TS Đặng Kim Sơn:
(Trái hay phải)-
"Nghề nông tác động tới an ninh và an toàn thực phẩm, lương thực, tác
động trực tiếp tới thiên nhiên, đó là một nghề quan trọng mà những người
lười biếng, kém hiểu biết không được làm. Đứng từ quan niệm như thế thì
vị thế người nông dân phải khác hẳn" - TS Đặng Kim Sơn, Viện trưởng
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp, Bộ NN&PTNT.
Lười biếng, kém hiểu biết thì không được làm nông dân
PV: - Có 1 câu chuyện cổ
nói về người nông dân giàu kinh nghiệm nên khi thỏa thuận chia phần thì
thần Sét (hoặc con gấu) dù đòi phần ngọn, phần gốc hoặc đòi cả phần gốc
lẫn phần ngọn thì đều thua anh nông dân nhưng ở thời đại kỹ trị này,
trí thông minh và láu cá đã thay thế kinh nghiệm nên dù anh nông dân đòi
phần ngọn, phần gốc hay đòi cả gốc lẫn ngọn thì anh ta cũng vẫn thua
thiệt. Xét theo chiều hướng phát triển này thì, theo ông, có cách nào
giúp người nông dân đỡ thiệt thòi được không?
TS Đặng Kim Sơn: - Câu trả lời là bản thân
người nông dân trong xã hội mới phải là người nông dân thông minh. Thứ
nhất, họ phải là người nông dân chuyên nghiệp. Ngày nay, không thể coi
nghề nông là nghề cha truyền con nối, sinh ra trên mặt ruộng là biết làm
nông và ai cũng có thể làm được.
Nghề nông tác động tới an ninh và an toàn thực phẩm,
tác động trực tiếp tới thiên nhiên, đó là một nghề quan trọng mà những
người lười biếng, kém hiểu biết không được làm. Đứng từ quan niệm như
thế thì vị thế người nông dân phải khác hẳn. Đứng từ quan niệm như thế
thì thân phận người nông dân khác hẳn.
Người nông dân phải học sản xuất (biết lựa chọn cây
trồng, vật nuôi, phân bón...), kinh doanh (có nên vay vốn hay không, sản
phẩm trữ lại hay bán), quản lý, phát triển (phối hợp với các nông dân
khác, liên kết với doanh nghiệp).
Người nông dân phải học qua trường lớp, qua những lớp
tập huấn về quản lý, kỹ thuật, kinh doanh, phải có những chứng chỉ về
mặt tiêu chuẩn cây trồng vật nuôi, nghề nghiệp...
Trong tương lai, những người nông dân nào đạt được
tiêu chuẩn như thế thì mới được làm nông dân. Nông nghiệp hiện đại sẽ là
một nghề của khoa học và công nghệ dùng nhiều máy móc, dùng nhiều hóa
chất.
TS Đặng Kim Sơn |
Sau khi được đào tạo và cấp bằng, người nông dân phải
được tổ chức lại với nhau thành hiệp hội, hiệp hội của những người nông
dân chuyên nghiệp. Đó là hiệp hội gắn chặt với quyền lợi và trách nhiệm
của người nông dân.
Ví dụ, người nông dân tham gia vào hiệp hội sẽ được
nhận những quyền lợi của Nhà nước như: miễn thuế, tích tụ ruộng đất,
tham gia miễn phí các lớp tập huấn, vay vốn với lãi suất ưu đãi, được
dùng hóa chất làm phân bón và thuốc trừ sâu...
Tiến tới, hiệp hội có thể quản lý chất lượng nông
sản, chỉ nông dân trong hội được mua vật tư của hội với giá ưu đãi...
Nếu sản xuất rau nhiễm độc, thịt lợn chứa hóa chất..., họ sẽ bị khai trừ
khỏi hội và không được làm nghề nông nữa.
Bước thứ ba, người nông dân phải được tổ chức lại
trong những ngành hàng. Trong những ngành hàng đó, đại diện của các khâu
phải được đặt ngang hàng nhau khi đàm phán, có quyền quyết định ngang
nhau, ví dụ lá phiếu của đại diện người nông dân cũng ngang với của nhà
xuất khẩu hay người chế biến... Tất cả những người ấy đều phải chịu chịu
trách nhiệm với chất lượng, thương hiệu của nông sản.
Nếu làm được như vậy, đại diện của người nông dân sẽ
được trực tiếp bàn về chính sách, đầu tư... và có vai trò quyết định lớn
hơn. Họ không cần phải lo đòi phần gọn phần gốc, vì hội nông dân sẽ
thuê luật sư hay chuyên gia giúp để không ai có thể bắt nạt, lừa người
nông dân được.
Trong tương lai xa, tất nhiên chúng ta không thể có
40 triệu nông dân thông minh như số lượng nông dân chúng ta đang có hiện
nay mà chỉ còn khoảng 4 triệu người. Vì vậy, quá trình xây dựng lực
lượng nông dân thông minh cũng là quá trình chuyển động cơ cấu lao động
vĩ đại mà phần lớn lao động nông thôn sẽ đi sang các ngành phi nông
nghiệp.
PV:- Ngày 4/7, chỉ đạo
tại hội nghị ngành kế hoạch - đầu tư về xây dựng kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2013 và kế hoạch đầu tư ngân sách 2013-2015, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đồng ý để Ngân hàng Nhà nước tiếp tục dành thêm
trên 20.000 tỉ đồng (lãi suất 0%) để đưa vào nông nghiệp và chế biến
xuất khẩu. Nông nghiệp luôn luôn được quan tâm hàng đầu nhưng kết quả
thì, gạo VN xuất khẩu không được giá cao, người Việt luôn nơm nớp với
thực phẩm bẩn… Tại sao dù được hỗ trợ nhưng kết quả vẫn như vậy, thưa
ông?
TS Đặng Kim Sơn: -Trước đây chúng ta đã dành
nhiều khoản đầu tư cho nông nghiệp với lãi suất 0%. Thường thường, Nhà
nước giao tiền cho ngân hàng để họ cho các doanh nghiệp vay, mua nông
sản tạm trữ thời điểm thu hoạch rộ nhằm làm tăng giá của nông sản vào
những thời điểm đó, hi vọng tăng thu nhập cho nông dân.
Chúng ta hỗ trợ nông dân theo cách này nhiều năm nay,
có lúc hiệu quả chút ít (giá nông sản có tăng), có lúc không hiệu quả
(giá nông sản không tăng dù tiền đã chi ra). Bởi mục tiêu là tăng thu
nhập cho người nông dân nhưng tiền thì đi từ túi Chính phủ sang ngân
hàng, rồi doanh nghiệp.
Người nông dân chỉ nhận được tác động gián tiếp qua
giá. Người chắc chắn hưởng lợi từ chính sách là ngân hàng, doanh nghiệp,
còn người nông dân chưa chắc đã hưởng lợi. Giám sát việc thực hiện thì
hầu như không thể làm được do rào cản của thông tin từ ngân hàng (không
biết bao nhiêu doanh nghiệp được vay tiền), của doanh nghiệp (doanh
nghiệp sử dụng khỏan vay đó vào những mục đích gì). Những chính sách
gián tiếp khó có thể giám sát như vậy rủi ro về mặt hiệu quả là rất lớn.
Tuy nhiên, nếu giao trực tiếp cho nông dân tạm trữ sẽ
gặp hai khó khăn: 1. Phải tổ chức một bộ máy khổng lồ để giao tiền tận
tay hàng triệu hộ nông dân. Việc giám sát còn khó hơn cách giao cho
doanh nghiệp; 2. Ngân sách Nhà nước có hạn, nếu chia tới từng hộ nông
dân thì số tiền được hỗ trợ sẽ chẳng đáng là bao, rất khó thấy tác động.
Vậy phải làm như thế nào? Thái Lan cũng thường đưa ra
những chính sách hỗ trợ trực tiếp người nông dân. Nhưng họ cho xây dựng
những kho trữ lúa, người nông dân tới gửi lúa miễn phí sẽ nhận được hóa
đơn.
Với hóa đơn đó, họ có thể ra ngân hàng vay tiền với
lãi suất ưu đãi, số lúa gửi trong kho là vật thế chấp. Nhà nước hỗ trợ
giúp nông dân phần sơ chế nông phẩm... Như vậy, người nông dân sẽ trực
tiếp được hưởng lợi, hiệu quả của chính sách cao hơn. Quản lý tại kho dễ
hơn quản lý tại hộ nông dân.
Tất nhiên hỗ trợ theo cách đó sẽ vất vả vì phải có
kho, có máy sấy, có người thu mua của dân. Nhưng hiện nay Việt Nam đã có
cánh đồng mẫu lớn, ở nhiều nơi như An Giang, Đồng Tháp doanh nghiệp đã
kết hợp với nông dân, hỗ trợ sàng quạt, phơi sấy, phân bón, giống
thuốc...
Nhà nước chỉ cần hỗ trợ chính các doanh nghiệp khi
nông dân đến gửi lúa hoặc giao cho doanh nghiệp hỗ trợ trực tiếp cho
nông dân gửi lúa, sấy lúa.
Đừng chỉ lại ở mức độ ban phát nhân đạo
PV: - Trong lần trao đổi
trước, ông có đề cập tới vấn đề “Người đô thị đang có quá nhiều lợi
thế. Họ có thể gây hại cho người nông dân mà không gặp trở ngại nào”. Có
lẽ không đơn giản chỉ là chuyện dân đô thị đem rác thải về đổ ở nông
thôn, xây nghĩa trang ở nông thôn, lấy đất của nông dân để tạo dựng các
khu công nghiệp, đô thị vv…mà quan trọng hơn là câu chuyện cơ chế chính
sách. Quan điểm của ông như thế nào?
TS Đặng Kim Sơn:- Trong quá trình xây dựng
chính sách, tại sao lại có nguy cơ thiên vị người đô thị, từ đó tạo thế
bất lợi cho người nông thôn? Có thể, điều này không phải cố ý, càng
không phải là mục tiêu của người xây dựng chính sách mà nó là hệ quả của
mối tương quan trong xã hội: người đô thị có khả năng tiếp cận với đầy
đủ thông tin hơn, có quan hệ với các cơ quan công quyền, các cơ quan xây
dựng và thực thi chính sách nhiều hơn.
Đa số những người làm nhiệm vụ xây dựng và thông qua chính sách sống ở đô thị, quyền lợi gắn chặt với đô thị.
Trong khi đó, người dân nông thôn tuy chiếm số đông,
nhưng ngoài những bất lợi kể trên còn có trình độ học vấn không cao,
không có cơ hội tiếp cận đến các cơ quan truyền thông để phản ánh ý
kiến; cũng như không trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình
hoạch định chính sách.
Vì vậy, khi xuất hiện những chính sách có mâu thuẫn
về quyền lợi giữa hai nhóm lợi ích, bao giờ nhóm ở đô thị cũng được lắng
nghe, để ý hơn, nếu như không nói là được chăm chút hơn.
Về khía cạnh kinh tế, các hoạt động kinh tế ở đô thị
là những hoạt động có năng suất lao động, giá trị gia tăng cao, gắn với
thị trường quốc tế và tiến bộ kỹ thuật. Cho nên xét về hiệu quả, rất dễ
biện luận về sự cần thiết phải đầu tư ưu tiên cho khu vực đô thị.
Trong khi đó, các hoạt động tương tự ở nông thôn diễn
ra trên phạm vi rộng, mật độ thấp, trình độ công nghệ hạn chế nên lợi
ích hay tầm ảnh hưởng về kinh tế, môi trường, chính trị, ngoại giao...
không thể sánh bằng.
Tất cả những nguyên nhân trên đều là những nguyên
nhân khách quan dẫn tới sự không công bằng về chính sách giữa khu vực
nông thôn và đô thị.
PV: - Theo ông, cần phải tháo gỡ những điểm nào để người nông dân không bị bất lợi về lợi ích so với người đô thị?
TS Đặng Kim Sơn: - Tất cả những điểm tôi nói ở
trên đều là nguyên nhân khách quan. Nếu Nhà nước không tác động, để
chúng phát triển tự nhiên thì sẽ xảy ra sự thiên vị người đô thị. Muốn
thay đổi điều này đương nhiên không dễ.
Đầu tiên là ở khâu xây dựng chính sách. Phải có luật
lệ, quy định rõ ràng rằng, trong quá trình xây dựng chính sách, hễ động
tới đối tượng nào thì người đại diện của đối tượng đó phải được tham gia
vào quá trình hoạch định, đánh giá và thẩm định chính sách.
Tiếng nói và quyền hạn của những người đại diện này
ngang nhau. Tới khâu triển khai chính sách, phải tổ chức đánh giá mức độ
tác động xấu hoặc tốt cho đến các đối tượng hưởng lợi hoặc không hưởng
lợi nhưng vẫn bị chịu tác động không mong muốn của chính sách, để kịp
thời có điều chỉnh.
Chính sách nào để người nông thôn đỡ bất lợi so với người đô thị? |
Nhưng như vậy, những tổ chức của đoàn thể, của cộng
đồng thực sự phải hoạt động hiệu quả bảo vệ được quyền lợi của người dân
nông thôn. Đồng thời phải có những quy định để giám sát những đơn vị
thực hiện chính sách thực hiện bằng được các mục tiêu đề ra.
Một điểm quan trọng nữa là những chính sách phục vụ
nông thôn, hướng về nông thôn phải nhằm phát huy lợi thế của nông thôn,
tạo cơ hội phát triển cho nông thôn, chứ không dừng lại ở mức độ ban
phát nhân đạo, hoặc tháo gỡ những căng thẳng, sửa chữa những sai lầm. Có
như vậy, cách nhìn về nông thôn và mục tiêu xây dựng chính sách mới
thật sự đúng đắn.
Bao giờ "giác ngộ"?
PV: - Ông từng nói,
trong hoàn cảnh này, đầu tư vào nông nghiệp hữu cơ sẽ “thắng” lớn. Năm
2012 này, thế giới phát động “kinh tế xanh”, coi đó là lời giải cho bài
toán môi trường và phát triển bền vững. Theo ông, nông nghiệp hữu cơ hay
rộng hơn là kinh tế xanh nên được coi trọng thế nào trong nền kinh tế
Việt Nam hiện nay?
TS Đặng Kim Sơn: -Theo tôi, kinh tế xanh trước
hết dựa trên những ngành tạo ra sản phẩm căn bản: nông lâm ngư thủy
sản, hoặc nó dựa trên những ngành khác có liên quan tới sinh vật ví dụ
như y học, dược học, thậm chí cả những ngành phát triển năng lượng
nguyên liệu tái tạo, điện gió, biogas, điện mặt trời, phế phụ phẩm nông
nghiệp... Kinh tế xanh còn là phát triển dịch vụ. Lợi thế của Việt Nam
là con người, chính vì thế việc phát triển con người, phát triển dịch vụ
cũng không tách rời khỏi kinh tế xanh.
Không chỉ ở Việt Nam, rất nhiều nước trên thế giới đã
và đang quay trở lại nông nghiệp. Nhưng ít nước nào có lợi thế tuyệt
đối về nông nghiệp như Việt Nam. Ở Đông Nam Á, có chăng chỉ Thái Lan so
sánh được với Việt Nam về điều nay và Thái Lan đã bắt đầu nhận thấy lợi
thế của họ.
Chuyên gia Micheal Porter, cha đẻ của chiến lược cạnh
tranh cũng nhận định, lợi thế của Việt Nam là nông nghiệp. Chúng ta
phải biến nông nghiệp trở thành nội dung căn bản của quá trình tái cơ
cấu nền kinh tế.
Theo tôi, về lâu dài, định hướng chính cho phát triển
nông nghiệp Việt Nam là giá trị gia tăng cao, phát triển vững bền, chất
lượng tốt. Ngoài ra, nếu chúng ta chuyển sang sản xuất những mặt hàng
thu nhập cao, người dân dùng nhiều như lâm sản, thủy sản, lợn tỷ lệ nạc
cao, thức ăn có chất dinh dưỡng tốt, giảm cholesterol, chắc chắn chúng
ta sẽ bán được hàng với giá cao, đồng thời tiết kiệm được tài nguyên.
Đấy là hướng ra cho nền nông nghiệp Việt Nam tương lai.
Đi xa hơn nữa, nếu chúng ta có thể xây dựng hệ thống
công nghiệp chế biến nông sản, nâng cao giá trị của cho nông sản, chúng
ta còn có cơ hội phát triển định hướng công nghiệp theo kiểu mới, dựa
trên chính lợi thế của đất nước chúng ta. Như vậy, nông nghiệp không chỉ
mở đường cho chính mình, cho người dân nông thôn mà còn mở đường cho
công nghiệp hóa đất nước nữa.
Để làm được điều đó, cần một quá trình rất khó khăn,
thực chất là thay đổi tư duy. Thực chất, trong mấy chục năm từ khi xây
dựng CNXH tới giờ, chúng ta ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Sau đó,
cũng có những lúc chúng ta đề cao nông nghiệp nhưng theo đúng như câu
ngạn ngữ: "Nhất sĩ nhì nông/ Hết gạo chạy rông/ Nhất nông nhì sĩ". Bây
giờ chúng ta không thể làm theo cách như vậy.
PV: - Những điều kiện như vậy có còn với Việt Nam, được đánh giá là đã cơ bản khai thác xong tài nguyên?
TS Đặng Kim Sơn: - Những nước bị đẩy tới chân
tường thì họ sẽ có ý thức giác ngộ nhất. Còn những nước giàu có về
khoáng sản nhất là những nước lãng phí nhất. Các nước Ả rập ngồi trên
những mỏ dầu lửa nhưng sử dụng tài nguyên cực kỳ lãng phí. Israel, Nhật
Bản hầu như không có tài nguyên nào nhưng sự phát triển của nó khiến cho
cả thế giới ngưỡng mộ.
Việt Nam có 4 mùa, đất nước trải dài dọc bờ biển, hơn
70% diện tích là đồi núi..., đó là tiềm năng phát triển kinh tế xanh.
Vấn đề là cần có một lý thuyết phát triển thực sự, cẩn trọng với việc
khai thác tài nguyên, cẩn trọng với những thứ tác động mạnh lại với
những yếu tố liên quan tới sinh giới như lấy đất ruộng làm khu công
nghiệp, thủy điện...
- Hoàng Hạnh (thực hiện)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét