngân sách nhà nước, tính bền vững của các nguồn thu, vấn đề kỷ luật ngân sách. Có ý kiến đề nghị Chính phủ tiếp tục dành thêm một phần vượt thu để ưu tiên giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống mức thấp hơn.
Một số ý kiến cho rằng, cần có đánh giá toàn diện hơn chính sách hỗ trợ của Nhà nước về thuế, về mức độ, liều lượng, thời điểm áp dụng đã được thực hiện trong năm 2011; đồng thời đánh giá, phân tích nguyên nhân dư nợ tín dụng tăng khá thấp so với mức kế hoạch về định hướng chính sách, việc áp dụng chính sách lãi suất cho vay và nguyên nhân các doanh nghiệp khó khăn trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng; hàng tồn kho tăng cao[6], suy giảm năng lực tài chính của doanh nghiệp và gia tăng chiếm dụng vốn lẫn nhau[7]. Đánh giá, phân tích sâu, kỹ vì sao khu vực công nghiệp và xây dựng có mức tăng trưởng thấp, cả năm chỉ đạt 5,53%. Đặc biệt GDP khu vực công nghiệp quý IV so với cùng kỳ năm trước chỉ tăng 3,08%, là mức rất thấp so với những năm trước đó. Với tình hình có đến 53.792 doanh nghiệp phá sản, giải thể hoặc ngừng hoạt động, tăng 24,7% so với năm 2010 cho thấy những khó khăn đối với việc thực hiện chỉ tiêu tạo việc làm mới và gây áp lực gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Một số ý kiến đề nghị đánh giá thực chất số doanh nghiệp phá sản, giải thể ngừng hoạt động, nhất là những tác động tiêu cực đến đóng góp vào tăng trưởng GDP, thu ngân sách, thu hút số lượng lao động trong năm 2011 và mức độ ảnh hưởng những năm tiếp theo.
Nhiều ý kiến trong Ủy ban Kinh tế, của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội cho rằng, mặc dù chỉ tiêu giảm nghèo đạt và vượt so với kế hoạch đề ra, nhưng giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân, nhất là hộ nghèo và cận nghèo, người có thu nhập thấp, các đối tượng chính sách và tình trạng tái nghèo có chiều hướng gia tăng. Chi phí y tế tăng nên người dân vẫn phải chi trả khoảng 50% cho việc khám chữa bệnh; vốn trái phiếu Chính phủ bố trí cho bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh gặp nhiều khó khăn, bệnh viện chuyên khoa ở Trung ương chỉ đạt 78%, cùng với việc cắt giảm đầu tư công đã dẫn tới đầu tư dở dang một số công trình bệnh viện, gây lãng phí. Tình trạng quá tải ở các bệnh viện công (150%-200%) vẫn là vấn đề bức xúc trong xã hội, một số dịch bệnh chưa được ngăn chặn triệt để. Việc thực hiện nhiệm vụ, bố trí ngân sách trong lĩnh vực khoa học và công nghệ còn bộc lộ một số hạn chế: hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí chưa cao; sự phối hợp giữa các bộ, ngành có liên quan trong việc phân bổ, sử dụng còn bất cập; việc xây dựng và sử dụng Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ gặp nhiều khó khăn, đa số địa phương chưa thành lập được quỹ này; rất ít doanh nghiệp dành 10% lợi nhuận trước thuế cho phát triển khoa học và công nghệ.
Một số ý kiến lo ngại về một số vụ việc liên quan đến khiếu nại, tố cáo của công dân xử lý chưa dứt điểm[8], chưa đúng pháp luật gây bức xúc trong xã hội[9]; vẫn còn tình trạng lợi dụng các vụ khiếu kiện đông người về đất đai, các vụ đình công để kích động biểu tình, gây mất ổn định trật tự, an toàn xã hội[10]. Việc xử lý các hành vi xâm hại môi trường còn nhẹ, chưa có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Các vụ lừa đảo, chiếm đoạt tài sản xảy ra nhiều, có tình trạng dân sự hóa quan hệ hình sự dẫn đến bỏ lọt tội phạm và không thu hồi được tài sản trả cho người bị hại. Tình trạng tham nhũng chưa có khuynh hướng giảm; kết quả thanh tra, kiểm toán tuy đã phát hiện được nhiều tiêu cực, tham nhũng gây thiệt hại lớn về tiền và tài sản của Nhà nước nhưng việc xử lý còn nhẹ, nặng về xử lý hành chính.
Tóm lại, trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều diễn biến phức tạp, những kết quả đạt được trong thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 là rất quan trọng, là sự cố gắng, nỗ lực rất lớn của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên, với một số chỉ tiêu chủ yếu không đạt, trong đó đáng chú ý có 2 chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế và chỉ số giá tiêu dùng thực hiện thấp so với Kế hoạch, chưa tạo đà cho 4 năm còn lại của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm; cùng với chỉ tiêu tạo việc làm mới thấp hơn mức kế hoạch, số liệu về lượng hàng tồn kho và số doanh nghiệp phá sản, giải thể, tạm ngừng hoạt động tăng lên cũng đặt ra nhiều thách thức, khó khăn cho năm 2012, nhất là quá trình tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đang trong giai đoạn chuẩn bị, nền kinh tế nước ta chưa tạo được bước đột phá về công nghệ, nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng để tăng năng suất, hiệu quả đầu tư, nguồn vốn huy động cho sản xuất, kinh doanh còn hạn chế, phụ thuộc quá nhiều vào kênh tín dụng ngân hàng trong điều kiện ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. 



PHẦN II
TRIỂN KHAI THỰC HIỆN THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI
VỀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2012
1. Dự báo tình hình kinh tế thế giới
Những tháng đầu năm 2012, kinh tế thế giới tiếp tục trải qua những biến động phức tạp. Tăng trưởng của các nền kinh tế có triển vọng không đồng đều[11] và nguy cơ suy thoái kinh tế vẫn còn rất cao[12]. Nợ công tiếp tục là vấn đề lớn nhất của năm 2012, ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin thị trường[13]. Tại các nước châu Á, mục tiêu kiềm chế lạm phát song song với việc duy trì một mức tăng trưởng kinh tế hợp lý đang nổi lên là thách thức hàng đầu. Khủng hoảng nợ công tại châu Âu đã ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu của các nước châu Á. Áp lực đặt ra cho nhiều nước châu Á là phải bảo đảm mức lãi suất cho vay kích thích hoạt động sản xuất để hỗ trợ tăng trưởng và ngăn ngừa suy thoái, trong khi đó nguy cơ lạm phát cao quay trở lại vẫn luôn tiềm ẩn[14].
2. Tình hình triển khai và kết quả đạt được những tháng đầu năm 2012
Trong 4 tháng đầu năm, Chính phủ, bộ, ngành, địa phương nghiêm túc triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội; tiếp tục kiên định thực hiện các mục tiêu đã đề ra là ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo an sinh xã hội. Kinh tế 4 tháng đầu năm đạt được một số kết quả nhất định như Báo cáo Chính phủ đã nêu, nổi bật là chỉ số giá tiêu dùng tăng chậm lại và mức thấp hơn nhiều so với cùng kỳ các năm trước; tỷ giá ngoại tệ bình quân trên thị trường liên ngân hàng duy trì ổn định; tổng kim ngạch xuất khẩu tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao; cán cân thanh toán tiếp tục được cải thiện, dự trữ ngoại hối tăng lên; sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định. An sinh xã hội được bảo đảm, ổn định trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Đến tháng 5, lãi suất ngân hàng đã giảm dần, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Việc các thành viên Chính phủ tổ chức đối thoại trực tiếp công chúng trong thời gian gần đây đã gia tăng lòng tin, nhất là những vấn đề nhạy cảm về thị trường và xã hội; cách làm này vừa minh bạch thông tin, vừa tăng trách nhiệm giải trình của các thành viên Chính phủ.
Tuy nhiên, khó khăn, thách thức là rất lớn với dấu hiệu suy giảm kinh tế và những vấn đề an sinh xã hội nảy sinh, cụ thể như sau:
- GDP quý I tăng trưởng ở mức 4% thấp nhất trong vòng hai năm trở lại đây (quý I/2010 tăng 5,84%, quý I/2011 tăng 5,57%)[15], thấp hơn dự kiến của Chính phủ là 5%-6% và quý II dự kiến tăng khoảng 4,5%, như vậy sẽ khó đạt mục tiêu tăng trưởng 6%-6,5% của cả năm 2012.
- Doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn, sản xuất công nghiệp bị đình đốn, kim ngạch nhập khẩu giảm[16], sức tiêu thụ chậm[17] là chỉ báo đáng lo ngại về sự suy giảm năng lực sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Số doanh nghiệp giải thể, ngừng họat động gia tăng làm tăng thêm nguy cơ thất nghiệp, mất việc làm cho người lao động trên cả nước[18]. Xuất khẩu 4 tháng đầu năm tăng ở mức khá (22,1% so với cùng kỳ) nhưng xuất khẩu từ khu vực doanh nghiệp trong nước tăng rất thấp[19]; một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực sụt giảm[20].
- Sản xuất, xuất khẩu lúa gạo vẫn xảy ra tình trạng “được mùa, mất giá” trong thời kỳ đầu vụ, các giải pháp giao doanh nghiệp thu mua lúa gạo tạm trữ như thời gian qua chỉ mang tính giải quyết tình thế. Giá nhóm lương thực giảm liên tục 4 tháng: tháng 1 giảm 0,14%, tháng 2 giảm 0,41%, tháng 3 giảm 1,21%, tháng 4 giảm 1,69%, trong đó khu vực đồng bằng Sông Cửu Long có giá nhóm lương thực giảm nhanh nhất.
- Thanh khoản của một số ngân hàng đã cải thiện đáng kể thể hiện qua thị trường liên ngân hàng đã bớt căng thẳng thời gian gần đây[21]; mặc dù vậy, gần 4 tháng đi qua đến ngày 20/4/2012 tổng dư nợ tín dụng vẫn còn tăng trưởng âm, chỉ số lạm phát thấp nhưng lãi suất cho vay vẫn còn cao, đã tác động mạnh hai mục tiêu: rất tích cực và hiệu quả đối với mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát nhưng khá ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh và yêu cầu tăng trưởng hợp lý[22]. Rủi ro dư nợ xấu gia tăng và nhằm đảm bảo an toàn vốn là nguyên nhân dẫn đến chuyển dịch dòng tiền tín dụng sang các kênh đầu tư, kinh doanh an toàn hơn trong vài tháng qua như mua trái phiếu Chính phủ và tín phiếu của Ngân hàng Nhà nước thay vì tăng trưởng dư nợ[23].
Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Tai nạn giao thông tuy giảm nhưng vẫn còn rất nghiêm trọng, ùn tắc giao thông giảm chưa rõ nét. Nhiều vụ cháy nổ xảy ra gây thiệt hại lớn, vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm gây tâm trạng lo lắng đối với người dân. Tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội, chống người thi hành công vụ vẫn diễn biến phức tạp, chưa được đẩy lùi. Một số vụ việc phát sinh ảnh hưởng sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân, tác động xấu trong dư luận xã hội[24], nhất là những vụ liên quan khiếu kiện đất đai và các vi phạm ở một vài tập đoàn kinh tế nhà nước mà Thanh tra Chính phủ vừa mới công bố gần đây.
3. Về phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới
Đa số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội cho rằng, ổn định kinh tế vĩ mô của nền kinh tế nước ta vẫn còn nhiều thách thức. Trong điều kiện đang tiến hành khởi động mạnh quá trình tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, việc xử lý giữa mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý cho năm 2012 đặt ra yêu cầu kết hợp thật chặt chẽ, liên tục giữa các cơ chế, chính sách, giải pháp trước mắt và cho cả trung, dài hạn, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo quyết liệt, tập trung, thống nhất hơn để phát huy tối đa sức mạnh nội lực của cả đất nước, trong đó duy trì và củng cố niềm tin, kịp thời thông tin chính xác, đưa ra các tín hiệu chính sách vĩ mô đúng để định hướng thị trường và tạo điều kiện cho thị trường tự vận động theo quy luật khách quan là yếu tố quan trọng.
Hầu hết ý kiến trong Ủy ban Kinh tế cho rằng, việc duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng là góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Do vậy, đề nghị tiếp tục kiên định mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Nghị quyết của Quốc hội đã đề ra cho năm 2012, nhưng cần điều hành linh hoạt, chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để phát triển sản xuất, kinh doanh, nhất là phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, khắc phục tình trạng hàng hóa tồn kho tăng cao; quan tâm nhiều hơn đến phát triển thị trường trong nước; ưu tiên tín dụng cho các lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động.
4. Một số kiến nghị về nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới
Các thành viên Ủy ban Kinh tế, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội nhất trí với nội dung Báo cáo của Chính phủ, chưa đặt ra yêu cầu điều chỉnh các chỉ tiêu chủ yếu nhưng đề nghị Chính phủ cần có các phương án để chủ động trong điều hành, quyết định chính sách kịp thời, hợp lý phù hợp với diễn biến tình hình. Đa số ý kiến đề nghị cần tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đã nêu trong Nghị quyết của Quốc hội; cơ bản tán thành với các nhóm nhiệm vụ, giải pháp bổ sung cần tập trung thực hiện trong những tháng còn lại của năm 2012 trong Báo cáo của Chính phủ, đồng thời nhấn mạnh một số nhiệm vụ, giải pháp dưới đây:
(1) Tiếp tục kiên định với mục tiêu ưu tiên hàng đầu là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Điều hành chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt, phối hợp hài hòa giữa chính sách tài khóa và tiền tệ để kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 10%, một mặt tăng cường ổn định vĩ mô, mặt khác duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý. Tăng cường khả năng dự báo tình hình kinh tế vĩ mô để kịp thời có chính sách và giải pháp điều chỉnh thích hợp. Theo dõi chặt chẽ diễn biến thị trường trong và ngoài nước, kịp thời áp dụng các biện pháp điều tiết cung - cầu, bình ổn thị trường, nhất là những mặt hàng thuộc diện bình ổn giá, những mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống, không để xảy ra thiếu hàng, tạo ra sốt giá. Có biện pháp hiệu quả để bảo đảm cung ứng hàng hóa thiết yếu cho các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao, biên giới, hải đảo, nhất là trong những thời điểm khó khăn, thiên tai, dịch bệnh. Tăng cường kiểm tra, giám sát phân bổ chi ngân sách cho giáo dục, y tế, công trình giao thông bảo đảm đúng Nghị quyết của Quốc hội, kể cả tình hình nợ XDCB, tạm ứng của các địa phương, gây ảnh hưởng đến cân đối NSNN. Sớm chỉ đạo tổng hợp tình hình vay nợ và nợ thanh toán khối lượng hoàn thành của các dự án sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và biện pháp xử lý đối với các dự án nợ khối lượng, dự án tạm dừng, giãn tiến độ, không sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp Thứ 4 năm 2012.
(2) Thực hiện các biện pháp triệt để tiết kiệm, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả đầu tư, sản xuất, kinh doanh, đồng thời tăng cường các biện pháp phát triển thị trường, giới thiệu sản phẩm, hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, giảm tình trạng tồn đọng hàng hóa. Có giải pháp cụ thể nâng cao năng lực quản trị của các doanh nghiệp theo hướng hiệu quả, cạnh tranh và minh bạch thông tin, nhất là đối với các doanh nghiệp nhà nước. Có chính sách, biện pháp tháo gỡ khó khăn về tiếp cận vốn và giảm lãi suất cho vay nhanh hơn đối với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nhưng phải bám sát tín hiệu thị trường và triển vọng nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, bảo đảm chất lượng tín dụng và an toàn hệ thống, ngăn ngừa nợ xấu tăng cao; thận trọng, chặt chẽ trong việc nới lỏng tín dụng cho các khu vực phi sản xuất; đồng thời tránh những can thiệp hành chính liên quan đến cơ cấu lại nợ, gia hạn nợ, giãn nợ.
(3) Tổng kết, đánh giá việc thực hiện các chính sách miễn, giảm thuế đối với một số ngành, lĩnh vực đã triển khai. Việc thực hiện một số chính sách thuế để hỗ trợ các doanh nghiệp cần được tiến hành song song với việc cơ cấu lại nguồn thu, chi theo hướng hiệu quả, bền vững hơn nhằm hỗ trợ tích cực doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn và chuẩn bị cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Việc ban hành các loại phí cần có quá trình nghiên cứu, chuẩn bị thận trọng; thực hiện theo lộ trình, phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, không làm tăng chi phí của doanh nghiệp, không gây khó khăn thêm cho người hưởng lương từ ngân sách, người lao động, người dân, tránh gây bức xúc trong xã hội và ảnh hưởng đến lòng tin.
(4) Khẩn trương hoàn thành và triển khai thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Các nội dung tái cơ cấu cụ thể trong từng Đề án thành phần phải có sự đồng bộ, thống nhất, gắn với điều kiện, nguồn lực khả thi cao, bảo đảm gắn kết với quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, theo đó ổn định vĩ mô là nền tảng căn bản, thể chế, nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng đồng bộ sẽ là những yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh trong dài hạn. Sớm công bố Đề án tổng thể để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động xây dựng lại chiến lược sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực quản trị, đổi mới cơ cấu doanh nghiệp và cơ cấu sản phẩm một cách thích hợp.
(5) Rà soát cơ chế, chính sách, pháp luật để tăng cường hiệu lực quản lý, kiểm soát chặt chẽ vốn và tài sản nhà nước. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện các quy định về công khai, minh bạch trong sử dụng ngân sách, tài sản công, kinh phí chi tiêu nội bộ.
(6) Tiếp tục đẩy nhanh triển khai các chính sách liên quan đến vấn đề lao động việc làm, an sinh xã hội, đặc biệt là hỗ trợ lao động tại các khu công nghiệp tập trung, các làng nghề. Tăng cường thanh tra, kiểm tra xử lý nợ đọng bảo hiểm xã hội; quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp; xây dựng các thể chế hỗ trợ quan hệ lao động tại các doanh nghiệp. Nghiên cứu phân cấp quản lý quỹ bảo hiểm y tế cho các địa phương nhằm huy động sức mạnh trong việc vận động nhân dân tham gia bảo hiểm y tế và kịp thời xử lý tình trạng thâm hụt quỹ bảo hiểm y tế có khả năng tăng cao khi áp dụng giá viện phí mới.
(7) Tăng cường công tác đối ngoại; quan tâm mở rộng thị trường, tập trung xúc tiến thương mại nhằm khôi phục các thị trường truyền thống và mở thêm các thị trường mới nhiều tiềm năng.
(8) Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông, an toàn thực phẩm, an toàn lao động... kịp thời giải quyết những bức xúc của nhân dân. Tăng cường kiểm tra, hướng dẫn, phòng ngừa, xử lý ô nhiễm môi trường, cháy nổ, nhất là ở những điểm nóng, bức xúc, trong đó tập trung xử lý ô nhiễm nguồn nước, xử lý chất thải rắn ở các đô thị, khu công nghiệp, xử lý ô nhiễm môi trường các làng nghề, khu dân cư tập trung; kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học dùng trong nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản.
(9) Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý nghiêm đối với những hành vi vi phạm pháp luật, chống người thi hành công vụ. Xét xử nghiêm các vụ án tham nhũng, trước hết là những vụ án nghiêm trọng, phức tạp mà dư luận xã hội đang quan tâm. Các cơ quan có thẩm quyền thông báo công khai kết quả xử lý cán bộ vi phạm, khả năng thu hồi vốn, tài sản trong các vụ vi phạm của các tập đoàn kinh tế nhà nước do Thanh tra Chính phủ kết luận và công bố.
(10) Tiếp tục tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, chủ động ngăn ngừa và loại trừ những nguyên nhân có thể dẫn đến làm phức tạp tình hình. Thường xuyên tuần tra biên giới, bầu trời và vùng biển kịp thời phát hiện và xử lý những vấn đề nảy sinh đảm bảo cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xin kính trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến./.



Nơi nhận:
- Các đại biểu Quốc hội;
- Lưu: HC, KT.
TM. ỦY BAN KINH TẾ
CHỦ NHIỆM
(đã ký)
Nguyễn Văn Giàu


[1] Xuất khẩu đạt 96,9 tỷ USD, tăng 34,2% so với năm 2010 gấp hơn 3 lần chỉ tiêu kế hoạch và là mức tăng cao nhất từ trước đến nay; trong đó 14 mặt hàng xuất khẩu chủ lực có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 2 tỷ USD. Tỷ lệ nhập siêu 10,16% thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu được Quốc hội thông qua là không quá 18% và là mức thấp nhất trong 5 năm qua. Cán cân thanh toán tổng thể năm 2011, thặng dư khoảng 2,56 tỷ USD, cải thiện đáng kể so với mức thâm hụt 3,1 tỷ USD của năm 2010.

[2]
Lượng vốn cấp mới và tăng thêm vốn của các nhà đầu tư nước ngoài ước đạt 14,696 tỷ USD; vốn giải ngân ước đạt 11 tỷ USD bằng với mức cùng kỳ 2010.

[3]
Đã giảm rất nhiều so với mức 5,8% của 2010 và thấp hơn mức 5,3% kế hoạch.

[4]
Nguồn kinh phí chi cho công tác an sinh xã hội đạt 84.000 tỷ đồng, tăng 20%; dư nợ tín dụng ưu đãi thực hiện chính sách xã hội tăng 17% so với năm 2010. Đã chi trên 3.000 tỷ đồng từ nguồn dự phòng ngân sách Nhà nước để thực hiện khắc phục hậu quả thiên tai dịch bệnh, xử lý các công trình đê, kè, sạt lở cấp bách, giảm thiệt hại do thiên tai gây ra.

[5]
Nghị quyết số 51/2010/QH12 của Quốc hội, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ, Kết luận số 02/KL-TW của Bộ Chính trị tập trung ưu tiên hàng đầu cho việc kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội, coi đây vừa là nhiệm vụ cấp bách trong năm 2011, vừa là nhiệm vụ quan trọng trong một vài năm tiếp theo.

[6]
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 1/12/2011 tăng 23% so với cùng kỳ năm trước; trong đó các ngành có tồn kho cao là: sản xuất gốm, sứ tăng 96,8%; sản xuất xi măng, vôi, vữa tăng 64,1%; sản xuất phân bón tăng 57%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 41,7%.

[7]
Đến 31/12/2011, các khoản phải thu ngắn hạn tăng 23% so với cùng kỳ năm 2010 và tăng 79% so với cùng kỳ năm 2009.

[8]
Đến hết năm 2011 cả nước còn 528 vụ khiếu kiện phức tạp, tồn đọng kéo dài.

[9]
Ví dụ vụ việc cưỡng chế thu hồi đất tại huyện Tiên Lãng (Hải Phòng).

[10]
Vụ việc ở Văn Giang, Hương Yên.

[11]
Trong khi các nền kinh tế châu Âu vẫn gặp nhiều khó khăn, kinh tế Mỹ đã có dấu hiệu khởi sắc. Kinh tế Mỹ đang phục hồi mạnh hơn dự báo, có thể đạt tăng trưởng 2,4% trong năm 2012, do có những tín hiệu tích cực từ thị trường việc làm, lĩnh vực nhà đất.

[12]
IMF tháng 1/2012 dự báo kinh tế thế giới 2012 sẽ chỉ tăng trưởng 3,3% (giảm 0,7% so với dự báo tháng 9/2011). Dự báo mới nhất của IMF trong tháng 4/2012 đã điều chỉnh tăng trưởng toàn cầu năm 2012 là 3,5%, tuy nhiên nhấn mạnh triển vọng kinh tế dù đang hồi phục hết sức mong manh. WB cũng hạ mạnh dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2012 xuống 2,5%, thấp hơn dự báo 3,6% vào tháng 6 năm 2011.

[13]
Khủng hoảng nợ công tại châu Âu đã đẩy hàng loạt quốc gia bên bờ vực phá sản. Nợ công của Mỹ tính đến 9/1/2012 đã bằng cả quy mô nền kinh tế.

[14]
Mặc dù lạm phát vẫn ở mức cao, trong qúy I/2012, Chính phủ các nước châu Á, như Thái Lan, Indonexia, Malaysia, Ấn Độ đã hạ lãi suất hoặc không thay đổi lãi suất để bảo vệ cho nền kinh tế khỏi tác động của khủng hoảng nợ công châu Âu. Xu hướng nới lỏng chính sách tiền tệ đang rõ nét ở châu Á trong bối cảnh giá dầu tăng trở lại làm tăng áp lực lạm phát lên khu vực này trong thời gian tới.

[15]
Đánh giá cả giai đoạn, mức tăng này cũng chỉ cao hơn mức tăng của năm 1999 là 3,4%.

[16]
Đáng chú ý nhập khẩu từ khối các doanh nghiệp FDI tăng 25,9%, trong khi đó nhập khẩu của khối doanh nghiệp trong nước giảm 11,9%.

[17]
Trong quý I, cả nước có 17.800 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký khoảng 100,3 nghìn tỷ đồng, giảm 6% về số lượng doanh nghiệp và giảm 10% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2011. Cùng đó, số doanh nghiệp đã làm thủ tục giải thể là 2.400 doanh nghiệp và có 11.600 doanh nghiệp đăng ký ngừng hoạt động có thời hạn hoặc dừng thực hiện nghĩa vụ thuế. Như vậy, số doanh nghiệp gặp khó khăn phải giải thể, tạm ngừng hoạt động tăng khoảng 9% so với cùng kỳ năm trước. Riêng số doanh nghiệp đã hoàn tất thủ tục giải thể tăng 62,18%. Đã xảy ra tình trạng nợ đọng thuế do chiếm dụng thuế vì lãi suất cho vay cao hơn lãi suất phạt chậm nộp thuế. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 4/2012 tăng 4,3% là mức tăng thấp nhất trong vòng 3 năm qua (cùng kỳ 2010 là 7,9% và 2011 là 10%) báo động năng lực sản xuất đang suy giảm. Trong số 32 mặt hàng chủ yếu của ngành công nghiệp thì có đến 18 ngành có tốc độ tăng trưởng giảm. Chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao đột biến, đến cuối tháng 3/2012 tăng 34,9% so với cùng thời điểm năm 2011. Trong khi đó, chỉ số tiêu thụ chỉ tăng 0,5% so với cùng kỳ. Chi phí đầu vào như xăng dầu, điện, khí đốt, chi phí nhân công tăng cao, tình trạng tồn kho và lãi suất cho vay cao đã ảnh hưởng và tác động mạnh đến hoạt động của các doanh nghiệp. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 569,7 nghìn tỷ đồng, tăng 21,8% so với cùng kỳ năm trước. Nếu loại trừ yếu tố giá thì chỉ tăng 5% là mức tăng rất thấp so với trung bình hàng năm (loại trừ yếu tố giá, năm 2010 tăng 14,4% so với cùng kỳ; năm 2011 tăng 6,7% so với cùng kỳ) thể hiện tiêu dùng ngày càng giảm đi. Kim ngạch nhập khẩu quý I chỉ tăng 6,1% so với cùng kỳ năm 2011, giảm mạnh so với mức tăng cùng kỳ năm trước (23,8%).

[18]
4 tháng đầu năm 2012, có 171.639 người đăng ký thất nghiệp, tăng 61,4% so với cùng kỳ năm 2011.

[19]
Chỉ tăng 4,3% , thấp hơn nhiều so với cùng kỳ mức tăng 34% của năm 2010.

[20]
Xuất khẩu gạo giảm 27,8% (28,1% về lượng), cà phê giảm 7,9%; xuất khẩu cao su tăng về lượng (32,9%) nhưng do giá giảm nên tổng kim ngạch giảm 8,3%.

[21]
NHNN đã có nhiều biện pháp mạnh mẽ hỗ trợ thanh khoản. Qua kênh mua ngoại tệ, NHNN đã bơm ra thị trường khoảng 130,000 tỷ đồng; đồng thời bơm ròng khoảng 30 ngàn tỷ đồng qua các kênh hỗ trợ thanh khoản và 30 ngàn tỷ đồng cho vay tái cấp vốn có mục tiêu. Trong khi đó huy động vốn từ nền kinh tế của toàn ngân hàng quý I chỉ tăng 1,56%.

[22]
Đến tháng 3/2012, tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng ước giảm 2,13% so với tháng 12/2011. Số liệu NHNN cho thấy tăng trưởng tín dụng của toàn bộ hệ thống chỉ giảm hơn 1%, nếu loại bỏ yếu tố tăng trưởng ảo thì chỉ sụt giảm 0,4%. Mặc dù vậy, đây vẫn là chỉ báo bất thường nếu so sánh với các năm trước đây. Tại thời điểm 10/3/2011, tăng trưởng tín dụng đạt 3,68% so với tháng 12/2010; cuối quý 1/2010, tăng trưởng tín dụng đạt 2,95% so với cuối 2009; tương tự cuối quý 1/2009 là tăng trưởng 2,67%; cuối quý 1/2008 tăng xấp xỉ 12% so với cuối 2007; quý 1/2007 tăng 5,98% so với cuối 2006…Đến 20/4/2012, tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế ước giảm 1,35%.

[23]
Trái phiếu Chính phủ đã phát hành thành công 30 nghìn tỷ đồng, tín phiếu NHNN là 45 nghìn tỷ đồng và tiền gửi của các TCTD tại NHNN đạt 60 nghìn tỷ đồng, cao hơn tiền gửi dự trữ bắt buộc 15-20 nghìn tỷ đồng.

[24]
Vụ Tiên Lãng, Văn Giang, thủy điện Sông Tranh 2, vấn đề thu phí bảo trì đường bộ và dự kiến thu các loại phí giao thông khác, các kết luận của Thanh tra Chính phủ liên quan đến Tổng Công ty Sông Đà, Tập đoàn dầu khí Quốc gia, vấn đề tăng giá điện, giá xăng dầu, giá gas…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét