Chủ Nhật, 8 tháng 7, 2012

Thương mại gia tăng ở châu Á

http://viet-studies.info/kinhte/FP_TPP_JulAug2012_trans.htm

FOREIGN AFFAIRS
Số Tháng Bảy/ Tháng Tám, 2012
BÌNH LUẬN

Tại sao Hoa Kỳ cần Thỏa ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương?

Bernard K. Gordon
BERNARD K. GORDON Giáo sư Danh dự về Khoa học Chính trị tại Đại học New Hampshire. Ông là tác giả của cuốn sách Những Quyết định Điên rồ về Thương mại của Hoa Kỳ và một cuốn sách sắp xuất bản về Thỏa ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương.
 Khi vòng đàm phán thương mại toàn cầu Doha trải qua gần 12 năm mà không có dấu hiệu kết thúc thì hiển nhiên các cuộc đàm phán đều đã  thất bại. Hoa Kỳ quá thất vọng với tình trạng bế tắc của  Doha nóng lòng muốn mở rộng các liên minh thương mại và an ninh nên đã ký kết một loạt các thỏa ước thương mại tự do song phương (FTA), cao điểm nhất hồi cuối năm ngoái đã ký với Colombia, Panama và Hàn Quốc. Nói chung, các thỏa thuận này đều thuận lợi cho Hoa Kỳ. Chẳng hạn, thỏa thuận với Hàn Quốc được kỳ vọng ​​sẽ gia tăng thương mại giữa hai nước lên hàng tỷ đô la tạo ra hàng chục ngàn công ăn việc làm cho mỗi quốc gia.

Mặc cho những kết quả này, cách tiếp cận song phương tỏ ra không có nhiều hứa hẹn. Các thỏa thuận năm ngoái đã kết thúc một giai đoạn bế tắc kéo dài năm năm giữa một bên hầu hết các đảng viên Cộng hòa tại Thượng viện Hoa Kỳ và những người ủng hộ thương mại thuộc cộng đồng kinh doanh bên kia là các nhà Dân chủ, hầu hết các nghiệp  đoàn, cùng các nhà sản xuất xe hơi Hoa Kỳ. Những người này đã chống lại đặc biệt dữ dội thỏa thuận với Hàn Quốc bởi những hạn chế kéo dài đối với doanh số bán xe ô tô của Hoa Kỳ tại Hàn Quốc.
Sau một quá trình vận động hành lang, tranh cãi và thỏa hiệp đầy khó khăn, chính quyền Obama cuối cùng vẫn còn chút hào hứng để cố gắng đạt được một thỏa thuận song phương khác.
Để thúc đẩy chương trình nghị sự thương mại đạt được thêm tiến bộ thay vì đi theo lối mòn, Nhà Trắng đã chấp nhận một biện pháp trung dung giữa Vòng đàm phán Doha toàn cầu và các FTA song phương: xây dựng quá trình thỏa thuận đa phương dựa trên Thỏa ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Với quá trình đàm phán hiện nay với Úc, Brunei, Chile, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ, và Việt Nam, TPP sẽ trở thành một trong những thỏa thuận thương mại mở rộng lớn nhất thế giới. Và nếu như Canada, Mexico và đặc biệt là Nhật Bản, những nước đã bày tỏ sự quan tâm tham gia các cuộc đàm phán vào cuối tháng Mười Một năm ngoái cũng ký vào thỏa thuận, TPP sẽ đóng góp thêm hàng tỷ Đô la Mỹ cho nền kinh tế Mỹ và củng cố cam kết chính trị, tài chính, và quân sự của Washington đối với Thái Bình Dương trong nhiều thập kỷ tới. Chính quyền Obama tin rằng với lợi ích tiềm năng như vậy TPP cũng là một cơ hội tốt hơn để vượt qua những trở ngại trong nước so với một thỏa thuận Doha hoặc các thỏa thuận song phương mới.
Nhưng TPP phải đối mặt với những trở ngại. Những người chỉ trích từ các nước tham gia vào các cuộc đàm phán lo ngại Hoa Kỳ đang cố gắng vận dụng các thỏa thuận thương mại để áp đặt các quy định mở rộng về bản quyền và bằng sáng chế lên các đối tác thương mại của mình nhằm bảo vệ các doanh nghiệp và các nhà đổi mới công nghệ Hoa Kỳ. Việc giữ bí mật tương đối xung quanh các cuộc đàm phán TPP đã chỉ làm sâu sắc thêm những lo ngại này. Các nhà đàm phán đã cho phép các bên liên quan từ ngành công nghiệp đến công chúng trình bày ý kiến tại các kỳ họp TPP mở rộng. Tuy nhiên, người ta đã từ chối việc công bố các văn bản của các cuộc đàm phán. Nếu chính quyền Obama không đáp ứng những đòi hỏi về quyền sở hữu trí tuệ và minh bạch hơn các cuộc đàm phán, nhiều khả năng TPP sẽ sụp đổ. Sự thất bại này sẽ một thất bại lớn đối với chính quyền Obama và phá hoại mục tiêu của chính quyền hiện nay là đảm bảo sự hiện diện lâu dài cho Hoa Kỳ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
HỨA HẸN THÁI BÌNH DƯƠNG
TPP được cho là tốt hơn các thể loại thỏa thuận thương mại truyền thống. Trước hết, trong thập kỷ tới, TPP sẽ dần dần loại bỏ tất cả các hàng rào thuế quan thương mại giữa các nước thành viên. Tiếp theo sau mô hình FTA giữa Hoa Kỳ và Hàn Quốc, TPP cũng sẽ ảnh hưởng đến hầu hết các quan hệ kinh tế giữa các nước thành viên, bao gồm các chính sách đầu tư và thu mua của chính phủ, tiêu chuẩn về môi trường và lao động, nông nghiệp, sở hữu trí tuệ, và các lĩnh vực mới như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa (các doanh nghiệp có lượng lao động từ 50 đến 500 người). Hoa Kỳ và các đối tác hy vọng rằng TPP sẽ trở thành nội dung then chốt của thương mại tự do trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, TPP có thể không đạt được kỳ vọng nếu không có Nhật Bản. GDP của đất nước này nhiều hơn gấp đôi so với tất cả các quốc gia TPP khác cộng lại, không tính Hoa Kỳ. TPP bao gồm cả Nhật Bản có nghĩa chiếm 40% GDP toàn cầu và thêm $ 60 tỷ USD cho thị trường xuất khẩu của Mỹ. Đó là lý do tại sao chính quyền Obama và giới xuất khẩu Hoa Kỳ tuyên bố ủng hộ sự tham gia của Nhật Bản vào TPP khi Tokyo thể hiện sự quan tâm của họ đến TPP. Vào tháng Mười Hai năm ngoái, hơn 60 tổ chức thực phẩm và nông nghiệp Hoa Kỳ đã gửi một tuyên bố chung tới Ron Kirk, đại diện thương mại Hoa Kỳ, và Tom Vilsack, Bộ trưởng nông nghiệp Hoa Kỳ, ủng hộ việc "dọn đường cho sự tham gia đầy đủ của Nhật Bản." Một tuần sau đó, Hội nghị Bàn tròn Kinh doanh (một hiệp hội các Giám đốc điều hành), và Liên minh Doanh nghiệp Hoa Kỳ cho TPP (gồm  các công ty ủng hộ các thỏa thuận thương mại tự do), đã gửi một bức thư tương tự tới Đại diện thương mại Hoa Kỳ. Trong tháng Ba, Wendy Cutler, trợ lý đại diện thương mại Hoa Kỳ, nói với cử tọa tại Tokyo: "viễn cảnh Nhật Bản gia nhập TPP. . . là quan trọng; là bước ngoặt lịch sử. Và nói một cách thẳng thắn điều đó rất hứng khởi."
Chính quyền Obama tính đến khả năng đó, và đã biến TPP thành nền tảng trong chính sách thương mại của Hoa Kỳ, cũng như hiện đang làm tất cả những gì có thể để hình thành thỏa thuận có lợi cho Hoa Kỳ. Ví dụ, chính sách thương mại nhấn mạnh việc khuyến khích và bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp này thường có ít kinh nghiệm trong việc đối phó với hàng nhập khẩu hoặc xuất khẩu, nhưng Washington hy vọng nâng cao vai trò của chúng trong TPP bởi vì các doanh nghiệp loại này tạo ra phần lớn việc làm cho Hoa Kỳ. Bằng cách giúp đỡ các doanh nghiệp này, chính quyền Hoa Kỳ có thể giành được sự ủng hộ trong nước đối với vấn đề thương mại. Người Hoa Kỳ từ lâu đã không còn quan tâm đến thương mại bởi họ tin nó chủ yếu mang lại lợi ích cho người nước ngoài, lấy đi công ăn việc làm và góp phần vào thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ vốn được xem là một điểm tiêu cực bất kể một thực tế từ lâu là nó gắn liền với  quyền lực thương mại và chính trị của  Hoa Kỳ.
NHỮNG NHẦM LẪN VỀ QUYỀN SỞ HỮU
Ngay cả khi Washington hy vọng những nỗ lực của mình để định hình TPP sẽ xoa dịu những mối quan tâm của các giới công nghiệp và công đoàn của Hoa Kỳ, TPP đã đụng chạm đến các nhóm lợi ích công cộng và chính phủ của các nước khác đang đàm phán thỏa thuận - đặc biệt khi bàn về sở hữu trí tuệ.
Trong tháng Hai năm 2011, một văn bản dự thảo về sở hữu trí tuệ từ các cuộc đàm phán TPP đã bị rò rỉ trên mạng. Một số nhóm của Hoa Kỳ và nước ngoài như nhóm Quan sát Sở hữu Trí tuệ, nhóm Tri thức Công cộng, nhóm Quan sát TPP, và một số cá nhân ẩn danh khác chỉ trích gay gắt một số biện pháp nêu trong tài liệu. Cụ thể, họ lên án đề nghị hình sự hóa luật bản quyền và bằng sáng chế rằng điều đó vi phạm các điều ước quốc tế hiện hành giữa các quốc gia tham gia đàm phán. Những nhóm và cá nhân này cũng khẳng định TPP sẽ yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ Internet xác định danh tính người sử dụng và Hoa Kỳ đang tìm cách áp đặt một cách phi lý các điều khoản bảo vệ bản quyền mở rộng của mình lên các thỏa thuận. Luật pháp Hoa Kỳ quy định đại đa số quyền tác giả kết thúc sau 70 năm, nhưng các nhà chỉ trích ngộ nhận rằng chính quyền Obama đã đề xuất trong TPP một điều khoản bản quyền tối thiểu đến 95 năm đối với một số đăng ký. Các học giả luật như Sean Flynn và Jimmy Koo nắm bắt được sự lo ngại của các nhà chỉ trích và đã viết vào năm 2011: TPP sẽ tạo ra "một công cụ quốc tế về sở hữu trí tuệ cực đoan nhất chống lại người tiêu dùng và chống lại sự phát triển từ trước đến nay."
Chính quyền đã ủng hộ những đề xuất này không phải để gây thiệt hại cho người tiêu dùng mà để bảo vệ các nhà đổi mới công nghệ Hoa Kỳ. Sở hữu trí tuệ đã là một nguồn giá trị chính đối với Hoa Kỳ. Ví dụ, trong năm 2010, 40% thanh toán trên toàn thế giới dành cho sở hữu tài sản trí tuệ - tương đương 100 tỷ Đô la Mỹ - đã vào tay người Mỹ. Theo Bộ Thương mại Hoa Kỳ, giá trị này tương đương với lợi nhuận thu được từ xuất khẩu máy bay, ngũ cốc, và các dịch vụ kinh doanh, ba lĩnh vực giúp cho thương mại của Hoa Kỳ thặng dư. Sở hữu trí tuệ của Hoa Kỳ sẽ trở nên quan trọng hơn trong những năm tới bởi lẽ những ngành đổi mới về công nghệ tại Hoa Kỳ như  kỹ thuật sản xuất thế hệ mới và thông tin liên lạc không dây tiên tiến đang dẫn dắt nền thương mại Hoa Kỳ. Những người sáng tạo công nghệ cũng cần được bảo trợ theo các thỏa thuận TPP không kém hơn những người hiện đang nắm giữ bản quyền và bằng sáng chế theo luật pháp Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ hầu như không còn là quốc gia duy nhất gắn kết với TPP để mang lại lợi ích trong việc đảm bảo bản quyền và bằng sáng chế cho công dân của mình. Ví dụ: trong năm 2008, Nhật Bản dẫn đầu thế giới trong ứng dụng bằng sáng chế. Tương tự, Singapore đã đầu tư công nghệ sinh học trị giá nhiều tỷ đô la cũng có nhu cầu bảo vệ những nỗ lực của “gà nhà”. Hoa Kỳ cũng đã mở đường cho các quốc gia khác trong nỗ lực bảo vệ một cách đúng đắn quyền sở hữu trí tuệ của các nhà đổi mới công nghệ Hoa Kỳ. Nhưng quả thực vẫn còn một số quốc gia không tin  rằng Hoa Kỳ đếm xỉa đến lợi ích tốt nhất của họ.
CÁC CUỘC THẢO LUẬN TỰ DO
Mặc dù có lợi ích rộng lớn trong vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ với một số các quốc gia đang tham gia đàm phán TPP, một số quốc gia tiếp tục cáo buộc Hoa Kỳ đang có những đòi hỏi bất hợp lý. Ví dụ tại phiên đàm phán TPP thứ 11, tại Úc vào tháng Ba vừa qua, báo chí Úc đưa tin tất cả các thành viên đàm phán TPP đã từ chối đề nghị của Mỹ về quyền sở hữu trí tuệ. Giữa tháng Tư, một số nhà đàm phán từ Chile tỏ ra nghi ngờ về tương lai của thỏa ước khi họ đặt câu hỏi "liệu tham gia vào TPP có đáng giá không nếu phí tổn của nó bao gồm cả những đòi hỏi bổ sung về sở hữu trí tuệ."
Trong khi đó, trong suốt cuộc họp tương tự tại Úc vào tháng Ba, nhiều tổ chức lên án TPP về những tác động tiềm năng của nó đối với sự sẵn có của các loại thuốc giá rẻ. Ví dụ: Tổ chức Bác sĩ Không Biên giới cáo buộc chính phủ Hoa Kỳ chèn thêm các quy định vào TPP nhằm can thiệp việc phân phối các loại thuốc HIV/AIDS và sốt rét giá rẻ đến các quốc gia đang phát triển. Trong suốt vòng đàm phán TPP, nhóm này tuyên bố thỏa ước sẽ mở rộng sự bảo vệ độc quyền các loại thuốc nguyên gốc bằng cách thay đổi nhỏ các công thức hiện có”, do đó nó ngăn cản sự ra đời của các loại thuốc đồng dạng (generic drugs) rẻ hơn.
Chính phủ Hoa Kỳ đã không phản ứng lại tất cả các cáo buộc trong quá trình đàm phánTPP. Tuy nhiên, vào cuối tháng Hai năm ngoái, Demetrios Marantis, Phó Đại diện thương mại Mỹ, cho biết rằng văn phòng của ông "cực lực không đồng ý [s]" với Tổ chức Bác sĩ Không Biên giới. Ông này vạch rõ Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ trước đó sáu tháng đã thiết lập một chương trình TPP bao gồm chín điểm mang tên "Tăng cường Truy cập Thương mại đối với Thuốc bệnh" để đảm bảo  "các loại thuốc đồng dạng có thể xâm nhập vào thị trường một cách nhanh nhất."
Như vậy là Hoa Kỳ đã bắt đầu giải quyết những lo ngại của những người hoài nghi TPP. Tuy nhiên, vấn đề lớn hơn vẫn còn đó. Trong thời đại của Internet, tin đồn về các điều khoản trong thỏa ước có thể nhanh chóng châm ngòi cho một sự chống đối trên toàn thế giới. Minh bạch hơn và thông tin tốt hơn về quá trình đàm phán có thể giúp đánh bật những tin đồn như vậy. Mặc dù Hoa Kỳ và các đối tác của mình đã  thể hiện sự tiếp thu các yêu cầu của các cá nhân và các nhóm có lợi ích liên quan thì họ cũng đã không hoàn toàn công khai quá trình đàm phán ra công chúng. Điều này càng làm gia tăng sự quan tâm chính đáng về nội dung cuối cùng của thỏa ước. Vào tháng Giêng, Gary Horlick, một luật sư thương mại tiếng tăm và là cựu viên chức thương mại của Hoa Kỳ, đã mô tả quá trình TPP là  "quá đàm phán thương mại kém minh bạch nhất mà tôi từng chứng kiến”. Mặc dù Kirk, đại diện thương mại của Hoa Kỳ, đã gọi các cuộc đàm phán là "quá trình cởi mở, minh bạch nhất từng có," nhóm công tác của ông này lại trình bày rất “kiệm lời” quan điểm của Hoa Kỳ cho công chúng hoặc thậm chí cho cả các bên có lợi ích  không tham gia chính thức vào các thảo luận TPP.
Vấn đề lên đến đỉnh điểm vào tháng Hai năm ngoái khi 23 tổ chức Hoa Kỳ đại diện cho các thư viện của hầu hết các viện nghiên cứu và trường đại học Hoa Kỳ kêu gọi chính quyền Obama "ủy quyền truy cập công cộng" vào các văn bản dự thảo đàm phán. Họ lập luận: các điều khoản của TPP "sẽ đụng chạm đến mọi gia đình Mỹ" và "việc thực thi và tính chất lâu dài của những quy định ràng buộc. . . đòi hỏi sự minh bạch tối đa." Những ngày sau đó, Thượng nghị sĩ Ron Wyden đã đưa ra yêu cầu trên trong một buổi nghe điều trần của Kirk. Đáp lại tuyên bố trên, Kirk nói rằng chính quyền Obama đã "công bố thông tin sớm hơn bất kỳ chính quyền nào trước đây."
Không hài lòng với phản ứng của Kirk, Wyden đề xuất điều khoản luật yêu cầu công bố thông tin của bất kỳ văn bản đàm phán TPP nào "không quá 24 giờ sau khi các tài liệu được chia sẻ với các bên khác." Đề xuất của Wyden đã không thể lôi kéo thêm hậu thuẫn nhưng những tiếng nói đòi hỏi cởi mở hơn trong các cuộc đàm phán TPP vẫn còn nguyên ở Hoa Kỳ và nước ngoài.
MỘT DẠNG THỨC MỚI CỦA LÀM ĂN KINH TẾ
Nếu các cuộc đàm phán về TPP đơm hoa kết trái, Hoa Kỳ sẽ trở nên mạnh mẽ hơn về kinh tế và chính trị trong thế hệ tiếp theo. Một thỏa thuận bao gồm cả Nhật Bản về cơ bản sẽ dẫn đến một thỏa ước thương mại tự do giữa Washington và Tokyo, mở đầu cho công cuộc "mở cửa lần thứ ba" mà Nhật Bản đang kiếm tìm lâu nay và là sự khẳng định sức mạnh của Hoa Kỳ ở khu vực Thái Bình Dương. Nói rộng hơn, Hoa Kỳ hy vọng rằng TPP sẽ củng cố một hệ thống thương mại mở, kết nối với nhau trên nguyên tắc đồng thuận.
Đó là lý do tại sao chính phủ Hoa Kỳ hy vọng sẽ hoàn tất những phác thảo của một thỏa thuận cuối cùng vào cuối năm nay. Nhưng trước tiên chính phủ Hoa Kỳ phải giành chiến thắng trước sự phản đối trong nước đối với TPP, đặc biệt từ các ngành ô tô, bảo hiểm và nông nghiệp. Chính phủ Hoa Kỳ cũng cần thích ứng tối đa với những quan tâm của các nhà chỉ trích trong và ngoài nước đối với các đòi hỏi về sở hữu trí tuệ. Và chính phủ Hoa Kỳ phải đạt được  thêm tiến bộ trong quá trình đàm phán. Nếu chính quyền Obama không thực hiện được những điều này, có thể sẽ bỏ lỡ một cơ hội để mở đường cho một hình thức mới của thỏa ước thương mại và tái khẳng định vai trò kinh tế và chính trị của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương.
 
Người dịch: Quang Thành

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét