Bài viết cũ của tôi năm 1999:
BÀN THÊM VỀ NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA NỀN KINH TẾ NƯỚC TA VÀ MỘT VÀI GIẢI
PHÁP CẤP BÁCH
Từ đầu năm 1998, trên nhiều tạp chí
nghiên cứu, đã có những bài viết phân tích tình hình khó khăn hiện nay của nền
kinh tế nước ta và khuyến nghị một số giải pháp cấp bách. Cũng với mục đích
trên, bài báo này sẽ tập trung vào hai nội dung chính: 1) Xu hướng ngày càng xấu
đi của nền kinh tế Việt nam sau đỉnh cao năm 1995 đã rất rõ ràng; nó có nguồn gốc
chủ yếu từ những yếu kém trong nội bộ nền kinh tế, và bị mạnh lên do tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, và 2) Dù cho các nền kinh tế trong
khu vực đang phục hồi nhanh hơn dự kiến, tình hình kinh tế nước ta sẽ còn xấu
hơn nữa nếu chính phủ kh“ng có những đối sách kiên quyết hơn. Tuy nhiên, có thể
tin r”ng nếu các nền kinh tế châu á tiếp tục phục hồi vững chắc như 6 tháng đầu
năm 1999 và việc triển khai những nghị quyết gần đây của chính phủ được tiến
hành tốt thì tình hình kinh tế nước ta năm 2000 sẽ sáng sủa hơn năm 1999.
I- NHỮNG KHÓ KHĂN
HIỆN NAY CỦA NỀN KINH TẾ NƯỚC TA:
Phân tích những tiến triển trong hơn
ba năm gần đây đã chỉ ra một cách rõ ràng r”ng nền kinh tế nước ta đang ở trong
một giai đoạn cực kỳ khó khăn. Những dấu hiệu chính gồm:
1) Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế giảm
nhanh và tỷ lệ thất nghiệp liên tục tăng lên
Các số liệu thống kê đã chứng tỏ
r”ng tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta đã kh“ng ngừng giảm sút từ năm
1996 đến nay. Nếu như tỷ lệ tăng trưởng GDP là 9,5% năm 1995 thì nó chỉ còn 5,8
% năm 1998 và 4,3% trong 6 tháng đầu năm 1999. Có hai điểm đáng chú ý về tỷ lệ
tăng trưởng GDP. Thứ nhất, một phần của sự tăng trưởng kể trên đến từ các sản
phẩm kh“ng bán được, nhất là các sản phẩm do khu vực doanh nghiệp nhà nước sản
xuất ra. Giá trị hàng hoá tồn kho đã và đang tăng lên đến mức đáng lo ngại. Do
vậy, tỷ lệ tăng trưởng thực chất của GDP còn nhỏ hơn con số nêu trên.
Bảng 1: Tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng
năm của các ngành kinh tế (%)
Năm
|
Toàn nền kinh
tế
|
Nông nghiệp
|
Công nghiệp
|
Dịch vụ
|
1986
|
2,3
|
2,4
|
10,3
|
-2,8
|
1987
|
3,6
|
-0,5
|
9,2
|
5,3
|
1988
|
6,0
|
3,9
|
5,3
|
9,1
|
1989
|
4,7
|
6,8
|
-2,8
|
7,6
|
1990
|
5,1
|
1,6
|
2,9
|
10,8
|
1991
|
6,0
|
2,2
|
9,0
|
8,3
|
1992
|
8,65
|
7,1
|
14,0
|
7,0
|
1993
|
8,1
|
3,8
|
13,1
|
9,2
|
1994
|
8,8
|
3,9
|
14,0
|
9,6
|
1995
|
9,5
|
4,8
|
13,6
|
9,8
|
1996
|
9,3
|
4,4
|
14,5
|
8,8
|
1997
|
8,2
|
4,3
|
12,6
|
7,1
|
1998
|
5,8
|
2,7
|
10,3
|
4,2
|
Nguồn số liệu :
Niên giám thống kê 1995-1998
Thứ hai, việc giảm tỷ lệ tăng trưởng
diễn ra trong tất cả các khu vực của nền kinh tế quốc dân như bảng 1 đã chỉ ra.
Sản xuất n“ng nghiệp năm 1998-1999 cao hơn kh“ng đáng kể so với tỷ lệ tăng trưởng
dân số. Cơ cấu sản xuất n“ng nghiệp hầu như kh“ng thay đổi kể từ năm 1980 đến
nay. N“ng th“n tiếp tục nghèo nàn và lạc hậu. Trong c“ng nghiệp, phần lớn các
ngành đều giảm nhanh tỷ lệ tăng trưởng, chỉ một vài ngành như sản xuất dầu th“,
xi măng, giấy, khai thác than, và một số sản phẩm thuộc c“ng nghiệp khai thác
và c“ng nghiệp hàng tiêu dùng còn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, nhưng
cũng đang gặp rất nhiều khó khăn vì phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập khẩu
từ các nước châu á đang khủng hoảng.
Theo các lý thuyết kinh tế vĩ m“ và
kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, đối với một nền kinh tế có tỷ lệ tăng
trưởng dân số hàng năm 2%, một tỷ lệ tăng năng suất lao động 5-7% và một tỷ lệ
tăng trưởng lực lượng lao động trên 3% cộng với 2-3 triệu lao động thất nghiệp
và 6-7 triệu lao động thiếu việc làm như trường hợp nước ta hiện nay, cần phải
đạt được một tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm tối thiểu 6-7% để vừa giải quyết được
việc làm cho người lao động, vừa cải thiện được đời sống nhân dân. Theo tiêu
chuẩn này, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Việt nam tụt xuống dưới 6% năm 1998-99 là
một dấu hiệu rất đáng lo ngại. Nếu tỷ lệ tăng trưởng tiếp tục thấp và kéo dài,
tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng, mức sống giảm, kéo theo nguy cơ khủng hoảng kinh tế
và bất ổn xã hội. Trên thực tế, việc giảm nhanh tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trong
ba năm vừa qua đã làm tăng tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố từ 5,88% năm 1995 lên
6,01% năm 1996, 6,25% năm 1997 et 6,85% năm 1998.
2) Tiêu dùng đang trì trệ và nhìn
chung, các hộ gia đình đều cố gắng giảm chi tiêu
Những khó khăn của nền kinh tế nước
ta kể từ mùa hè năm 1996, minh chứng b”ng việc giảm sút tỷ lệ tăng trưởng của tất
cả các khu vực kinh tế, đã tạo ra cho các hộ gia đình một tâm lý lo ngại về một
giai đoạn khó khăn mới sau suy thoái 1986-1990. Điều đó cũng có nghĩa là thu nhập
và mức sống trong tương lai sẽ giảm đi. Hậu quả là các gia đình trở nên tiết kiệm
hơn để có tiền đảm bảo cuộc sống gia đình trong một tương lai được đánh giá là
khó khăn hơn (đồ thị 1). Việc gia tăng tốc độ giảm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế những
năm 1997, 1998 và 6 tháng đầu năm 1999 cùng với những ảnh hưởng tiêu cực của cuộc
khủng hoảng kinh tế khu vực châu á gần đây càng làm mạnh lên tâm lý dự báo bi
quan và hợp lý này.
Mặt khác, tầng lớp có thu nhập cao
xuất hiện trong quá trình cải cách kinh tế, đã đầu tư tương đối đủ cho cuộc sống
gia đình trong những năm 1991-95 (ví dụ như xây dựng nhà cửa, mua sắm bất động
sản và hàng tiêu dùng cao cấp...), nay kh“ng còn nhu cầu tiêu dùng thêm nữa.
Trong bối cảnh của Việt nam hiện nay, khi khu vực kinh tế tư nhân còn chưa thực
sự được nâng đỡ, người giầu đang chuyển đổi tiền tiết kiệm sang vàng và ngoại tệ
để tích luỹ. Từ năm 1995 đến nay và trong tương lai, khả năng phá giá đồng tiền
việt nam còn lớn, điều này càng thúc đẩy xu hướng giảm tiêu dùng và tăng tiết
kiệm b”ng ngoại tệ. Đến cuối 11/1998, huy động tiết kiệm b”ng tiền Việt tăng
18,8% so 31/12/97 trong khi cũng trong khoảng thời gian trên, tiền gửi ngoại tệ
tăng 134,6%[1].
Nhiều th“ng tin cho thấy sự mất vốn của Việt nam do khu vực tư nhân đang tìm
cách chuyển vốn ra nước ngoài. Đặc biệt, theo hải quan thành phố Hồ Chí Minh, tại
cửa khẩu sân bay Tân Sơn Nhất, từ hai năm nay, Việt nam đã trở thành nước xuất
khẩu vốn ròng đối với các hoạt động của khu vực tư nhân.
Đồ thị 1: Tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ
tăng trưởng tiêu dùng tư nhân thực (%)
|
Hơn nữa, do chính sách tiền tệ kém mềm
dẻo và duy trì lãi suất thực quá cao, giá cả ở Việt nam những năm gần đây tăng
lên rất chậm và kh“ng phản ánh đúng quan hệ giá trị. Giá cả ổn định trong thời
gian dài, thậm chi giảm sút trong nhiều tháng liên tiếp. Hậu quả là người dân cảm
thấy nên hạn chế tiêu dùng và dành tiền gửi ngân hàng để kiếm lãi suất cao, coi
gửi tiết kiệm như một nghề kinh doanh. Họ kh“ng chỉ gửi tiết kiệm ngắn hạn, mà
còn tích cực gửi tiết kiệm dài hạn, thậm chí hăng hái mua c“ng trái với thời hạn
5 năm. Người dân chỉ mua hàng trong trường hợp thật cần thiết vì họ hiểu r”ng
trong tương lai, giá cả hàng hoá sẽ giảm đi trong khi chất lượng hàng hoá sẽ tốt
hơn. Đây là một nguyên nhân quan trọng của hiện tượng mất cân đối cung cầu trên
thị trường hàng hoá tiêu dùng.
3) Các doanh nghiệp kh“ng còn muốn
tiếp tục đầu tư nữa.
Cung vượt cầu trên thị trường hàng
hoá đối với phần lớn các sản phẩm hàng hoá sản xuất nội địa đã dẫn tới giảm sút
đáng kể tỷ suất lợi nhuận đầu tư. Trong nhiều ngành, lợi nhuận đầu tư bình quân
còn thấp hơn giá vốn. Hậu quả là các doanh nghiệp kh“ng còn dám đầu tư nữa. Điều
này đã phản ánh đúng nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường: Giảm tỷ suất lợi
nhuận đã kéo theo giảm tỷ lệ đầu tư.
Đồ thị 2 cho thấy tỷ lệ tăng trưởng
đầu tư của khu vực tư nhân giảm rất nhanh. Sự giảm sút này còn bị đẩy nhanh do
cạnh tranh ngày càng khốc liệt của hàng hoá nhập khẩu và của các sản phẩm của
khu vực nhà nước, khu vực lu“n lu“n được sự nâng đỡ quá mức của chính phủ, và
do cạnh tranh của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Đầu tư thực hiện của khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài cũng giảm đi đáng kể (đồ thị 2), trong đó đặc biệt nghiêm trọng
là sụ giảm sút rất nhanh về giá trị vốn FDI cam kết, nhân tố quan trọng để duy
trì tốc độ phát triển kinh tế nước ta trong thời gian tới.
|
Đồ thị 2: Tỷ lệ tăng trưởng của đầu
tư tư nhân và FDI thực hiện (%)
Trong khu vực nhà nước, các doanh
nghiệp hưởng qui chế độc quyền và bán độc quyền vẫn tiếp tục làm ăn có lãi
trong điều kiện lãng phí và chi phí tiền lương cao, trong khi các doanh nghiệp
kh“ng độc quyền bị buộc phải tiếp tục đầu tư để tồn tại và duy trì thu nhập cho
người lao động, dù r”ng lãi xuất tín dụng cao và việc bán sản phẩm rất khó
khăn. Mục tiêu của các doanh nghiệp kh“ng độc quyền kh“ng còn là lợi nhuận nữa,
mà nh”m vào giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao động của họ.
Mặc dù có sự tăng giảm khác nhau,
song nhìn chung, tỷ lệ tăng trưởng của đầu tư của khu vực c“ng cộng đã giảm
đáng kể trong những năm gần đây. Nhiều doanh nghiệp nhà nước kh“ng còn muốn tiếp
nhận vốn ưu đãi bổ xung của chính phủ. Cũng do những khó khăn lớn liên quan đến
sự trì trệ của thị trường, tăng tâm lý tiết kiệm trong dân cư và việc suy giảm
nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế, quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà
nước đã diễn ra rất chậm.
4) Tỷ lệ tăng giá[2]
rất thấp, thậm chí có thể nói nền kinh tế nước ta đang ở trong tình trạng thiểu
phát:
Cũng do cung vượt cầu, giá trị các
hàng hoá kh“ng bán được đã và đang trở nên rất đáng kể. Đa số các ngành c“ng
nghiệp đã và đang phải hoạt động dưới c“ng suất. Tỷ lệ các bất động sản kh“ng
được sử dụng rất cao, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản, du lịch,
khách sạn và chế tạo tư liệu sản xuất... Hậu quả chung là áp lực thiểu phát
ngày càng mạnh.
Tỷ lệ tăng giá ở Việt nam đã giảm mạnh
trong ba năm gần đây. Nếu như tỷ lệ tăng giá năm 1995 là 12,7% thì nó chỉ còn
4,5% năm 1996, 3,6% năm 1997, 9,2% năm 1998 và 1,6% trong 6 tháng đầu năm 1999.
Theo đồ thị 3, từ năm 1992 đến nay, giá hàng tiêu dùng hàng tháng chỉ tăng mạnh
trong dịp tết nguyên đán, còn trong năm, tăng rất nhẹ hoặc ổn định. Từ năm
1996, giá cả đã giảm trong nhiều tháng liên tiếp. đặc biệt, gần đây, giá cả đã
giảm liên tiếp trong 4 tháng, từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1999. Đây là một trong
những dấu hiệu của hiện tượng thiểu phát.
Đồ thị 3: Tỷ lệ biến động giá cả
hàng tháng thời kỳ 1991-1999, (%)
Sự tăng lên của chỉ số giá cả chung
trong những năm gần đây chủ yếu xuất phát từ hai nguồn:
- Tăng giá chủ động của nhà nước đối
với các sản phẩm độc quyền và bán độc quyền trong khu vực kinh tế nhà nước,
trong đó có một số sản phẩm được điều chỉnh giá theo chương trình chuyển đổi
sang kinh tế thị trường. Thực tế, nhà nước kiểm tra chặt chẽ giá cả của các sản
phẩm này và đã chủ động tăng giá nh”m giảm thâm hụt tài chính cho các doanh
nghiệp và tăng thu ngân sách. Hơn nữa, nhà nước còn chủ động tăng lương trong
khu vực hành chính sự nghiệp và kinh tế c“ng cộng, tăng thuế để tăng tỷ lệ thu
ngân sách trên GDP làm tăng giá bán hàng... Rõ ràng nếu loại trừ yếu tố tăng
giá chủ động và khách quan của nhà nước theo chương trình chuyển sang kinh tế
thị trường thì tỷ lệ tăng giá của Việt nam sẽ thấp hơn nhiều.
-
Tăng có tính thời vụ của giá lương thực thực phẩm do những mất cân b”ng giữa
cung và cầu, do thiếu dự trữ mùa vụ hoặc do xuất khẩu quá nhiều. Năm 1998, phần
lớn của tăng chỉ số giá chung đã diễn ra vào đầu năm mà nguồn gốc là từ tăng
giá lương thực (giá lương thực tăng 23,1%). Nếu chính phủ có chính sách hợp lý,
chống tính chất mùa vụ của sản phẩm n“ng nghiệp, và kiểm tra tốt việc xuất khẩu
gạo, thì chắc chắn tỷ lệ tăng giá sẽ thấp hơn. Cũng phải thừa nhận r”ng việc
tăng giá lương thực trên thị trường quốc tế, trong khi chính phủ cố tình kh“ng
áp dụng các biện pháp bình ổn, là một nguyên nhân khách quan quan trọng của
tăng giá lương thực nội địa.
Căn cứ vào nhận định của nhiều nhà
kinh tế thế giới, vào kinh nghiệm của các nước đ“ng á và theo học thuyết
Keynes, một học thuyết rất thích hợp để phân tích tình hình kinh tế Viêt nam gần
đây, chúng t“i cho r”ng Việt nam nên chấp nhận một tỷ lệ tăng giá hay lạm phát
tự nhiên. Thực vậy, một mặt, chất lượng hàng hoá của Việt nam tăng lên khá
nhanh trong những năm cải cách, ít nhất cũng 5-7% mỗi năm. Chúng ta biết r”ng
khoảng 1/3 đến 1/2 tỷ lệ tăng trưởng của Việt nam có nguồn gốc từ vốn đầu tư nước
ngoài, trong khi chất lượng sản phẩm của khu vực này tăng lên rất nhanh trong bối
cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt kể từ khi thực hiện các cải cách năm 1989.
Để tăng chất lượng sản phẩm, rõ ràng các doanh nghiệp trong nước cũng phải tăng
chi phí sản xuất và đầu tư nên việc giá cả tăng thêm 5-7% là hoàn toàn hợp lý.
Mặt khác, chỉ số giá tiêu dùng được
tính toán dựa trên cơ cấu hàng tiêu dùng năm 1989 (từ 4/98 được tính theo cơ cấu
hàng tiêu dùng năm 1994), phụ thuộc nặng nề vào hàng lương thực thực phẩm (chiếm
tới 45%), trong khi những hàng này hiện kh“ng còn chiếm tỷ trọng cao như trước
trong giỏ hàng hoá tiêu dùng. Tuy nhiên chính sự tăng giá của chúng lại là nhân
tố quyết định trong việc tăng chỉ số giá chung những năm gần đây.
Ngoài ra, cần phải có một tỷ lệ lạm
phát nhất định để kích thích tiêu dùng. Tỷ lệ này khoảng 2-3% hàng năm đối với
các nước tương tự như Việt nam. Cuối cùng, chúng ta còn phải kể đến việc tiếp tục
chương trình chuyển đổi kinh tế ở Việt nam trong lĩnh vực giá cả và điều chỉnh
tỷ giá. Tính chung, một tỷ lệ tăng giá 8-10% trong giai đoạn phát triển bình
thường và khoảng 10-15% trong giai đoạn tăng trưởng cao là hợp lý cho trường hợp
Việt nam. Theo lập luận này, tỷ lệ tăng giá của Việt nam trong ba năm gần đây
là quá thấp, gây ảnh hưởng tiêu cực tới cầu và cung sản phẩm của nền kinh tế.
Đây là hậu quả của chính sách tài chính, tiền tệ giáo điều, tập trung quá nhiều
cho mục tiêu chống lạm phát, bỏ qua mục tiêu tăng trưởng và việc làm.
5) Hệ thống ngân hàng đang ở trong
tình trạng rất khó khăn
Đứng
đơn thuần trên góc độ kỹ thuật, có thể nói hệ thống ngân hàng việt nam đã có
lúc rơi vào tình trạng cực kỳ nguy hiểm do tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ kh“ng
thể thu hồi cũng rất cao. Tình hình hệ thống ngân hàng mấy năm qua có những lúc
kh“ng khác bao nhiêu so với cuộc khủng hoảng ngân hàng năm 1990, nhưng hệ thống
ngân hàng, kể cả các ngân hàng cổ phần và quỹ tín dụng n“ng th“n, tồn tại được
là nhờ bảo trợ tích cực của nhà nước. Tình hình của hệ thống ngân hàng nước ta
cũng kh“ng khác bao nhiêu so với hệ thống ngân hàng của nhiều nước Đ“ng á trước
khủng hoảng tài chính tiền tệ. Thậm chí theo phân tích của một số c“ng ty nước
ngoài chuyên đánh giá sức khoẻ của một hệ thống tài chính ngân hàng, hệ thống
ngân hàng Việt nam còn bị đánh giá là yếu kém nhất so với các hệ thống ngân
hàng của các nước xung quanh, chỉ hơn Nga và Ukraina, dẫn tới m“i trường đầu tư
của Việt nam rất kém hấp dẫn. Chỉ cần nhìn vào báo các cuối năm 1998 của bộ tài
chính về khoảng 3/5 các doanh nghiệp nhà nước đang làm ăn kh“ng có lãi cũng đủ
hiểu về khó khăn của hệ thống ngân hàng cho vay ở Việt nam[3]. Tuy
nhiên, những số liệu về "nợ xấu" trong hệ thống ngân hàng việt nam
thường bị che giấu và do đó khác xa với thực tế, tối thiểu cũng bởi ba lý do
sau đây:
- Chính phủ và các ngân hàng thương
mại quốc doanh xoá nợ cho các doanh nghiệp nhà nước khi chúng bị đánh giá là
hoàn toàn kh“ng có khả năng trả nợ;
- Các ngân hàng cho vay để trả nợ,
thường được gọi là đảo nợ;
- Tách nhiều khoản nợ kh“ng thể thu
hồi thành một khoản riêng gọi là khoanh nợ để xử lý. Sau một số năm, nếu chính
phủ nhận thấy doanh nghiệp đó kh“ng thể trả được nợ thì khoản nợ này sẽ được
xoá.
Do những biện pháp kể trên, số liệu
c“ng bố về tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng nợ, nợ khó thu hồi so với tổng nợ quá hạn
sẽ thấp hơn thực tế. Nhiều nhà kinh tế đánh giá r”ng tình hình gần đây của hệ
thống ngân hàng Việt nam khá giống với tình hình của hệ thống ngân hàng Trung
quốc, nhưng Trung quốc c“ng bố những con số về "nợ xấu" cao hơn nhiều
so với các số liệu của Việt nam.
Phân tích nguyên nhân của tình trạng
này, chúng ta thấy hệ thống ngân hàng Việt nam, cũng tương tự như trường hợp
các nước châu á đang khủng hoảng khác, đã cho vay quá nhiều trong khi hiệu quả
của vốn cho vay quá thấp do nhiều nguyên nhân, đáng kể nhất là chọn lựa khách
hàng sai, cơ cấu đầu tư tồi và kh“ng t“n trọng các tiêu chuẩn thương mại và
ngân hàng của kinh tế thị trường. Ở đây, chúng ta nhận thấy có một quan hệ chặt
chẽ giữa các áp lực chính trị và hành chính, các quyết định sai lầm của các nhà
lãnh đạo trong hệ thống ngân hàng cho vay, sự phát triển của tham nhũng ở cấp
kinh doanh trực tiếp... Hậu quả là tổng dư nợ ngân hàng tăng lên nhanh trong
khi khả năng sản xuất tăng chậm hoặc kh“ng tăng, và chi phí sản xuất kể từ 4-5
năm nay đã tăng lên đáng kể. Một nguyên nhân khác của hiện tượng tăng nhanh giá
thành sản phẩm là chiến lược phát triển thay thế nhập khẩu đang lấn át chiến lược
phát triển hướng về xuất khẩu.
Ngoài ra, một tỷ lệ quan trọng các
doanh nghiệp đã sử dụng vốn vay ngân hàng để kinh doanh bất động sản hoặc để sản
xuất các mặt hàng mà nhu cầu nội địa và thế giới đã bão hoà mà kh“ng có sự kiểm
tra giám sát của các ngân hàng cho vay. Hậu quả là hàng loạt các doanh nghiệp
đã rơi vào tình trạng thâm hụt tài chính hoặc phá sản, kéo theo việc các doanh
nghiệp này kh“ng thể trả nợ vay ngân hàng, đặt hệ thống ngân hàng vào tình trạng
khó khăn.
Vì Việt nam chưa có thị trường chứng
khoán và đồng tiền Việt nam cũng chưa chuyển đổi được nên cuộc khủng hoảng tài
chính, tiền tệ đ“ng á đã kh“ng đẩy nền kinh tế Việt nam vào khủng hoảng dây
chuyển. Mặc dù vậy, tỷ lệ nợ ngân hàng "xấu" quá cao và một khu vực
doanh nghiệp nhà nước yếu kém là hai nhân tố bên trong đã đủ sức đẩy kinh tế Việt
nam vào khó khăn trong thời gian gần đây. Do vậy, việc cơ cấu lại hệ thống hệ
thống ngân hàng là nhiệm vụ hết sức cấp bách.
Những yếu kém của hệ thống ngân hàng
đang làm trầm trọng thêm những khó khăn của nền kinh tế, cả khu vực tài chính lẫn
khu vực sản xuất vật chất:
- Vì có quá nhiều khoản nợ kh“ng thu
hồi được, đã có những ngân hàng tư nhân phải tuyên bố phá sản và được ngân hàng
trung ương chấp nhận. Một vài ngân hàng cổ phần khác được sát nhập vào ngân
hàng quốc doanh. Loại thứ ba đang tồn tại nhờ nguồn tài chính hỗ trợ của ngân
hàng nhà nước.
- Trong bối cảnh của c“ng cuộc cơ cấu
lại hệ thống ngân hàng hiện nay, các ngân hàng thương mại có khuynh hướng giảm
cho vay, chỉ tập trung cho các doanh nghiệp nhà nước vay để có độ an toàn cao
vì các doanh nghiệp này có nhà nước đứng ra bảo lãnh, đồng thời tăng cường sức
ép với các doanh nghiệp để nhanh chóng thu hồi nợ. Hậu quả là tỷ lệ tăng trưởng
tín dụng giảm. Năm 1998 tín dụng chỉ tăng 11,4% và tổng phương tiện thanh toán
chỉ tăng 11,0% so với 1997 trong khi lãi suất cho vay thương mại lên tới 15% dù
cho sản xuất tiếp tục trì trệ và chính sách hạn chế lãi suất trần của nhà nước.
Những tiến triển này đẩy các doanh nghiệp vào khó khăn hơn, nhất là các doanh
nghiệp lớn và vừa vì phần lớn vốn của các doanh nghiệp này có nguồn gốc từ vay
ngân hàng. Trong 5 tháng đầu năm 1999, dư nợ cho vay chỉ tăng 5,2% so với đầu
năm, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ tăng dư nợ tiền gửi, nên các ngân hàng buộc phải
bắt đầu giảm lãi xuất để đẩy mạnh cho vay, nhất là sau quyết định giảm lãi xuất
trần và lãi xuất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước ngày 29/5/1999.
Như vậy, những khó khăn của hệ thống
ngân hàng đang làm trầm trọng thêm tình hình kinh tế hiện nay. Do cải cách ngân
hàng là cần thiết nên có thể dự báo r”ng tín dụng ngân hàng năm 1999-2000 sẽ
còn trì trệ. Ở tầm trung hạn, những cải cách trong khu vực ngân hàng sẽ dẫn đến
phá sản một số doanh nghiệp, góp phần vào giảm bớt những khả năng sản xuất dư
thừa v“ ích và làm giảm giá các tài sản hiện nay cho đến mức người đầu tư dự
đoán tỷ suất lợi nhuận đầu tư sẽ tăng trở lại trong tương lai. Chính việc phục
hồi tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư sẽ kích thích tăng trưởng trở lại của đầu
tư, và đầu tư, đến lượt mình, sẽ mở ra một chu kỳ tăng trưởng mới với bùng nổ
việc làm.
Tóm lại, sau một giai đoạn tăng trưởng
kinh tế nhanh, nền kinh tế nước ta đang đi vào một giai đoạn hết sức khó khăn,
thể hiện trên nhiều khía cạnh: Tỷ lệ tăng trưởng GDP giảm rất nhanh và rơi xuống
dưới mức báo động, tỷ lệ tăng trưởng của tất cả các ngành kinh tế đều giảm.
Tiêu dùng nội địa và tiêu dùng tư nhân đều giảm. Áp lực thiểu phát rất lớn. Các
thị trường hàng hoá và lao động đều trì trệ. Đầu tư thực tế của cả khu vực tư
nhân và nhà nước đều giảm. Đầu tư nước ngoài trực tiếp giảm rất nhanh và giảm
liên tục. Tích luỹ hàng hoá kh“ng bán được tăng nhanh và lên mức báo động. Tỷ lệ
các bất động sản kh“ng sử dụng rất lớn, tỷ lệ sử dụng khả năng sản xuất trong
phần lớn các ngành c“ng nghiệp đều thấp. Các hoạt động thương mại với nước
ngoài bị thu hẹp đáng kể, năm 1998, xuất khẩu chỉ tăng 1,9% trong khi nhập khẩu
giảm -1,1%. Chênh lệch giữa người giầu
và người nghèo ngày càng tăng. Tính quan liêu của bộ máy hành chính, tệ tham
nhũng tiếp tục phát triển. Thất nghiệp và bất ổn xã hội gia tăng...
Những
khó khăn nêu trên kh“ng chỉ phá vỡ những cân b”ng chủ yếu của nền kinh tế và
nhiều mục tiêu kinh tế của Đảng và Chinh phủ, mà còn kìm hãm thực hiện nhiều mục
tiêu xã hội quan trọng và mở ra những bất ổn xã hội. Những dự báo xu thế dựa
trên các m“ hình kinh tế lượng của chúng t“i đều đi đến kết luận r”ng nếu cứ
theo đuổi chính sách kinh tế lấy quan điểm của thuyết trọng tiền làm nền tảng
thì kh“ng có khả năng đảo ngược tình hình. Chính các nhà kế hoạch của chúng ta
cũng thừa nhận sự thật này nên đã kế hoạch hoá một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
năm 1999-2000 thấp hơn so với năm 1998.
[1] Thời báo Ngân hàng 4/12/98
[2] Lạm phát được hiểu là sự tăng liên tục và dài hạn qua các tháng của mức giá cả chung của tất cả các hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế. Vì trong những năm gần đây, mặt b”ng giá cả ở Việt nam có nhiều tháng liên tục tăng hoặc ổn định, nhưng cũng có nhiều tháng liên tục giảm nên chúng t“i kh“ng dùng thuật ngữ lạm phát ở đây.
[3] Thời báo Ngân hàng 11/12/98
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét