Bài viết cũ của tôi:
BÀN THÊM VỀ NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA NỀN KINH TẾ NƯỚC TA VÀ MỘT VÀI GIẢI
PHÁP CẤP BÁCH
II-
NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN CỦA NHỮNG KHÓ KHĂN HIỆN NAY
Đã
có nhiều bài viết liệt kê nguyên nhân của những khó khăn hiện nay của nền kinh
tế nước ta, do đó ở đây chúng t“i chỉ đi sâu phân tích những nguyên nhân kinh tế
cơ bản nhất, gồm nguyên nhân bên trong và bên ngoài.
1)
Mô hình phát triển kh“ng hợp lý là nguyên nhân cơ bản dẫn đến những khó khăn hiện
nay.
Những dẫn chứng dưới đây sẽ cho thấy nguyên nhân cơ
bản dẫn đến những khó khăn hiện nay là chúng ta đã phát triển theo mô hình dựa
quá nhiều vào vốn đầu tư và kh“ng coi trọng vấn đề hiệu quả, mà nguyên nhân sâu
xa của chiều hướng phát triển lệch lạc này là hệ thống các chính sách kinh tế
không hợp lý, trước tiên là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ.
a) Mô hình phát triển dựa quá nhiều vào
đầu tư
Đồ
thị dưới đây cho thấy những tỷ lệ tăng trưởng kinh tế rất cao của nước ta trong
nửa đầu thập kỷ 90 gắn liền với việc gia tăng mạnh mẽ của tỷ lệ đầu tư và tiết
kiệm nội địa trên GDP. Nếu như trong thời kỳ 1986-1990, tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm
nội địa thấp, chỉ lần lượt là là 12,6% và 2,4% thì tỷ lệ tăng trưởng GDP chỉ đạt
4,3%. Ngược lại, trong thời kỳ 1991-1995, tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm lên tới
22,3% và 14,7% thì tỷ lệ tăng trưởng GDP cũng tăng mạnh, tới 8,2%. Trong các
năm 1996-98, tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm tiếp tục tăng lên tới 28,7% và 19,6%,
nhưng tỷ lệ tăng trưởng GDP giảm nhẹ xuống còn 7,8%. Sự giảm sút của tỷ lệ tăng
trưởng GDP trong những năm gần đây là do cơ chế chính sách càng ngày càng kh“ng
theo kịp với tình hình mới và ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ
châu á làm cho hiệu quả của vốn đầu tư giảm sút nhanh, dẫn tới tỷ lệ vốn đầu tư
trên GDP tiếp tục tăng lên, nhưng tỷ lệ tăng trưởng GDP giảm sút. Vì tỷ lệ đầu
tư của Việt nam trong những năm gần đây đã xấp xỉ ngang với các nước trong khu
vực Đ“ng á và cao hơn hẳn các nước Nam á nên kh“ng thể nói là đầu tư của ta còn
thấp làm kinh tế kh“ng tăng trưởng nhanh được.
|
Đồ
thị 4: Tỷ lệ tăng trưởng GDP, tỷ lệ đầu tư và tỷ lệ tích luỹ nội địa so GDP (%)
Vai
trò quyết định của đầu tư còn thể hiện rõ hơn ở quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và tăng trưởng vốn đầu tư như đồ thị 5 dưới đây chỉ ra. Tỷ lệ tăng trưởng vốn đầu
tư thời kỳ 1991-1995 là 30,3%/ năm là mức rất cao, đã tạo ra tỷ lệ tăng trưởng
GDP tới 8,2%/ năm. Đồ thị và các phân tích tương quan cũng cho thấy đầu tư có độ
trễ khoảng hai năm so với tăng trưởng. Vì đầu tư là động lực của quá trình tăng
trưởng kinh tế nước ta, nên khi tỷ lệ đầu tư trên GDP và tỷ lệ tăng trưởng đầu
tư tăng chậm, thậm chí giảm, thì có thể dự báo r”ng tỷ lệ tăng trưởng GDP phải
giảm. Do tỷ lệ đầu tư đang giảm sút từ hai năm nay, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
nước ta sẽ còn thấp trong 2 năm tới nếu như kh“ng có những thay đổi lớn về
chính sách làm tăng hiệu quả vốn đầu tư.
Đồ
thị 5: Quan hệ giữa tăng trưởng GDP và tăng trưởng vốn đầu tư (%)
|
b) Cơ cấu nguồn vốn đầu tư kh“ng hợp lý
Bảng
2 cho thấy vốn nước ngoài đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với đầu tư ở nước
ta. Chênh lệch giữa tỷ lệ đầu tư và tỷ lệ tiết kiệm nội địa trên GDP rất cao
trong giai đoạn 1986-90 và 1993-1997, chỉ giảm mạnh trong các năm 1991-92 khi hệ
thống Liên x“ sụp đổ và 1998-1999 khi diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế châu á.
Điều đó có nghĩa là chúng ta đã quá lạm dụng vốn nước ngoài trong phát triển
kinh tế, đi ngược với chủ trương huy động nội lực của Đảng. So sánh với các nước
xung quanh, rõ ràng tỷ lệ huy động vốn nước ngoài của ta đặc biệt cao. Đành
r”ng điều kiện kinh tế chính trị và xã hội của mỗi nước có khác nhau, nhưng nếu
như tất cả các nước xung quanh ta đều kh“ng để chênh lệch này vượt quá 4-5% GDP
thì có lẽ chúng ta cũng kh“ng nên làm như vậy. Thực tế, các nước Đ“ng nam á và Hàn
quốc tăng nhanh huy động tiết kiệm nước ngoài để đầu tư từ năm 1993-1995, tạo
ra được những tỷ lệ tăng trưởng rất nhanh, nhưng đồng thời cũng dẫn đến khủng
hoảng tài chính từ năm 1997.
Bảng 2: Chênh lệch giữa tỷ lệ tiết kiệm nội địa và tỷ
lệ đầu tư trên GDP (%)
Nước
|
81-90
|
1991
|
1992
|
1993
|
1994
|
1995
|
1996
|
1997
|
1998
|
Việt nam
|
-10,2*
|
-5,0
|
-3,8
|
-10,4
|
-8,4
|
-10,2
|
-12,0
|
-10,8
|
-4,7
|
Hồng K“ng
|
6,3
|
6,6
|
5,3
|
7
|
1,2
|
-4,3
|
-1,4
|
-3,6
|
0,3
|
Hàn quốc
|
-0,9
|
-3,2
|
-2,1
|
0,3
|
-1,1
|
-1,8
|
-4,7
|
-1,9
|
13,3
|
Singapo
|
0,6
|
11,6
|
11,2
|
8,6
|
16,1
|
17,8
|
15,9
|
14,4
|
18,2
|
Đài loan
|
11,4
|
6,5
|
3,7
|
1,8
|
1,9
|
1,9
|
3,9
|
2,8
|
2,4
|
Trung quốc
|
1
|
4,6
|
3,9
|
-1,6
|
0,6
|
0,3
|
0,9
|
3,3
|
2,5
|
Inđ“nêxia
|
1,4
|
-3,1
|
-1,6
|
-1,9
|
-2
|
-3,4
|
-3,4
|
-1,4
|
1,1
|
Malaixia
|
-3,3
|
-9,4
|
-3
|
-0,1
|
-1,6
|
-4
|
1,1
|
1,8
|
14,8
|
Philippin
|
-
|
-1,7
|
-1,4
|
-8,4
|
-6,5
|
-4,8
|
-4,6
|
-3,5
|
0,7
|
Thái lan
|
-4,9
|
-8
|
-6,3
|
-5
|
-5,6
|
-8
|
-8
|
-2,1
|
11,5
|
Bangladesh
|
-11
|
-1,3
|
0,7
|
0,1
|
2,3
|
0,3
|
-2,7
|
-2,5
|
-1,5
|
Ấn độ
|
-1,4
|
-0,7
|
-1,6
|
-1,3
|
-2,1
|
-1,4
|
-1,1
|
-1,5
|
-1,7
|
* : Việt nam:
1986-90. Nguồn số liệu: Asian Development Outlook 1999, Asian Development Bank.
Bảng
3 là một ví dụ khác về huy động nguồn vốn đầu tư kh“ng hợp lý. Một mặt, tỷ trọng
vốn FDI đã tăng lên rất nhanh trong thời kỳ 1990-96, có lúc chiếm tới 1/3 tổng
nguồn vốn đầu tư của nền kinh tế. Mặc dù chỉ chiếm 1/3 vốn đầu tư, các doanh
nghiệp FDI lại đóng vai trò quyết định làm tăng tỷ lệ tăng trưởng GDP. Điều này
chứng tỏ luồng vốn nội địa tăng kh“ng tương xứng và nền kinh tế ngày càng phụ
thuộc vào vốn bên ngoài. Mặt khác, tỷ trọng vốn của khu vực tư nhân và dân cư
giảm mạnh và liên tục trong suốt thập kỷ 90 trong khi đây chính là nguồn vốn có
hiệu quả kinh tế cao nhất và là nguồn vốn nội lực quan trọng nhất của đất nước.
Thực tế khu vực ngoài quốc doanh kể cả n“ng nghiệp chỉ chiếm khoảng 20% vốn đầu
tư, nhưng lại làm ra trên 30% GDP và sử dụng trên 70% lực lượng lao động xã hội.
Bảng
3: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư (%)
Năm
|
Từ Ngân sách NN
|
Doanh nghiệp NN
|
Tư nhân và dân cư
|
Vốn FDI
|
1990
|
26,0
|
11,3
|
49,0
|
13,7
|
1991
|
29,8
|
14,5
|
47,0
|
9,7
|
1992
|
35,3
|
5,2
|
44,6
|
15,0
|
1993
|
38,5
|
7,5
|
31,6
|
21,4
|
1994
|
24,1
|
12,5
|
34,1
|
29,4
|
1995
|
25,6
|
9,7
|
30,8
|
33,9
|
1996
|
28,2
|
10,7
|
26,9
|
34,1
|
1997
|
31,7
|
14,0
|
22,8
|
31,5
|
1998
|
36,9
|
16,7
|
21,3
|
25,1
|
c) Cơ cấu sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả
Cơ cấu sử dụng vốn đầu tư kém hiệu
quá kh“ng chỉ ở cấp toàn nền kinh tế mà còn ở cấp ngành và cấp từng sản phẩm. Ở
cấp kinh tế quốc dân, hệ số ICOR[1]
của ta tăng lên rất nhanh trong thập kỷ 90. Nếu như ICOR năm 1992 là 1,76 thì đến
năm 1998, đã lên tới 5,3, tức là gấp 3 lần, nhanh nhất khu vực châu á (xem bảng
4). Mức ICOR năm 1998 của ta cao hơn mức trung bình thời kỳ 1991-97 của các nước
so sánh trong khi trình độ phát triển kinh tế của ta còn thua xa. Năm 1999, dự
kiến ICOR của ta sẽ lên tới 6,6. Điều này cũng nói lên r”ng nguồn gốc của tăng
trưởng kinh tế nhanh ở nước ta chủ yếu là tăng vốn đầu tư.
Bảng 4: So sánh hệ số ICOR của Việt nam và một số nước
châu á
Nước
|
1991
|
1992
|
1993
|
1994
|
1995
|
1996
|
1997
|
1998
|
Việt nam
|
2,4
|
1,76
|
2,20
|
2,83
|
2,68
|
3,05
|
3,56
|
5,30
|
Hồng K“ng
|
5,33
|
4,32
|
4,67
|
5,11
|
8,18
|
7,73
|
6,06
|
-6,94
|
Hàn quốc
|
3,45
|
7,69
|
6,34
|
4,08
|
4,06
|
5,21
|
6,98
|
-6,36
|
Singapo
|
5,73
|
5,52
|
3,39
|
3,59
|
3,72
|
4,80
|
4,53
|
24,93
|
Đài loan
|
3,00
|
3,35
|
3,89
|
3,88
|
3,98
|
4,16
|
3,12
|
4,58
|
Trung quốc
|
3,58
|
2,44
|
2,66
|
3,43
|
3,90
|
4,25
|
4,55
|
4,90
|
Inđ“nêxia
|
3,42
|
4,65
|
4,64
|
3,93
|
3,79
|
4,09
|
6,27
|
-2,28
|
Malaixia
|
3,72
|
4,91
|
4,47
|
4,11
|
4,30
|
5,06
|
5,39
|
-6,77
|
Philippin
|
9,90
|
5,36
|
5,00
|
3,72
|
4,44
|
-47,60
|
||
Thái lan
|
3,66
|
5,36
|
4,86
|
4,48
|
4,58
|
7,56
|
-104,25
|
-4,38
|
Bangladesh
|
3,85
|
2,67
|
2,60
|
3,36
|
3,14
|
3,07
|
2,88
|
3,04
|
Ấn độ
|
28,50
|
4,53
|
3,49
|
2,67
|
3,01
|
3,31
|
5,14
|
4,28
|
Nguồn số liệu:
Tính từ các số liệu của Asian Development Outlook 1999, Asian Development Bank.
Ở cấp ngành, vốn đầu tư được phân bổ
kém hợp lý nên hiệu quá kh“ng cao. Theo bảng 5, tỷ trọng vốn đầu tư cho n“ng
nghiệp đã giảm mạnh trong suốt thời kỳ 1991-95, trong khi đây là ngành có hệ số
ICOR thấp nhất và tạo ra được nhiều lao động nhất. Đầu tư cho n“ng nghiệp bếp
bênh, lúc tăng, lúc giảm trong các năm từ 1995 đến nay. Mặt khác, tỷ trọng vốn
đầu tư cho c“ng nghiệp giảm đi nhanh chóng từ năm 1994 đến nay trong khi tỷ trọng
vốn cho dịch vụ và hạ tầng xã hội tăng lên rất cao. Đây là quá trình dịch chuyển
cơ cấu đầu tư bất hợp lý vì các nhà đầu tư đã chuyển vốn từ lĩnh vực sản xuất
sang kinh doanh dịch vụ.
Bảng
5: Cơ cấu sử dụng vốn đầu tư (%)
Ngành
|
1990
|
1991
|
1992
|
1993
|
1994
|
1995
|
1996
|
1997
|
C“ng nghiệp
và xây xựng
|
38,4
|
44,0
|
48,9
|
55,3
|
39,0
|
33,0
|
41,1
|
31,5
|
N“ng lâm ngư nghiệp
|
17,1
|
15,7
|
12,7
|
8,9
|
9,4
|
12,0
|
8,5
|
15,4
|
Dịch vụ và hạ tầng xã hội
|
44,5
|
40,3
|
38,4
|
35,8
|
51,6
|
55,0
|
50,4
|
53,1
|
Nguồn: Bộ Kế hoạch
và Đầu tư
Ở cấp sản phẩm, một mặt, do dự báo cầu
kh“ng chính xác nên đã đầu tư ồ ạt vào một số ngành, dẫn tới cung vượt quá xa
so với cầu, lãng phí cao và hiệu quả kinh tế kém. Ví dụ điển hình là sản xuất
xi măng, sắt thép, than, mía đường, cao su, rau và thịt lợn. Mặt khác, chúng ta
cũng đã sai lầm trong chọn lựa các ngành kinh tế mũi nhọn kh“ng phù hợp với
trình độ phát triển hiện tại của nền kinh tế như cơ khí, điện tử, sinh học và vật
liệu mới. Các ngành này có tỷ suất lợi nhuận rất thấp trong khi nhu cầu vốn đầu
tư rất cao. Đầu tư chỉ tập trung vào mua sắm dây truyền thiết bị lắp ráp từ nước
ngoài và xây dựng nhà xưởng, dẫn tới chi phí sản xuất rất cao và kinh tế phát
triển hướng nội là chính. Hậu quả là nguy cơ mất lợi thế so sánh rất rõ. Hiện
nay, người ta đang đổ x“ vào kinh doanh trong các ngành đang được bảo hộ mạnh
và các ngành còn lợi thế so sánh cao như dệt may, nước giải khát, giày dép, làm
cho giá thành sản phẩm sẽ tăng nhanh và các ngành này sớm mất nốt lợi thế so
sánh.
d) Tóm tắt nguyên nhân của tình hình
trên[2]
Việc
nền kinh tế nước ta phát triển gần như tự phát theo m“ hình kh“ng hợp lý nêu
trên có nguyên nhân từ rất lâu. Do thất bại của cuộc tự do hoá hệ thống tài
chính quá nhanh năm 1989-1990 đánh dấu b”ng cuộc khủng hoảng tiền tệ tín dụng
năm 1990, chính phủ Việt nam đã trở nên quá thận trọng trong mỗi bước cải cách
kinh tế, nhất là trong lĩnh vực tự do hoá các hoạt động ngân hàng và tín dụng.
Trong những năm 1992-93, do chính sách tài chính tiền tệ quá chặt được áp dụng
và có quá nhiều hạn chế và ràng buộc đối với các ngân hàng thương mại, tình trạng
thiếu hụt vốn để tiền tệ hoá nền kinh tế và tích luỹ vốn phục vụ nhu cầu phát
triển kinh tế ngày càng trở nên trầm trọng trong khi nguồn vốn trong dân kh“ng
được huy động và tỷ lệ dự trữ tiền tệ tăng tự phát tại các ngân hàng thương mại.
Trong bối cảnh thiếu nghiêm trọng vốn tín dụng nội địa, từ năm 1992, các nhà đầu
tư trong nước đã phải quay sang huy động nguồn vốn từ nước ngoài, kéo theo hiện
tượng tự phát gia tăng tích luỹ và đ“ la hoá rất cao trong nền kinh tế.
Nhiều
người đã hy vọng r”ng luồng vốn nhập khẩu từ nước ngoài sẽ cho phép nâng cao tỷ
lệ đầu tư nội địa và động thời ổn định được tỷ giá, chiếc neo mà Ngân hàng
trung ương cố gắng duy trì để đẩy lùi lạm phát. Ý tưởng này rất đúng nếu luồng
vốn đầu tư nước ngoài được sử dụng để nhập khẩu c“ng nghệ mới, các máy móc thiết
bị tiên tiến và các vật tư cần thiết phục vụ cho chiến lược phát triển hướng về
xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng nội địa và khai thác các
tiềm năng phát triển phong phú của đất nước. Tuy nhiên, như nhiều lý thuyết
kinh tế và nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra, về lâu dài, chiến lược phát triển
dựa vào vốn nước ngoài có nguy cơ dẫn đến khủng hoảng mới vì hai lý do: Một là,
đầu tư nước ngoài có xu hướng làm giảm tỷ lệ tích luỹ nội địa và làm tăng tiêu
dùng nội địa ngoài tầm kiểm soát, tức là có sự thay thế giữa hai dạng vốn trong
và ngoài nước. Hai là, vốn đầu tư nước ngoài thường dẫn đến đánh giá cao nội tệ,
làm cho hàng hoá sản xuất trong nước trở nên kém cạnh tranh trên thị trường quốc
tế. Rõ ràng hai hiện tượng trên đã từng bước diễn ra trong nền kinh tế Việt nam
trong thời kỳ từ năm 1993-94 tới nay. Hậu quả cuối cùng là nền kinh tế đi vào
giai đoạn suy giảm như chúng t“i phân tích ở trên.
Về
mặt cơ cấu, trong thời kỳ 1988-91, do chính sách tự do hoá kinh tế rộng rãi và
những đợt phá giá cao và liên tiếp, tỷ suất lợi nhuận của n“ng nghiệp và dịch vụ
tăng nhanh nên vốn, vật tư, lao động và các nguồn lực khác được dồn vào hai khu
vực này vì trong nền kinh tế thị trường, giá cả và tỷ suất lợi nhuận quyết định
chiến lược đầu tư của các doanh nghiệp. N“ng nghiệp và dịch vụ phát triển trong
khi c“ng nghiệp suy thoái. Từ năm 1992 đến hết 1993, vốn nước ngoài vào ngày
càng nhiều và đồng tiền việt nam lên giá mạnh so với các loại ngoại tệ, dòng vốn
chảy ngược từ n“ng nghiệp và dịch vụ sang c“ng nghiệp. Do đó tỷ lệ tăng trưởng
c“ng nghiệp rất cao trong khi tăng trưởng của hai ngành trên chậm lại. Từ năm
1994, do nội tệ bị đánh giá ngày càng cao và kéo dài, trong khi vốn nước ngoài
tiếp tục tăng nhanh, bản thân ngành c“ng nghiệp cũng kh“ng còn lợi thế so sánh
nữa, các nhà sản xuất quay sang đầu tư vào dịch vụ và các ngành c“ng nghiệp còn
và sẽ được nhà nước tăng cường bảo hộ. Quá trình này sẽ làm chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm tăng nhanh. Chính những sai lầm trong cơ cấu huy động và định
hướng sử dụng vốn đầu tư, trong duy trì chính sách tài chính và tiền tệ kém mềm
dẻo, lãi suất thực quá cao và tỷ giá kh“ng được điều chỉnh theo đà lạm phát đã
hướng các hoạt động đầu tư chạy theo cơ cấu kém hiệu quả, nền kinh tế mất dần sức
cạnh tranh. Hậu quả là nhà nước phải liên tục tăng cường chính sách bảo hộ
th“ng qua tăng hạn ngạch hải quan và thuế nhập khẩu, giữ ổn định tỷ giá, cho
phép sản xuất thay thế nhập khẩu tăng lên... Những biện pháp bảo hộ này, đến lượt
mình, lại làm cơ cấu đầu tư méo mó hơn, đẩy nền kinh tế vào vòng khó khăn mới.
2) Cuộc
khủng hoảng kinh tế khu vực Đ“ng á đã làm tăng thêm những khó khăn cho nền kinh
tế nước ta
Trong
bài này, chúng t“i chỉ tóm tắt hai kênh chính qua đó cuộc khủng hoảng kinh tế
châu á đã tác động tiêu cực tới lĩnh vực tăng trưởng, cụ thể là đẩy nhanh quá
trình suy giảm kinh tế nước ta từ mùa đ“ng năm 1997: Giảm đầu tư nước ngoài trực
tiếp và thu hẹp thị trường xuất khẩu.
a) Đầu tư nước ngoài trực tiếp
(FDI):
Từ năm 1996-97, vốn đầu tư nước
ngoài trực tiếp (số dự án và tổng giá trị các dự án) đổ vào Việt nam bắt đầu giảm
và ngày càng giảm với tốc độ nhanh như các số liệu trong bảng 6 dưới đây đã chỉ
ra. Đặc biệt, vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp đăng ký năm 1998 đã giảm 11,3% so
với năm 1997. Về các khoản vốn cam kết trước năm 1998, mặc dù chúng vẫn tiếp tục
được triển khai trong các năm 1996, 1997, nhưng các số liệu cho thấy số dự án
và tổng số vốn bị giải thể tăng lên rất nhanh chứng tỏ các nhà đầu tư nước
ngoài đã bắt đầu giảm nhịp độ đầu tư và rút bớt vốn ra khỏi Việt nam kể từ năm
1997. Hậu quả là vốn đầu tư thực hiện năm 1998 giảm tới 40% so với năm 1997.
Bảng 6: Vốn đầu tư nước ngoài trực
tiếp (FDI) ở Việt nam (triệu USD)
1991
|
1992
|
1993
|
1994
|
1995
|
1996
|
1997
|
1998
|
|
Số dự án
|
153
|
195
|
273
|
371
|
412
|
368
|
331
|
275
|
Vốn cam kết:-
|
1417
|
2321
|
3661
|
4167
|
6566
|
8633
|
4397
|
3899
|
- Vốn cho các dự án mới
|
1274
|
2027
|
2588
|
3746
|
6607
|
8640
|
4514
|
3899
|
- Vốn bổ xung cho các dự án cũ
|
7.7
|
49
|
222
|
504
|
1247
|
684
|
1133
|
772
|
Vốn thực hiện:
|
206
|
380
|
1112
|
1936
|
2672
|
2607
|
3250
|
1960
|
- Vốn nước ngoài đưa vào
|
164
|
316
|
939
|
1658
|
2240
|
2294
|
2847
|
1831
|
- Vốn đóng góp của phía VN
|
42
|
64
|
173
|
278
|
432
|
313
|
403
|
129
|
Nguồn số liệu: Tổng
hợp từ Vietnam Investment Review và Báo Đầu tư.
Trong quá khứ, khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài trực tiếp lu“n lu“n là khu vực năng động nhất của nền kinh tế Việt
nam, với một tốc độ tăng trưởng hàng năm khoảng 20%. Việc giảm nhanh tỷ lệ đầu
tư của khu vực này trong những năm vừa qua kéo theo giảm sút tỷ lệ tăng trưởng
của nó và của toàn nền kinh tế. Hậu quả là quá trình suy giảm kinh tế bị đẩy
nhanh. Hơn nữa, giảm sút thặng dư cán cân vốn cũng gây ảnh hưởng tiêu cực tới
cân b”ng cán cân thanh toán tổng thể, và làm giảm dự trữ ngoại tệ, tác động bất
lợi tới quá trình ổn định và tăng trưởng kinh tế dài hạn.
b) Thương mại quốc tế:
Cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực
đ“ng á đã tạo ra những áp lực mạnh mẽ tới hoạt động xuất nhập khẩu và cán cân
thanh toán vãng lai của Việt nam. Về xuất khẩu, một mặt, khủng hoảng châu á làm
giảm cầu nội địa của các nước liên quan, dẫn tới giảm cầu nhập khẩu hàng Việt
nam của các nước này. Mặt khác, vì các đồng tiền châu á đã bị phá giá mạnh
trong khi tỷ giá đồng Việt nam thay đổi ít, sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu của
Việt nam đã giảm đáng kể. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng còn làm giảm giá nhiều mặt
hàng xuất khẩu của Việt nam. Ba nhân tố chính kể trên đã có ảnh hưởng làm giảm
rất nhanh tỷ lệ tăng trưởng giá trị xuất khẩu của Việt nam. Thực tế, xuất khẩu
của Việt nam chỉ tăng 1,9% năm 1998 so với tăng 26,6% năm 1997.
Về nhập khẩu, khủng hoảng châu á đã
hạ giá nhập khẩu của Việt nam, do đó kích thích nhập khẩu. Hàng nhập đang cạnh
tranh khốc liệt với các sản phẩm Việt nam ngay trên thị trường nội địa. gây ra
nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp vốn đang ở trong giai đoạn đầy khó khăn. Để
đấu tranh chống sự bành trướng của hàng nhập, cổ vũ xuất khẩu và cải thiện cán
cân thanh toán quốc tế, chính phủ Việt nam đã phải phá giá nội tệ bốn lần kể từ
mùa thu năm 1997. Chính phủ cũng đã quay trở lại áp dụng nhiều biện pháp truyền
thống trong kiểm tra nhập khẩu như tăng thuế đánh vào hàng nhập, mở rộng chế độ
quota, giảm nhập khẩu các mặt hàng kh“ng thiết yếu, thậm chí cấm nhập một số loại
hàng hoá mà trong nước đã tự sản xuất được. Kết quả là nhập khẩu năm 1998 giảm
-1,1% và nhập khẩu 6 tháng đầu năm 1999 giảm -13%.
Việc giảm đột ngột các tỷ lệ tăng
trưởng xuất nhập khẩu đã kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam. Mặc
dù thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai đã giảm đáng kể kể từ đầu năm 1997, cán
cân thanh toán quốc tế chung đã rơi vào thâm hụt, lần đẩu tiên kể từ ba năm trước.
Hậu quả là dự trữ quốc tế, sau một thời kỳ tăng liên tục 1995-1997, đã bắt đầu
giảm từ tháng 10 năm 1997. Tuy nhiên sau đó, nhờ một số chính sách kiểm soát nhập
khẩu và quản lý ngoại hối, dự trữ quốc tế đi vào thế ổn định. Dù vậy, nguy cơ mất
ngoại tệ dự trữ cũng đã gây sức ép rất mạnh làm chính phủ phải điều chỉnh chính
sách tỷ giá trong thời gian vừa qua.
Tóm lại, cuộc khủng hoảng kinh tế
khu vực đã có tác động tiêu cực tới nền kinh tế nước ta trong hai năm gần đây,
làm nhân lên những khó khăn nội tại của nền kinh tế và giảm nhanh tỷ lệ tăng
trưởng GDP. Điều nghịch lý là những khó khăn hiện nay của nước ta bắt nguồn từ
cung lớn hơn cầu trong khi mức sống của người dân còn rất thấp nên càng đòi hỏi
chúng ta phải nhanh chóng tìm ra những chính sách kinh tế hiệu quả hơn nh”m sớm
thoát khỏi tình hình khó khăn hiện nay.
[1] ICOR được tính theo giá so sánh 1995, theo hai phương pháp sau: 1)
ICOR(t)=I(t-1)/DGDP(t); và 2) ICOR(t)=i(t-1)/gGDP(t), trong đó I(t) là tổng vốn đầu tư năm t, DGDP(t)=GDP(t)-GDP(t-1), i(t-1) là tỷ lệ đầu tư trên
GDP năm t-1, và gGDP(t) là tỷ lệ tăng trưởng GDP năm t. Vì I(t-1)/ DGDP(t) =
[I(t-1)/GDP(t-1)]/[DGDP(t)/GDP(t-1)] = i(t-1)/gGDP(t) nên hai phương pháp trên đều cho
cùng một kết quả.
[2] Xem
các phân tích chi tiết trong bài "C“ng nghiệp Việt nam trong chặng đường 15
năm đổi mới: Thành tựu và Thách thức", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 254, tháng 7/1999.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét