NHỮNG BÀI VÈ ĐI CÙNG NĂM THÁNG
KHÁNH TRÂM
Người Việt có một kho tàng văn học dân gian phong phú: Truyện kể, thơ, ca dao, hò vè…Trong đó VÈ được lưu truyền, phổ biến trong xã hội và được quần chúng đón nhận khá dễ dàng do tính chất dân dã (dễ nhớ, dễ thuộc) của thể lọai văn học này.
Theo Đại Nam quốc âm tự vị , VÈ là chuyện khen, chê có ca vần và việc sáng tác VÈ là việc đặt chuyện khen, chê có ca vần. Đây cũng là đặc trưng cơ bản của VÈ. Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia cho biết VÈ được ra đời cách đây khoảng vài thế kỷ, từ TK 18 dưới thời phong kiến và kéo dài cho đến ngày nay. Nó tồn tại trong xã hội để đảm nhiệm cái chức trách “khen, chê” được nhân dân giao phó kia. Về hình thức, VÈ sử dụng câu bốn chữ, năm chữ, lục bát, hát giặm, nói lối.
VÈ được chia làm nhiều thể loại: Có VÈ đồng dao là những bài hát dành cho trẻ em, VÈ thế sự ghi chép lại sự việc người thật, việc thật (đây cũng là một dạng sử liệu đơn giản nhưng khá bổ ích đóng góp vào nguồn tư liệu nghiên cứu trong một xã hội còn hạn chế thông tin như ngày nay), VÈ lịch sử mô tả sự chân thật lịch sử trong đó có những cuộc khởi nghĩa của nông dân và đấu tranh chống ngoại xâm. Ngoài ra còn một thể loại nữa của VÈ (thứ này có số lượng bài khá nhiều) là VÈ về loài vật, cây trái, hoa quả, sự vật, nghề nghiệp: VÈ hoa, VÈ cá, VÈ bánh, VÈ làm ruộng…
Là loại hình văn học dân gian bổ ích nhiều bài VÈ đã được tập hợp và xuất bản thành sách nhưng cũng còn có nhiều bài hiện đang được lưu truyền rải rác trên các Blog và các trang mạng (nhất là loại VÈ thế sự, thời cuộc) trong đó nhiều bài gây ấn tượng và có giá trị bởi tính thời sự của nó. Có thể nói ngày nay “VÈ thế sự” đang lên ngôi. Ngồi nhớ lại tuổi thơ của mình, tôi lại được sống với nhiều bài VÈ đồng dao thật đáng yêu, hệt như cái tuổi lên 5 lên 3 cũng rất đáng yêu ấy. Nào là “con vỏi con voi/ cái vòi đi trước/ hai chân trước đi trước/ hai chân sau đi sau/ còn cái đuôi đi sau rốt/ tôi xin kể nốt/ cái chuyện con voi”. Thế hệ của tôi ngày ấy đang thời đạn bom, cuộc sống vật chất rất nghèo khổ hầu như chẳng có đồ chơi gì đáng kể. Con gái thì chơi chuyền, chơi ô ăn quan, con trai thì đánh bi đánh đáo và cùng nhau chơi “ rồng rắn lên mây/ có cây lúc lắc/ có nhà điểm danh/ hỏi thăm thầy thuốc có nhà hay không ”? Cái ngày xưa yêu dấu ấy, trẻ em thích hát đồng dao, các bà nội trợ thích nói VÈ bánh, VÈ hoa, VÈ cá… những thứ rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày của người nông dân: “Cá ăn không cử là cá trê leo/ ăn cám ăn bèo là con cá sặt/ gai chông gút mắc là con cá rô/ bóng bọt ra vô là con cá thia lia trống/ tuổi cao tác rộng là con cá bạc đầu/ nhỏ tác có râu là con cá chốt/ hình xem tươi tốt là con cá chai/ nối đuôi đi hoài là con cá lạc mạ/ hình xem cũng lạ là con cá lóc bông/ tánh hay ở bau là con cá chạch /ăn bèo lách chách là con cá mề tho/ ăn ở không lo là con cá hương mảnh/ da thịt trắng bảnh là con cá thác lác/ ăn bùn ăn cát là con cá kèo…”. Có lẽ những bài VÈ này hiện chỉ còn thấy trong sách vở và thời nay tôi thấy trẻ em không mấy thuộc đồng dao nữa.
Việt Nam là xứ nhiệt đới với nông nghiệp trồng lúa nước có từ ngàn xưa. Bài “VÈ làm ruộng” đã mô tả cuộc sống của người nông dân. Đọc bài VÈ 4 chữ này tôi lại thấy hiện về cuộc sống cơ cực, nghèo đói và lam lũ ấy: “Nghe vẻ nghe ve/ nghe vè làm ruộng/ sắm trâu cùng xuổng/ sắm ách cùng cày/ đi vay tiền ngày/đi quơ tiền tháng/ sắm một cái phảng/ đáng giá năm quan/ trời cho mưa xuống/ nước nổi đầy đồng/ bớ chú đàn ông/ be bờ giao mạ…” VÈ làm ruộng và người nông dân suốt đời gắn bó với nhau để ngày hôm nay Việt Nam vượt lên Thái Lan trở thành nước xuất khẩu gạo đứng hạng nhất thế giới với sản lượng xuất khẩu là 7 triệu tấn. Nhưng có nhiều dịp đi công tác ĐBSCL, vựa lúa của Việt Nam, tôi vẫn thấy cuộc sống của người nông dân nói chung là khá nghèo. Đây cũng là một nghịch lý.
Ngày trước dưới chế độ phong kiến, đặc biệt là từ TK 19 kể từ khi người Pháp chính thức đặt cai trị trên mảnh đất hình chữ S này, xã hội Việt nam có nhiều phân hóa, phong tục tập quán bị xáo trộn…nhiều bài VÈ ra đời phản ánh chân thực đời sống xã hội và cũng có nhiều bài VÈ góp phần vào công việc chấn hưng văn hóa dân tộc, giữ gìn đạo lý làm người, răn dậy người đời “đói cho sạch, rách cho thơm”. Bài VÈ “Án đồng tiền đồng bạc” với nội dung kiên quyết không thừa nhận nguyên tắc “có tiền mua tiên cũng được” và bài VÈ cũng lên án quyền lực tàn nhẫn của đồng tiền: “Làm cho thiên hạ đeo phiền/ buồn hiu quân tử, điếng điên anh hùng/ làm cho lỗi thủa đạo nhà/ năm giềng ba mối chẳng hòa vì ai/ làm cho người trí phải mê/ người điên cũng tỉnh nhiều bề tân oan/ làm cho son phấn đổi mầu/ khó nghèo nỡ phụ sang giàu a dua/ hư người thục nữ cũng hung/ đành đem má phấn chôn bùn vì ai ”.
Cùng với thể loại này, các bài VÈ phê phán đáng chú ý có:
VÈ đánh bạc: “Nghe vẻ nghe ve/ nghe vè đánh bạc/ đầu hôm xao xác/bạc tốt như tiên/ đến khuya không tiền/ bạc như chím cú/ cái đầu sù sụ/ con mắt trỏm lơ/ hình đi phất phơ/ như con chó đói/ chân đi cà khói/ dạo xóm dạo làng/ quần rách lang thang/ lồng tay mà túm ”.
VÈ uống rượu: “Uống một ly nhâm nhi tình bạn/ uống hai ly giải hạn cơn sầu/ uống ba ly mũi chảy đầy râu/ uống bốn ly ngồi đâu nói đó/ uống năm ly cho chó ăn chè/ uống sáu ly ai nói nấy nghe/ uống bảy ly làm xe lội nước/ uống tám ly chân bước, chân quỳ/ uống chín ly còn gì mà kể/ uống mười ly khiêng để xuống xuồng ”.
VÈ chửa hoang: “ Xem thử nó giống ai/ cái đầu nó giống ông cai/ cái lưng ông xã, cái vai ông trùm ”. Hay: “Thôi thôi ví lỡ ra rồi/ bồng con ra ngồi con thử giống ai?/ cái mặt thì giống Tuần Hai/ cái vai Tư Chống/ xương sống Biện tài/ chưn mày giống Tám Ít/ cái đít giống Bầu Khuê/ cái đề giống Tư Đủi/ cái lỗ mũi giống Tư Nghiêm/ cái đầu giống Ba Phó/ cái chứng ngó giống Mười Trương ”.
Bên cạnh những bài VÈ khen, chê hay mô tả, các bài VÈ thế sự đã phát huy mạnh mẽ nhất lọai hình báo chí truyền miệng này. Người đời sau chúng ta hôm nay phần nào hiểu được thân phận người dân dưới chế độ phong kiến (ngoài những truyện ngắn, tiểu thuyết, bài viết trên báo chí xưa) là những bài VÈ thế sự như: VÈ con cút, VÈ lỡ thời, VÈ lễ tết quan…Đọc những câu VÈ sau đây ta thấy cái “phong tục” này nó cũng mang đậm tính truyền thống và có sức sống mãnh liệt nếu như liên hệ với thời nay: “Sáp vàng hai bánh/ yến huyết một cân/ mứt bí mứt gừng/ trà Tàu trà Huế/ mứt chanh mứt khế/ cam rim hồng rim/ nhãn nhục táo kim/ đường phổi đường đá/ tôm khô vi cá/ đồn đột gân nai/ bột báng bột khoai/ dầu thông nấm mối/ cà cuống trứng sam/ bạch hương kỳ nam/ thuốc Tàu á phiện/ khô voi bò niển/ vịt nước le le/ ba ba cần đước/ tôi đà sắm trước/ đem tới ông Hy/ chẳng thiếu vật chi/ để mừng công tử ”. Ở bài VÈ này, có lẽ nhiều sản vật xưa nay không còn nữa và nếu còn cũng rất hiếm. Ngay cả nhiều danh từ cũng phải tra cứu mới hiểu nghĩa (chẳng hạn như “đồn đột” là một loại đỉa biển…).
Dân gian vẫn thường nói: “Một người làm quan cả họ được nhờ ”. Cái “truyền thống” này kéo dài suốt từ thời phong kiến cho đến tận ngày nay. Các ông quan của TK 21 này tuy không còn ăn “gân nai’, “đồn đột”, “khô voi”, “bò niển” nhưng các ông lại “ăn” được dự án, hoa hồng, công trình, quy hoạch…và thế là VÈ quan tham của TK 21 cũng rất đặc sắc khi mô tả các ông quan tham hết cả mọi đường: “Thói đâu có thói lạ lùng/ quan chức tham nhũng tận cùng cả danh/ địa vị, ngôi cao quan tranh/ ăn thìtranh cả cá ranh của làng/ bao giờ đến lượt đồng bào/ công, nông thực chất được “xào” chút danh/ chẳng qua để bớt hôi tanh/ cái sự ăn cướp, “tớ” hành chủ dân”.
Ở bất kỳ thời đại nào VÈ thế sự cũng luôn luôn phát huy vai trò vạch mặt, tố cáo, phê phán, vạch trần tội ác phi nhân của những bậc quyền chức không hề tránh né. Sau đây là những bài tiêu biểu của thời đại hôm nay:
VÈ thầy giáo cưỡng dâm học trò: “Có thầy hiệu trưởng họ Sầm/ cầm đầu tổ chức bán dâm học trò/ khách hàng toàn những quan to/ có cả chủ tịch Trường Tô tỉnh mình/ năm đồng một lượt bán trinh/ ba đồng một cú làm tình “con heo”/ quê ta xứ núi tỉnh nghèo/ các em phải chịu giá bèo vậy thôi/ phận hèn bèo dạt mây trôi/ các em bị chúng nó lôi ra tòa/ quan lớn, quan bé nó tha/ để giữ uy tín đảng ta cầm quyền ”.
VÈ tố cáo quan tham: “Liêm đéo liêm, Hiền đéo hiền/ chân khệnh khạng mắt láo liên/ đội trên đạp dưới loài sâu bọ/ mặt sắt nhơn nhơn nhẵn như tiền ”.
VÈ chống Tàu bành trướng: “Nhà nước này là thuộc nước nào?/ “tuyên truyền chống giặc” bắt vì sao?/ ngàn năm uất hận quân Nam Hán/ muôn thủa bầm gan lũ giặc Tàu/ phủ chúa sớm quên “bài học Đặng”/ cung vua làu thuộc “sách ông Mao”/ bắt người chống giặc vì dân, nước/ nhà nước bây giờ của “nước” nao? ”
VÈ dân oan: “Nếu không có bom Vươn/ ác bá chẳng về vườn/ bọn bất nhân bó rọ/ cường hào bớt nhiễu nhương/ nếu không có bom Vươn/ chính sách cướp ruộng nương/ vẫn triển khai độc đảng/ năm châu khó tỏ tường/ nếu không có bom Vươn/ dân oan vẫn nhún nhường/ kéo nhau đi khiếu kiện/ ngồi vật vã bên đường/ nếu không có bom Vươn/ công an đỏ khinh thường/ khủng bố dân tư sản/ bốn biển cũng nan nường ”.
... cắt bỏ 1 đoạn.
Như chúng ta đã thấy,VÈ không chỉ mang chức năng khen chê, mô tả sự vật…có tính giải trí hài hước. VÈ cũng là để giáo huấn và cảnh tỉnh con người. Nó cũng giống như liều thuốc khi ta đau ốm. Nhiều bài VÈ còn là sản phẩm của trí tuệ, đọc lên cười đấy nhưng là “cười ra nước mắt ” vì thấy sao nó chua xót và cay đắng quá. Nhiều người vẫn thường tự hỏi mình, tại sao sống trong thời bình mà vẫn cảm thấy bất an? Nhiều người bảo đó là “lỗi hệ thống”. Cách đây hơn ba thập kỷ, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã sớm trăn trở: “Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ câu trả lời thật không dễ dàng chi… ”. Để xóa đi cái “lỗi hệ thống” này, ngẫm nghĩ cho kỹ ta thấy câu nói của TS Phạm Ngọc Cương thật chí lý: “Cần chuyển gấp một xã hội từ phong bao, xí chỗ, bảo kê quyền lợi, quỳ gối… tới một xã hội mà mỗi người để tồn tại và khẳng định luôn cần vươn vai, cọ xát và đào luyện, xiển dương tổng năng lực thực của mình trong sân chơi công bằng. Có vậy mới mong trời mỗi ngày một sáng ”. Vâng, nếu được như vậy thì những bài VÈ mô tả những thứ xấu xa vô đạo đức và vô pháp luật kia sẽ không còn đất sống để “những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa” và nhân dân Việt Nam mới thực sự được “độc lập, tự do, hạnh phúc”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét