Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế
(tiếp theo)
IV. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TÁI CƠ CẤU KINH TẾ GẮN VỚI
CHUYỂN ĐỔI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
8. Phát huy lợi thế
của từng vùng, chuyển đổi và hình thành cơ cấu vùng kinh hợp lý, đa dạng về
ngành, nghề và trình độ phát triển
Định hướng cơ bản của tái cơ cấu
vùng kinh tế là phát huy tiềm năng, lợi
thế của từng vùng với tầm nhìn dài hạn, tăng cường phối hợp, liên kết giữa các
địa phương trong vùng và giữa các vùng để cùng phát triển theo quy hoạch, khắc
phục đầu tư trùng lặp, thiếu liên kết giữa các địa phương trong vùng. Đồng
thời, tiếp tục đẩy mạnh phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực
lôi kéo và lan tỏa phát triển đến các vùng khác và cho cả nền kinh tế. Đó cũng
là những chủ trương chiến lược về đổi mới và chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế
thời kỳ 2011-2020. Để thực hiện chủ trương chiến lược nói trên, cần triển khai
một số giải pháp cụ thể sau đây:
a. Tập
trung đầu tư hoàn thành kết cấu hạ tầng đồng bộ, đồng thời, chủ động xúc tiến
đầu tư, lựa chọn các nhà đầu tư và dự án đầu tư có chất lượng cho phát triển
khu công nghệ cao Hà Nội và khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh.
b. Rà soát, đánh giá lại Quy hoạch phát
triển KCN trên toàn quốc (ban hành kèm theo Quyết định số 1107/2006/QĐ-TTg ngày
21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển các
KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020), thực hiện bổ sung, sửa
đổi phù hợp theo hướng:
-Xây
dựng và phát triển các khu công nghiệp cụ thể phải phù hợp và thống nhất với
định hướng phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng và cả nước; phải có mục
tiêu và định hướng về bố trí ngành và
sản phẩm một cách rõ ràng đảm bảo phù hợp với quy hoạch và kế hoạch sử dụng
đất, quy hoạch điểm dân cư, quy hoạch sử dụng tài nguyên, giá cả lao động và
yêu cầu về môi trường của từng khu vực.
- Các KCN phải đảm bảo tự cung cấp hoặc gắn kết hữu cơ
với các khu dân cư, thành phố, khu đô thị với các điều kiện sinh hoạt hiện đại,
các loại dịch vụ dịch vụ tế, giáo dục, nhà ở, vui chơi, giải trí đa dạng,.v.v..
phục vụ tốt đời sống của công nhân lao động.
- Các khu công nghiệp tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh
tập trung thu hút các dự án đầu tư sử dụng công nghệ cao, thâm dụng nhiều vốn,
có hiệu suất đầu tư trên một đơn vị diện tích đất và lao động ở mức cao, ít gây
ô nhiễm môi trường.
-
Xem xét thành lập mới hoặc chuyển một số khu công nghiệp hiện có thành khu công
nghiệp chuyên ngành liên hoàn kết nối mạng công nghiệp hỗ trợ cung ứng các sản
phẩm thượng nguồn, trung gian để phát triển một số ngành ưu tiên phát triển tại
các vùng kinh tế trọng điểm; chuyển dần các dự án đầu tư, các nhà máy sản xuất
công nghệ thấp, thâm dụng nhiều lao động sang các vùng khác hoặc các địa phương
kém phát triển hơn trong vùng kinh tế.
c. Xây dựng thể chế, cơ chế hợp lý
phát triển vùng kinh tế trọng điểm kết hợp với thực hiện các chương trình quốc
gia về phát triển các ngành ưu tiên phát triển, các chương trình hỗ trợ, nâng
cao chất lượng doanh nghiệp.
d. Tiếp tục khuyến khích các tỉnh,thành
phố trực thuộc Trung ương chủ động, sáng tạo trong phát triển kinh tế địa
phương trên cơ sở phát huy lợi thế riêng có của địa phương, của vùng; đồng
thời, thiết lập cơ chế phối hợp phát triển kinh tế - xã hội giữa các địa
phương, khắc phục tình trạng cạnh tranh không lành mạnh hoặc sao chép cơ cấu
kinh tế và đầu tư theo phong trào bằng các giải pháp:
- Củng cố, tăng cường vai trò, thẩm
quyền và tính chuyên trách của Ban chỉ đạo phát triển vùng thành cơ quan phối
hợp phát triển kinh tế vùng.
- Thực hiện phối hợp và hợp tác giữa
các địa phương trong vùng một cách có hiệu quả với các hình thức và nội dung
thích hợp như:
+ Phối hợp và hợp tác nghiên cứu xác
định các lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của từng địa phương và của toàn
vùng kinh tế;
+ Trao đổi thông tin và phối hợp
nghiên cứu xây dựng và triển khai quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển
hạ tầng và nguồn nhân lực, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội địa
phương, quy hoạch phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp và các quy hoạch phát
triển khác;
+ Trao đổi thông tin, phối hợp thẩm
định và lựa chọn các dự án đầu tư quan trọng, dự án có tác động liên quan đến
các địa phương khác trong vùng;
+ Hợp tác, phối hợp xây dựng và phát triển mạng sản xuất
quy mô vùng kinh tế;
+ Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương trong cùng một vùng kinh tế phải giới thiệu Dự thảo quy
hoạch phát triển kinh tế- xã hội và các quy hoạch phát triển khác đến các địa
phương trong vùng để tham khảo ý kiến; phải lấy ý kiến bằng văn bản của Cơ quan
phối hợp phát triển kinh tế vùng trước khi trình Thủ tướng Chính phủ chấp
thuận;
+ Tổ chức giao ban định kỳ 6 tháng
hoặc đột xuất để thông báo, chia sẻ thông tin về tình hình phát triển kinh tế
xã hội của vùng, các vấn đề phát sinh cần giải quyết và khả năng, cơ chế và
công cụ phối hợp thúc đẩy phát triển kinh tế của từng địa phương nói riêng và
của toàn vùng nói chung.
- Tiếp tục thực hiện các chương
trình hỗ trợ phát triển trực tiếp từ ngân sách cho các vùng dân tộc thiểu số,
các vùng biên giới, hải đảo.
e. Về mặt thể chế, cần tăng cường
thẩm quyền và năng lực của Ban Chỉ đạo phát triển kinh tế-xã hội của các vùng,
ban hành quy chế phối hợp phát triển kinh tế xã hội giữa các địa phương trong
vùng.
Sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn là lĩnh vực
ưu tiên trong tái cơ cấu ngành và vùng kinh tế; khuyến khích phát triển sản
xuất nông nghiệp và tổ chức cuộc sống nông thôn theo hướng hiện đại. Các giải
pháp cụ thể bao gồm:
a. Rà soát lại quy hoạch sử dụng đất, duy trì 3,8 triệu
ha đất trồng lúa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
b. Rà soát, đánh giá lại quy hoạch rừng, duy trì hợp lý
diện tích rừng đầu nguồn, rừng đặc dụng, đổi mới cơ chế và tổ chức quản lý rừng
theo hướng nâng cao quyền tự chủ cho các hộ gia đình và doanh nghiệp, chuyển
đổi số diện tích rừng còn lại sang phát triển vùng rừng nguyên liệu tập trung,
khai thác rừng một cách có hiệu quả, bền vững nâng cao thu nhập và đời sống của
người lao động lâm nghiệp.
c. Tăng hợp lý tỷ trọng vốn đầu tư của ngân sách phục vụ
phát triển nông nghiệp, nông thôn; phát triển dịch vụ khuyến nông, trước hết,
phục vụ phát triển sản xuất các sản phẩm ưu tiên phát triển; đồng thời, chuyển
từ định hướng xây dựng cơ sở hạ tầng dựa vào đầu tư của nhà nước, dựa vào chỉ
đạo của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sang phát triển con người, phát
triển sinh kế và đào tạo nghề, nâng cao chất lượng sống của từng người dân và
cộng đồng; khuyến khích sáng kiến và sự tham gia của các thành phần kinh tế vào
phát triển nông thôn.
d. Thúc đẩy, tạo thuận lợi về thể chế và các hình
thức đa đạng, linh hoạt để nông dân, hộ
gia đình góp đất cùng doanh nghiệp (mà không làm thay đổi địa vị pháp lý về
quyền tài sản của người nông dân đối với đất đã góp) nhằm tập trung, tích tụ
ruộng đất cho tổ chức sản xuất nông nghiệp quy mô lớn với kỹ thuật và quy trình
sản xuất hiện đại, đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm theo
chuẩn mực quốc tế.
e. Phát triển và
đa dạng hóa các hình thức cung cấp các dịch vụ hỗ trợ khuyến nông, giúp nông
dân thay đổi và nâng cao chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, nâng cao chất
lượng sản phẩm, giảm thất thoát sau thu hoạch, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm.
f. Hỗ trợ nông dân kết nối, tiếp cận với dịch vụ nghiên
cứu, chuyển giao công nghệ, kết nối với các doanh nghiệp chế biến, hệ thống
tiêu thụ sản phẩm, qua đó, từng bước hình thành mạng sản xuất và chuỗi cung ứng
kết nối sản xuất, chế biến, phân phối và bán sản phẩm; kết nối công nghiệp phục
vụ nông nghiệp với sản xuất nông nghiệp, kết nối “bốn nhà” trong mạng sản xuất
một số sản phẩm nông nghiệp chủ yếu trên một địa bàn nhất định.
g. Cùng với việc thực hiện chương trình xây dựng nông
thôn mới, tiếp tục cải thiện chất lượng sống ở nông thôn bằng cách:
- Tiếp tục ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn,
kết nối các làng xã đến thị trấn,trung tâm tỉnh lỵ;
- Phát triển các khu đô thị nhỏ, các cụm dân cư với cách
thức tổ chức cuộc sống tương tự như dân cư thành thị;
- Nâng cấp, phát triển cả về quy mô và chất lượng dịch vụ
y tế tuyến cơ sở, nhất là cấp huyện, đồng thời, tuyên truyền, thuyết phục để
khôi phục niềm tin của người dân vào chất lượng các dịch vụ tuyến cơ sở bằng
các kết quả thiết thực;
- Hỗ trợ nâng cao chất lượng của các trường dạy nghề,
trường cao đẳng, đại học ở các vùng nông thôn bằng cách liên kết, hỗ trợ, giúp
đỡ về nội dung chương trình, cán bộ giảng dạy biệt phái,.v.v..
- Nghiên cứu, chuyển các làng nghề có điều kiện thành các
điểm du lịch, kết nối các tuyến du lịch trong vùng và giữa các vùng lân cận;
-
Khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do lối sản xuất thủ công truyền thống,
công nghệ thấp ở các làng nghề.
Chính sách phát triển nguồn nhân lực vừa phải mở rộng quy
mô, đa dạng hóa loại hình và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, vừa
phải tạo điều kiện và môi trường làm việc tốt sử dụng có hiệu quả nguồn nhân
lực đã được đào tạo, đảm bảo những người đã được đào tạo phát huy tối đa năng
lực của mình, đồng thời, có cơ hội thường xuyên học hỏi, nâng cao năng lực làm
việc của mình. Các giải pháp cụ thể bao gồm:
a. Tiếp tục mở rộng quy mô đào tạo mới và đào tạo lại đội
ngũ lao động cho toàn xã hội, khuyến khích hơn nữa khu vực tư nhân, doanh nghiệp tham gia dạy nghề;
chuyển các cơ sở dạy nghề công lập thành đơn vị cung cấp dịch vụ công, tự chủ,
tự chịu trách nhiệm và tự bù đắp chi phí hoạt động; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 70% vào năm 2020.
Đặc biệt chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề,
giỏi việc; tiếp thu và làm chủ được những công nghệ mới, nhất là lao động kỹ
thuật cho các ngành ưu tiên phát triển. Đồng thời đào tạo, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, giám đốc doanh nghiệp, cán bộ quản lý giỏi
trong tất cả các ngành, nhất là ở các đơn vị sản xuất cơ sở.
b. Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước đối với dạy nghề theo
nhu cầu của thị trường và yêu cầu cụ thể của người sử dụng lao động:
- Nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chuẩn về kỹ năng tối thiểu cần
có của các loại nghề nghiệp theo yêu cầu của người sử dụng lao động; trên cơ sở
đó, khuyến khích và tạo điều kiện để các hội, hiệp hội nghề nghiệp tự xây dựng
bộ tiêu chuẩn nghề nghiệp áp dụng cho các thành viên theo hướng áp dụng bộ
chuẩn nghề nghiệp ở mức trung bình trong khu vực; hướng dẫn các trường, trung
tâm và tổ chức dạy nghề xây dựng xây dựng các chương trình và cách thức đào tạo
đáp ứng các yêu cầu nói trên.
- Thực hiện đấu thầu hoặc chỉ định thầu cung cấp dịch vụ
đào tạo lao động trong các chương trình hỗ trợ đào tạo nghề theo yêu cầu của
doanh nghiệp, người sử dụng lao động; khuyến khích, tạo thuận lợi để doanh
nghiệp và các tổ chức đào tạo thực hiện hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau trong đào
tạo, nâng cao kỹ năng cho lao động của doanh nghiệp.
- Thực hiện hỗ trợ kinh phí đào tạo cho các trường, tổ
chức đào tạo nghề theo kết quả đầu ra, như số học viên được đào tạo theo nhu
cầu cụ thể của doanh nghiệp, số học viên tốt nghiệp đạt chuẩn nghề theo mức
trung bình của khu vực, số học viên tốt nghiệp có được việc làm trong 6 tháng
kể từ khi tốt nghiệp,.v.v…
- Khuyến khích doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp quy
mô lớn, tự đào tạo lao động phục vụ nhu cầu của bản thân, của các doanh nghiệp
bạn hàng, đối tác và các doanh nghiệp có liên quan khác.
d. Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, nhất là
cán bộ kỹ thuật, công nghệ cho các ngành
ưu tiên phát triển:
- Chọn và gửi các học viên ưu tú để đào tạo đại học và
sau đại học theo các chương trình thích hợp tại các trường đại học công nghệ
hàng đầu trên thế giới, góp phần tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các
ngành ưu tiên phát triển.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp, các viện nghiên cứu đào tạo,
nâng cao trình độ và kỹ năng của người lao động(bao gồm cả các chuyên gia, cán
bộ kỹ thuật và quản lý các cấp) theo nhu cầu thực tế của phát triển sản xuất
kinh doanh trong các ngành, nghề ưu tiên phát triển.
e. Gia tăng số lượng và chất lượng lao động
nghề cho phát triển nông nghiệp và nông thôn:
- Mở rộng các hình thức đào tạo nghề gắn chuyển
giao công nghệ mới, chuyển giao các kỹ thuật và quy trình sản xuất mới cho các hộ nông dân;
- Khuyến khích và hỗ trợ các hình thức phối
hợp đa dạng giữa các trung
tâm đào tạo lớn ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ với các
địa phương khác trong đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các vùng
nông thôn, nhất là các kỹ năng nghề nghiệp theo yêu cầu của doanh nghiệp.
g.
Xây dựng và vận hành hệ thống thông tin thị trường lao động, cơ sở dữ liệu quốc
gia về thị trường lao động, nâng cao năng lực dự báo, kế hoạch hóa nguồn nhân
lực dựa trên các tín hiệu của thị trường.
h.
Đổi mới quản lý nhà nước và nâng cao chất lượng giáo dục đại học bằng các giải
pháp:
- Mở
rộng và nâng cao hơn quyền tự chủ của các trường đại học trong tuyển sinh, xây
dựng nội dung và chương trình, phương pháp giảng dạy,.v.v..
-
Xây dựng và thực thi có hiệu quả các quy định về yêu cầu, điều kiện và tiêu chí
chất lượng giáo dục áp dụng đối với tất cả các trường trong cả nước;
- Nâng
cao năng lực và hiệu lực kiểm tra, đánh giá và giám sát của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, các cơ quan có liên quan đối với chất lượng dịch vụ giáo dục đại học;
- Thực hiện đánh giá độc lập về uy tín, chất lượng và xếp hạng các trường đại
học; coi đó là một trong số các tiêu chí quan trọng phân bố chi phí từ ngân
sách cho các trường đại học.
i. Thực hiện đầy đủ và nhất quán Chiến lược phát triển
nguồn nhân lực Việt nam thời kỳ 2011 – 2020 (Quyết định số 597/QĐ-TTg ngày 19
tháng 4 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ) và Quy hoạch phát triển nguồn nhân
lực Việt nam thời kỳ 2011-2020 (Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22 tháng 7 năm
2011 của Thủ tướng Chính phủ).
a. Coi khoa học và công nghệ là đòn bẩy của quá trình tái
cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tập trung ưu tiên thực
hiện các chương trình, đề án khoa học công nghệ quốc gia và nâng cao năng lực khoa học, công nghệ quốc
gia. Xây dựng hệ thống các tổ chức khoa học và công nghệ mạnh, các phòng thí
nghiệm trọng điểm, các doanh nghiệp khoa học và công nghệ, trước hết phục vụ
phát triển các ngành có lợi thế và các ngành ưu tiên phát triển.
b. Đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ cơ chế quản lý, cơ
chế hoạt động khoa học và công nghệ,
trọng tâm là đổi mới tài chính. Thực hiện cơ chế đặt hàng đối với nhiệm vụ khoa
học và công nghệ đồng thời với áp dụng phương thức khoán kinh phí, mua sản phẩm
khoa học và công nghệ, huy động và khuyến khích đầu tư xã hội, nhất là đầu tư
của doanh nghiệp cho hoạt động khoa học và công nghệ. Ban hành quy chế mới về
nội dung, định mức chi và thủ tục thanh toán phù hợp với đặc điểm của hoạt động
khoa học và công nghệ.
c. Xây dựng chính sách khuyến khích, trọng dụng cán bộ
khoa học và công nghệ; thực hiện chế độ đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ khoa học
và công nghệ được giao nhiệm vụ quốc gia về khoa học và công nghệ. Áp dụng cơ
chế thuê chuyên gia trong và ngoài nước bằng ngân sách nhà nước; thu hút cán bộ
khoa học và công nghệ trình độ cao vào làm việc tại các tổ chức khoa học và
công nghệ trọng điểm. Khuyến khích và hỗ trợ cán bộ khoa học và công nghệ
thương mại hoá kết quả nghiên cứu, thành lập doanh nghiệp khoa học và công
nghệ, hợp tác với các doanh nghiệp và hộ sản xuất trong chuyển giao và đổi mới
công nghệ.
d. Thực thi đầy đủ pháp luật về sở hữu trí tuệ, tiêu
chuẩn đo lường chất lượng; xây dựng một số trung tâm khoa học và công nghệ, sàn
giao dịch công nghệ quốc gia và vùng. Tăng cường hội nhập quốc tế về khoa học
và công nghệ, thu hút đầu tư nước ngoài phát triển khoa học và công nghệ tại
Việt Nam, thí điểm xây dựng một số viện nghiên cứu tiên tiến có vốn nước ngoài
tại Việt Nam. Đẩy mạnh hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức xã hội về vai
trò của khoa học và công nghệ trong quá trình tái cơ cấu gắn với chuyển đổi mô
hình tăng trưởng.
e. Thực hiện đầy đủ và nhất quán Chiến lược phát triển
khoa học, công nghệ thời kỳ 2011-2020 (Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012
của Thủ tướng Chính phủ).
Trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, giải
quyết các vấn đề môi trường và xã hội là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của Nhà nước.
a. Các giải pháp bảo vệ và nâng cao
chất lượng môi trường sống bao gồm:
- Triển khai thực hiện tốt Chiến
lược tăng trưởng xanh[1] bao gồm các nội dung chính là: xanh hóa sản xuất; giảm cường độ phát thải khí nhà kính
(tính trên một đơn vị GDP); thúc đẩy và khuyến khích sử dụng năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo; xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững.
- Tập trung xử lý các vấn đề môi trường
nổi cộm như ô nhiễm gia tăng tại các đô thị, các khu/cụm công nghiệp, tại các
làng nghề, suy giảm đa dạng sinh học, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, chất thải rắn,
ô nhiễm rác thải;
- Thực hiện hạch toán môi trường,
trước hết là việc xây dựng các tài khoản môi trường quan trọng, tiến tới ước lượng chỉ tiêu GDP xanh
- Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước
về môi trường, nâng cao nhận thức và
khuyến khích sự tham gia dưới các hình thức đa dạng và thích hợp của của cộng
đồng và doanh nghiệp vào công cuộc bảo
vệ môi trường.
b. Bên cạnh việc duy trì tăng trưởng
hợp lý đủ giải quyết các yêu cầu về xã hội nói chung, cần thực hiện thêm một số
chính sách xã hội đặc thù sau đây:
- Thực hiện hiệu quả các chiến lược xoá đói giảm nghèo,
đặc biệt cho các đối tượng chính sách xã hội, các nhóm bị thiệt thòi, dễ bị tổn
thương, đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó
khăn.
- Mở rộng và phát triển hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt
là các chính sách về bảo hiểm thất nghiệp và trợ giúp người mất việc; mở rộng
phạm vi áp dụng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế cho các đối tượng khác nhau
trong xã hội.
- Nâng cao một cách bền vững mức sống của nhóm người dễ
bị tổn thương, nhất là người dân tộc thiều số bằng cách hỗ trợ đảm bảo tiếp cận
giáo dục, y tế, hỗ trợ phát triển sản xuất, tiếp cận thị trường tiêu thụ để
nâng cao thu nhập.
- Thực hiện đầy đủ và nhất quán Chiến lược dân số và sức
khoẻ sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Tận dụng tốt thời cơ và phát huy
lợi thế của cơ cấu “dân số vàng”, đồng thời nâng cao chất lượng dân số và duy
trì tốt chính sách về kế hoạch hoá gia đình.
Mỗi nhóm giải
pháp có vai trò và ý nghĩa nhất định trong việc thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế
theo các định hướng như trình bày ở phần III của Đề án.
Trước hết, các giải pháp ổn
định kinh tế vĩ mô kết hợp với tái cơ cấu, củng cố và phát triển hệ thống các
tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính sẽ cải thiện, nâng cao năng lực cạnh
tranh vĩ mô của môi trường kinh doanh; đồng thời, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô,
một điều kiện tiền đề để tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế.
Hai là, các giải pháp bảo đảm
sự bình đẳng về quyền và cơ hội kinh doanh giữa các doanh nghiệp, cải cách đơn
giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đầu tư,
kinh doanh; bổ sung, sửa đổi các luật hiện hành hợp thành môi trường pháp lý về kinh
doanh theo hướng tháo bỏ rào cản, bãi bỏ hoặc bổ sung, sửa đổi các quy định đã lạc
hậu, không thân thiện và không phù hợp với cơ chế thị trường, với hội nhập kinh
tế quốc tế.v.v… nhằm cải thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh vi mô của môi
trường kinh doanh. Đây cũng là những giải pháp hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường hiện đại – một điều kiện tiền đề thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế.
Môi trường kinh doanh được cải thiện
và phát triển cả về vĩ mô và vi mô sẽ
làm cho các nguồn lực huy động được nhiều hơn, dài hạn hơn cho đầu tư
phát triển kinh doanh; được phân bố và sử dụng có hiệu quả hơn trên phạm vi
toàn bộ nền kinh tế.
Ba là, các giải pháp tái cơ cấu đầu
tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước vừa trực tiếp nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn lực trong khu vực kinh tế nhà nước, vừa góp phần cải thiện chất
lượng môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thúc đẩy và lôi kéo đầu tư của các
thành phần kinh tế khác.
Bốn là, rà soát, bổ sung sửa đổi quy
hoạch có liên quan, nhất là quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển kết cấu
hạ tầng và quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, bổ sung sửa đổi chế độ
khuyến khích đầu tư và cơ chế phân cấp và phối hợp quản lý đầu tư là các giải pháp chỉ dẫn và
thu hút đầu tư vào phát triển các ngành ưu tiên phát triển trên một địa bàn
nhất định.
Còn các chương trình hỗ trợ phát
triển mạng sản xuất và chuỗi cung ứng các sản phẩm ưu tiên phát triển là giải
pháp “nâng đỡ” đầu tư vào các ngành ưu tiên phát triển, kết nối sản xuất các
sản phẩm thượng nguồn, trung gian và các sản phẩm hạ nguồn của ngành ưu tiên
phát triển.
Như vậy, nhóm giải pháp loại này vừa
định hướng và thu hút, vừa nâng đỡ đầu tư vào các ngành ưu tiên phát triển, làm
thay đổi và chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành như trình bày trên đây.
Cuối cùng, các chương trình nâng cao
chất lượng doanh nghiệp (về trình độ công nghệ và chuyển giao công nghệ, về
trình độ quản lý và quản tri, về chất lượng sản phẩm,.v.v..) kết hợp với giải
pháp phát triển khoa học, công nghệ, đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề cho
người lao động sẽ giúp doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể
tham gia, tận dụng được các cơ hội từ các chính sách tái cơ cấu kinh tế nói
trên.
Tất cả các giải pháp nói trên đều
nhằm hướng đến hiện thực hóa “trọng tâm của quá trình tái cơ cấu kinh tế”; đó là
“cơ cấu lại các ngành sản xuất và dịch vụ phù hợp với các vùng; … gia tăng giá
trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp
và của cả nền kinh tế….”, góp phần làm cho nước ta về cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
a. Về khó khăn và thách thức
Tái cơ cấu kinh
tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng
trưởng là nhiệm vụ vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài, phải thực hiện
trong nhiều năm liền với không ít khó khăn và thách thức.
Một là, có thể phải
hy sinh lợi ích ngắn hạn trước mắt để đổi lấy lợi ích tổng thể, lâu dài hơn. Thực
hiện tái cơ cấu kinh tế có nghĩa là ít nhất trong một số năm trước mắt, các
nguồn lực xã hội phải được phân bố lại trên quy mô lớn; và kết quả của quá
trình nói trên có thể chỉ phát huy tác dụng trong trung hạn. Điều đó có nghĩa
là trong những năm trước mắt, tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể không cao như kế
hoạch, và có thể thấp hơn so với trước đây. Đây là thách thức không nhỏ trong
bối cảnh tư duy, quán tính theo đuổi tốc độ và cách thức tăng trưởng theo chiều
rộng vẫn còn khá phổ biến, nhất là ở các cấp chính quyền địa phương; những thay đổi để chuyển dần sang mô hình tăng
trưởng mới là chưa thực sự rõ nét.
Hai là, tái cơ
cấu kinh tế có thể tác động không thuận đến một số nhóm người có liên quan, làm
phát sinh một số chi phí xã hội cần được bù đắp.
Như trên đã
trình bày, tái cơ cấu kinh tế về bản chất là thay đổi lớn và căn bản thể chế
hiện hành về phân bố, quản lý và sử dụng nguồn lực xã hội để hình thành thể chế
mới hợp lý hơn, hiệu lực và hiệu quả hơn. Thay đổi đó có tác động tích cực trên
quy mô lớn, thúc đẩy phát triển xã hội nói chung; nhưng cũng sẽ tạo ra những
tác động không thuận đến cho một số người có liên quan. Một bộ phận cán bộ,
công chức đang quen làm việc với thể chế hiện hành có thể phải chuyển đổi công
tác do không kịp thời hoặc không đủ năng lực thay đổi tư duy và nâng cao kiến thức, kỹ năng đáp ứng yêu cầu của cơ chế
mới về phân bố và sử dụng nguồn lực.
Tái cơ cấu kinh
tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng không phải là gói cứu trợ nền kinh tế
để vượt qua khủng hoảng; do đó, xét trên tổng thể, nó không làm tiêu hao nguồn
lực của xã hội. Tuy vậy, đối với tái cơ cấu trên một số lĩnh vực và một số bên
có liên quan, có thể phát sinh chi phí nhất định. Ví dụ, xử lý nợ xấu là một
trong các nội dung tái cơ cấu hệ thống các ngân hàng thương mại. Ước tính số nợ
xấu chiếm khoảng 3,6% tổng dự nợ tín dụng của nền kinh tế. Nợ xấu được xử lý,
bù đắp bằng quỹ dự phòng, vốn chủ sở hữu và bán lại cho các tổ chức mua bán nợ,
và các bên khác có quan tâm. Nếu các biện pháp nói trên không đủ để xử lý số nợ
xấu, thì ngân sách nhà nước sẽ là nguồn cuối cùng để xử lý số nợ xấu còn lại. Như
vậy, trong trường hợp này ngân sách nhà
nước có thể phải gánh chịu một phần chi phí trong xử lý nợ xấu của các ngân
hàng thương mại.
Tái cơ cấu kinh
tế cũng có nghĩa là quy mô đầu tư, sản xuất một số ngành, một số vùng có thể
thu hẹp lại; thay vào đó, các vùng, ngành khác có tiềm năng hơn sẽ được mở rộng
và phát triển. Hệ quả là, trước mắt, hàng nghìn dự án đầu tư, nhất là đầu tư
bằng vốn ngân sách nhà nước, có thể phải đình hoãn; hàng chục nghìn doanh
nghiệp, nhà đầu tư có liên quan sẽ bị thua lỗ, một phần vốn đầu tư của họ có
thể không thu hồi được; nhiều doanh nghiệp có liên quan phải đóng cửa, giải thể
hoặc phá sản; một số lao động tạm thời bị mất việc, giảm việc làm và phải
chuyển đổi kỹ năng lao động; một số địa phương có thể phải thay đổi lại định
hướng và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội với những phí tổn không nhỏ.
Nhận thức rõ
những khó khăn và chí phí có thể phát sinh, Chính phủ, các bộ, ngành và Uỷ ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải có kế hoạch chủ động
đối phó; đồng thời, có giải pháp hợp lý (khoanh nợ, giản nợ , cơ cấu lại nợ,
mua lại nợ đối với doanh nghiệp, nhà đầu tư; hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại và chuyển đổi nghề
nghiệp đối với người lao động,.v.v…) để bù đắp hợp lý lợi ích chính đáng cho
các bên có liên quan, nhất là nhóm những người lao động, nhóm những người yếu
thế, dễ bị tổn thương khác.
Ba là, thể chế
kinh tế thị trường hiện đại còn ở trình độ thấp, môi trường kinh doanh còn chứa
đựng nhiều rủi ro và bất ổn.v.v… sẽ làm phát sinh rào cản đối với huy động,
chuyển dịch và phân bố nguồn lực xã hội theo các yêu cầu của tái cơ cấu kinh
tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Độ trễ chính
sách kết hợp với những yếu kém của thể chế kinh tế thị trường có thể làm cho những
giải pháp tái cơ cấu kinh tế chậm phát huy tác động tích cực hơn so với mong
đợi. Trong khi đó, những tác động bất lợi đối với một số người có liên quan lại
phát sinh ngay khi thực hiện các giải pháp tái cơ cấu. Vì vậy, để vượt qua được
những khó khăn, thách thức nói trên, điều quan trọng có tính quyết định là phải
có quyết tâm chính trị cao, sự thống nhất trong toàn hệ thống chính trị từ
trung ương đến địa phương và sự thống nhất chỉ đạo từ các
cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, Quốc hội và chính phủ cho đến các bộ, các
cấp chính quyền địa phương.
Ngoài ra, ở bên
ngoài kinh tế thế giới chưa phục hồi vững chắc và rõ nét; thị trường thế giới
còn một số rủi ro và bất ổn khó lường, hội nhập kinh tế quốc tế có thể thu hẹp khả
năng, hoặc làm giảm đáng kể tác động của một số chính sách tái cơ cấu kinh
tế,.v.v.. Tất cả các yếu tố đó có thể tạo ra những tác động không thuận đối với
công cuộc tái cơ cấu kinh tế.
a. Về thuận
lợi
Bên cạnh những
khó khăn, thách thức, có không ít các yếu tố thuận lợi.
Một là có nguồn
lực và tiềm năng kinh tế lớn được tích lũy qua thời kỳ đổi mới và phát triển
kinh tế với quy mô tới hàng trăm tỷ USD. Xét trên tổng thể, tái cơ cấu kinh tế
là phân bố lại nguồn lực quốc gia để các nguồn lực đó được sử dụng có hiệu quả
hơn. Nguồn lực mà chúng ta dựa vào đó để tái cơ cấu nền kinh tế là tổng nguồn
lực xã hội hiện có và tiềm năng, bao gồm:
- Giá trị tài
sản tiết kiệm dưới các hình thức khác nhau của
dân cư và hộ gia đình;
- Giá trị tài
sản dưới các hình thức khác nhau của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế;
- Giá trị tài
sản dưới các hình thức khác nhau của khu vực sự nghiệp và các tài sản quốc gia
khác;
- Vốn cam kết
đầu tư nước ngoài và viện trợ phát triển chưa giải ngân với giá trị lên đến hàng
chục tỷ USD;
- V.v.v…
Rõ ràng, khơi
dậy được các nguồn lực nói trên kết hợp với phân bố và sử dụng hợp lý, hiệu
quả các nguồn lực đó sẽ tạo ra sức mạnh
mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Hai là có sự đồng thuận xã hội về yêu cầu tái
cơ cấu nền kinh tế. Thực tế cho thấy hiện đã có sự đồng thuận cao trong Đảng,
các cơ quan nhà nước, giới nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách và các tầng lớp
nhân dân về sự cần thiết và yêu cầu của tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng. Các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã có quyết tâm chính trị
cao thể hiện trong một số nghị quyết, chủ trương chính sách có liên quan ban
hành trong thời gian gần đây.
Ba là đã có
những khởi động và kết quả bước đầu của tái cơ cấu kinh tế. Cụ thể là tình
trạng đầu tư nhà nước dàn trải, phân tán, thiếu đồng bộ,.v.v… đã bước đầu được
khắc phục. Điều quan trọng là cách thức quản lý mới về đầu tư nhà nước đảm bảo
đầu tư tập trung, đồng bộ và có trọng
tâm trọng điểm đã nhận được sự chia sẻ, đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ trong tất
cả các cấp từ Trung ương đến địa phương. Trước áp lực của nguy cơ mất an toàn
hệ thống, công cuộc tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng mà trọng tâm là
các ngân hàng thương mại đã nhanh chóng được triển khai; và đã thu được kết quả
bước đầu đáng ghi nhận.
Bốn là lạm phát nhìn chung đã được kiềm chế bước đầu,
các chỉ số vĩ mô được cải thiện đáng kể
và kinh tế vĩ mô đang có xu hướng dần ổn định.
Năm là những bổ
sung, sửa đổi quan trọng và kịp thời của Hiến pháp, những kết quả thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI sẽ tạo điều kiện và cơ hội cho việc phát triển
và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước
đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Cuối cùng, hội
nhập kinh tế đang ngày thêm mở rộng và cũng cố. Các nỗ lực cải cách tái cơ cấu
kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng đã và đang nhận được sự đồng tình, ủng
hộ và khích lệ của chính phủ các đối tác quan trọng, chiến lược, các nhà tài
trợ và các tổ chức tài chính quốc tế. Đây là yếu tố thuận lợi bên ngoài, tạo cơ
hội tiếp cận vốn, công nghệ và thị trường thúc đẩy tái cơ cấu, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ hoàn thiện nội dung Đề án tổng thể tái
cơ cấu kinh tế, trình Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ thông qua trong Quý
II/2012.
- Trong Quý
II/2012 kiện toàn tổ chức, năng lực của Hội đồng quốc gia về năng lực cạnh
tranh và phát triển bền vững; và giao cho Hội đồng này nhiệm vụ chỉ đạo, tổ
chức phối hợp giữa các bộ, cơ quan có liên quan, theo dõi, kiểm tra, giám sát
và đánh giá hiệu quả các giải pháp chính sách và kết quả tái cơ cấu kinh tế,
kiến nghị bổ sung, sửa đổi lên các cơ quan có thẩm quyền, nếu xét thấy cần
thiết.
- Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức
thực hiện Đề án tái cơ cấu thị trường tài chính mà trọng tâm là các ngân hàng
thương mại và các tổ chức tài chính;
- Bộ Tài chính
chủ trì, phối hợp với các bộ, ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc
trung ương tổ chức thực hiện Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, mà trọng
tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước;
- Bộ Kế hoạch và
Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các cơ quan khác có
liên quan chức thực hiện Đề án tái cơ cấu đầu tư mà trọng tâm là đầu tư công.
- Các Bộ chủ trì
soạn thảo, hoàn thành đúng thời hạn các dự án luật, nghị định có liên quan theo
Chương trình xây dựng pháp luật hàng năm của Quốc hội và Chính phủ, bao gồm:
+ Luật Đầu tư công;
+ Luật Đầu tư (sửa đổi) và chế độ ưu đãi đầu tư;
+ Luật Quy hoạch;
+ Luật về quản lý vốn nhà nước đầu tư kinh doanh tại
doanh nghiệp;
+ Nghị định về đầu tư trung hạn và khung khổ đầu tư trung
hạn 2013-2016;
+ Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi);
+ Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi)
+ Luật Mua sắm công;
+ Luật Doanh nghiệp (sửa đổi);
+ Luật Đất đai (sửa đổi);
+ Luật Thương mại (sửa đổi);
+ Luật Xây dựng (sửa đổi);
+ Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi);
+ Luật phá sản (sửa đổi);
+ .V.v..
- Căn cứ vào các
nội dung, định hướng và giải pháp tái cơ cấu kinh tế tại Đề án này các Bộ, Cơ
quan ngang bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, các Tổng công ty và Tập đoàn kinh tế nhà nước trong phạm
vi chức năng và nhiệm vụ được giao khẩn trương xây dựng các chương trình, đề án
hoặc kế hoạch cụ thể về tái cơ cấu kinh tế của ngành, địa phương và đơn vị;
đồng thời, triển khai thực hiện ngay các giải pháp tái cơ cấu kinh tế trên các
lĩnh vực có liên quan.
- Các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố trực
thuộc Trung ương định kỳ nửa năm báo cáo Hội đồng quốc gia về năng lực cạnh tranh
và phát triển bền vững về tiến độ và kết quả thực hiện tái cơ cấu kinh tế trên
phạm vi ngành và địa phương để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ và các cơ
quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Thủ tướng CP, các Phó TTCP;
- Văn phòng Quốc hội;
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (5);
- Văn phòng Chính phủ;
- Lưu: Văn thư, KTTH (3).
|
TM. CHÍNH PHỦ
TUQ. THỦ TƯỚNG
BỘ TRƯỞNG
BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
(đã ký)
Bùi Quang Vinh
|
[1] Chiến lược tăng trưởng xanh do
Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì, dự kiến trình Thủ tướng Chính Phủ vào tháng 6/2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét