Minh Nhung
Nền kinh tế Việt Nam đang
phải đối mặt với 5 vấn đề lớn.
Đó là, tăng trưởng, lạm phát, nợ xấu, tồn kho và công ăn việc làm.
Đó là, tăng trưởng, lạm phát, nợ xấu, tồn kho và công ăn việc làm.
Tăng trưởng thấp, nhưng là hợp lý
Tăng
trưởng GDP quý I đạt 4%, 6 tháng đầu năm đạt 4,38% là mức thấp nhất so
với tốc độ tăng của cùng kỳ trong 3 năm trở lại đây. Mức thấp nhất không
chỉ ở tốc độ chung, mà còn ở cả 3 nhóm ngành, trong đó đáng quan tâm
nhất là tăng trưởng của nhóm ngành công nghiệp và xây dựng - động lực và
đầu tầu tăng trưởng chung - đã giảm sâu hơn và thấp hơn tốc độ tăng
trưởng chung. Theo dự báo của các tổ chức quốc tế, các chuyên gia và cơ
quan hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô trong nước, tăng trưởng kinh tế
cả năm 2012 đều thống nhất ở mức cận trên 5,7%, mức cận dưới là 5,4%,
hoặc từ 5,3% trở xuống. Nếu đạt trên 5,32%, tăng trưởng của năm 2012 chỉ
là “đáy” từ năm 2010 đến nay; nếu đạt dưới 5,32%, tăng trưởng của năm
2012 sẽ là “đáy” tính từ năm 2000 đến nay (chỉ sau năm 1999).
Mặc
dù tốc độ tăng trưởng năm 2012 được dự báo là thấp so với năm 2011 và
so với mục tiêu đề ra cho năm nay, nhưng có thể được coi là hợp lý, vì
nhiều lẽ.
Đạt được tốc độ tăng như trên trong điều kiện có nhiều khó
khăn, thách thức, trong đó có những mặt còn khó khăn hơn cả năm 2009. Cụ
thể, từ năm 2011 đến nay, các nguồn được tích lũy từ các năm trước cạn
dần; sau 2 năm lạm phát cao ở mức 2 chữ số; lãi suất vay lớn gấp rưỡi,
gấp đôi so với năm 2009; tăng trưởng tín dụng đột ngột giảm mạnh (năm
2011 chỉ còn tăng 12%, 7 tháng đầu năm 2012 chỉ còn tăng 0,57%). Trong
cùng thời gian trên, tồn kho ở mức rất cao, diễn ra ở nhiều loại sản
phẩm thuộc nhiều khâu, nhiều ngành, nhóm ngành.
Tăng
trưởng kinh tế quý II cao hơn quý I (4,66% so với 4%), triển vọng của 6
tháng cuối năm sẽ cao hơn của 6 tháng đầu năm (cao hơn 4,38%). Điều đó
chứng tỏ, tăng trưởng kinh tế đã có dấu hiệu thoát đáy, vượt dốc đi lên.
Lạm phát giảm, nhưng chưa thể chủ quan
Lạm
phát biểu hiện cụ thể là tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) năm 2010 ở mức
khá cao (từ tháng 9/2010, làm cho cả năm tăng 11,75%); năm 2011 ở mức
rất cao trong 9 tháng đầu năm (làm cho cả năm tăng 18,13%). Lạm phát đã
được kiềm chế từ tháng 10/2011 đến nay (tháng 7/2012 so với tháng
9/2011, CPI tăng 3,53%, bình quân 1 tháng tăng 0,35%, trong đó đã giảm
trong 2 tháng nay). Nếu tính theo năm, CPI của tháng 7 tăng 5,35%, đã
giảm liên tục qua các tháng sau khi đạt đỉnh điểm 23,02% vào tháng
8/2011; khả năng sẽ còn tăng thấp hơn trong một vài tháng tới, sau đó sẽ
tăng cao lên từ tháng 10, nhưng tính đến tháng 12, cũng sẽ tăng ở dưới
6%- thấp hơn rất nhiều so với năm trước (18,13%) và so với mục tiêu đề
ra cho năm nay (dưới 10%). Thế nhưng, chưa thể chủ quan, bởi lạm phát có
thể quay trở lại.
Năm
nay, có một số yếu tố tác động đáng lưu ý. CPI trong thời gian qua tăng
thấp, có nguyên nhân quan trọng do giá lương thực đã giảm 7 tháng liền,
giá thực phẩm đã giảm 5 tháng liền (tính chung 7 tháng lương thực, thực
phẩm giảm 2,08%), suy ra giá hàng hóa, dịch vụ ngoài lương thực - thực
phẩm tăng 4,5%, cao gấp đôi tốc độ tăng chung; nếu tính theo năm, trong
khi giá lương thực - thực phẩm tăng khoảng 1,77%, thì giá hàng hóa, dịch
vụ ngoài lương thực tăng khoảng 7,3%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng
chung 5,35%. Trong khi đó, giá lương thực - thực phẩm phụ thuộc vào
thiên tai, dịch bệnh, khả năng tiếp cận vốn để giữ đàn gia súc, gia cầm
của các hộ chăn nuôi…); còn giá hàng hóa, dịch vụ khác có thể tăng cao
hơn do nới lỏng tài khóa, tiền tệ.
Các
giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trường
theo Nghị quyết 13/NQ-CP cùng với liều lượng tăng lên của các giải pháp
đó cũng tác động tới CPI. Giá của một số loại hàng hóa, dịch vụ (đầu vào
của hầu hết các ngành, lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng), nhất là điện,
xăng dầu, ga, nước, dịch vụ y tế, thủy lợi phí… tăng lên, làm cho chi
phí đẩy tăng, cộng hưởng với yếu tố tâm lý sẽ kéo mặt bằng giá lên theo.
Các
yếu tố trên nếu cộng hưởng với các yếu tố giá thế giới, với nhu cầu cao
lên vào dịp cuối năm, nhất là vào dịp Tết Nguyên đán, có thể đẩy CPI
tăng cao từ cuối năm nay.
Nợ xấu: điểm nghẽn lớn
Nợ xấu đang ở mức cao, cả về quy mô tuyệt đối và về tỷ lệ so với tổng dư nợ tín dụng.
Nợ
xấu vẫn tiếp tục tăng khá nhanh. Nợ xấu diễn ra ở hầu hết các ngân hàng
thương mại, từ ngân hàng nhỏ đến ngân hàng lớn. Nợ xấu có ở nhiều sản
phẩm, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Tỷ lệ nợ xấu cao nhất là lĩnh vực bất
động sản, trong khi thị trường này vẫn trầm lắng, giá bất động sản có
thể chưa chạm đáy, thời hạn vay dài, lãi suất cao…, nên xu hướng còn cao
lên và việc xử lý thường rất khó khăn. Một điểm đáng lưu ý nữa là việc
xử lý nợ xấu đã được bàn bạc khá lâu, với nhiều ý kiến khác nhau về sự
cần thiết phải xử lý, về nguồn vốn, về phương pháp, về đối tượng, về
hình thức tổ chức…
Nợ
xấu tác động tiêu cực đến nhiều mặt. Trước hết, làm tăng nghẽn dòng tín
dụng ra nền kinh tế. Trong 7 tháng đầu năm 2012, tốc độ tăng trưởng tín
dụng chỉ đạt 0,57%. Điều đó chứng tỏ, dòng tiền vẫn còn đang loanh
quanh trong hệ thống ngân hàng. Đây là một trong những điểm nghẽn lớn
nhất tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế, làm cho sản xuất, kinh doanh
và thị trường gặp khó khăn, doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, thậm chí
nhiều doanh nghiệp bị ngừng hoạt động, phá sản. Nợ xấu cũng làm cho lãi
suất cho vay của các ngân hàng thương mại ở mức cao trong thời gian
dài, gần đây tuy đã được giảm xuống, nhưng vẫn còn lớn. Chênh lệch giữa
lãi suất cho vay và lãi suất huy động còn cao. Cần sớm có sự thống nhất
trong việc xử lý nợ xấu, nếu không nợ xấu sẽ ngày một tăng, tác động
tiêu cực của nó sẽ ngày một lớn và việc khắc phục sẽ vừa tốn kinh phí,
tốn thời gian hơn.
Tồn kho cao
Tồn
kho đang là một trong những điểm nghẽn lớn nhất hiện nay. Mặc dù tốc độ
tăng tồn kho sản phẩm ở một số ngành đã giảm xuống, nhưng vẫn còn khá
cao. Tồn kho cao diễn ra ở hầu hết các sản phẩm, các ngành, từ lương
thực, thực phẩm, đến sản phẩm công nghiệp, xây dựng, bất động sản, từ
sản xuất đến thương mại, thậm chí cả tiền vốn cũng đang loanh quanh, ứ
đọng thương mại ở ngân hàng. Đáng lưu ý, tồn kho cao không hoàn toàn do
sản xuất tăng cao, thậm chí tăng trưởng còn bị suy giảm so với tốc độ
tăng của cùng kỳ năm trước.
Tồn
kho cao do nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân do đầu tư, sản xuất, kinh
doanh co lại, làm cho nhu cầu đối với sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cũng co
lại theo. Có nguyên nhân do thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán
của dân cư tăng thấp, thậm chí của một bộ phận dân cư bị sụt giảm, do
mất hoặc thiếu việc làm khi doanh nghiệp ngừng sản xuất, phá sản, giải
thể. Có nguyên nhân do sản phẩm, hàng hoá giá bán còn cao, bình quân 7
tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước vẫn còn tăng 11,2%; nếu tốc độ
tăng thu nhập của người lao động thấp hơn con số đó, thì chi tiêu sẽ
thấp hơn.
Đó
là chưa kể còn có sự tác động của yếu tố tâm lý “tích cốc phòng cơ”, do
tác động của lạm phát cao trong 2 năm trước, nay lại lo tăng trưởng
kinh tế bị suy giảm, nên vẫn giữ tâm lý này, thậm chí còn “thắt lưng
buộc bụng” ở mức cao hơn, giảm lượng tiêu dùng, giảm chi tiêu. Một số
người trước đây có thể vay để đầu tư, chi tiêu, thì nay cũng sợ rủi ro,
nên không dám vay.
Những
người có thu nhập khá cũng có tâm lý chờ giảm giá nữa mới mua, mới chi
tiêu. Ngân hàng cũng “co cụm” do lo ngại nợ xấu tăng; đòi hỏi người vay
phải thế chấp, nhưng không phải tài sản nào cũng thế chấp được, nhất là
sản phẩm, hàng hoá tồn kho; ngay cả bất động sản thế chấp cũng rất khó
khăn khi thị trường này còn đang được dự đoán “đáy” đang ở phía trước và
nếu ngân hàng có “ôm” thì cũng rất khó xử lý.
Công ăn việc làm
Số
lao động đăng ký thất nghiệp, nhất là ở các đô thị lớn, các khu công
nghiệp tăng cao so với những năm trước. Đây chính là một trong những
nguyên nhân quan trọng làm cho tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng, sau khi loại trừ yếu tố tăng giá, đã tăng
chậm lại (nếu bình quân năm của thời kỳ 2001 - 2005 tăng 11,8%, của thời
kỳ 2006- 2010 tăng 15%, thì năm 2011 chỉ còn tăng 4,7%, 7 tháng đầu năm
2012 tăng 6,7% - đều thấp xa so với tốc độ tăng bình quân năm trong các
thời kỳ trước), tác động tiêu cực đến sản xuất, kinh doanh, thị trường.
Đây cũng là một trong những yếu tố tác động đến nhiều chỉ tiêu xã hội
khác, cũng như tác động tiêu cực đến việc thực hiện mục tiêu bảo đảm an
sinh xã hội.
Trong
các mục tiêu trên, đáng lưu ý là tỷ lệ nghèo. Những năm trước, tỷ lệ hộ
nghèo thường giảm khá nhanh: tính theo chuẩn nghèo cũ, tỷ lệ nghèo của
năm 2006 là 15,5%, của năm 2008 là 13,4%; nếu tính theo chuẩn nghèo mới
trong giai đoạn 2011 - 2015 (400.000 đồng/người/tháng đối với khu vực
nông thôn và 500.000 đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị), thì tỷ
lệ nghèo của năm 2010 là 14,2%, của năm 2011 là 12,6%. Năm nay, tỷ lệ
nghèo có thể vẫn giảm, nhưng sẽ không nhanh như các năm trước, song có
thể số cận nghèo sẽ gia tăng.
Việc
giải quyết năm vấn đề lớn nêu trên đòi hỏi phải có sự hợp lực của các
cơ quan chức năng, doanh nghiệp... Một khi hạn chế được những tác động
tiêu cực của những yếu tố trên, thì chúng ta mới phát huy được mặt mạnh
của nền kinh tế, đảm bảo kinh tế phát triển ổn định, bền vững...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét