FOREIGN AFFAIRS
Số Tháng Bảy/
Tháng
Tám,
2012
BÌNH LUẬN
BÌNH LUẬN
Tại sao Hoa Kỳ
cần
Thỏa ước
Đối tác
Xuyên
Thái Bình Dương?
Bernard K. Gordon
BERNARD K. GORDON
là Giáo sư
Danh
dự
về
Khoa học Chính trị
tại Đại học New
Hampshire.
Ông là tác giả của
cuốn sách Những Quyết định Điên rồ về
Thương mại
của Hoa Kỳ
và một cuốn sách
sắp
xuất bản
về
Thỏa ước
Đối tác
Xuyên
Thái Bình Dương.
Khi vòng
đàm phán thương mại toàn cầu
Doha
trải qua
gần
12 năm
mà không có dấu hiệu
kết thúc
thì hiển nhiên
các cuộc đàm phán
đều
đã
thất bại.
Hoa
Kỳ
quá thất
vọng với
tình trạng
bế tắc của
Doha
và
nóng lòng muốn
mở rộng
các
liên minh
thương mại và an
ninh
nên
đã ký kết
một loạt các thỏa
ước
thương
mại tự do
song phương (FTA),
cao điểm nhất hồi cuối năm ngoái đã ký với
Colombia,
Panama và Hàn Quốc.
Nói chung, các
thỏa thuận này
đều
thuận
lợi
cho Hoa
Kỳ.
Chẳng hạn,
thỏa
thuận với Hàn Quốc
được kỳ vọng
sẽ
gia
tăng thương mại
giữa hai nước
lên
hàng tỷ
đô la và
tạo ra hàng chục ngàn
công ăn việc làm cho mỗi
quốc gia.
Mặc
cho
những kết quả
này,
cách tiếp cận song phương
tỏ ra
không
có nhiều
hứa hẹn.
Các thỏa thuận
năm ngoái đã kết thúc
một giai đoạn
bế tắc
kéo dài
năm năm giữa một bên
là
hầu hết các đảng viên Cộng hòa
tại Thượng viện Hoa Kỳ
và những người ủng hộ thương mại
thuộc
cộng đồng
kinh doanh
và
bên kia là
các nhà Dân chủ, hầu hết các
nghiệp
đoàn,
cùng các nhà
sản xuất xe hơi
Hoa Kỳ. Những người này
đã
chống lại
đặc biệt
dữ dội
thỏa thuận với Hàn Quốc
bởi những
hạn chế
kéo dài
đối với doanh số bán xe
ô tô
của
Hoa Kỳ tại Hàn Quốc.
Sau một quá trình vận động hành lang,
tranh cãi và thỏa hiệp
đầy
khó khăn,
chính quyền Obama
cuối cùng vẫn
còn
chút hào hứng
để cố gắng
đạt
được
một thỏa thuận
song phương
khác.
Để
thúc đẩy
chương trình nghị sự thương mại
đạt được thêm tiến bộ thay vì đi theo lối mòn,
Nhà Trắng đã chấp nhận một biện pháp
trung dung
giữa Vòng đàm
phán
Doha toàn cầu và các FTA song phương:
xây dựng quá trình thỏa thuận
đa phương
dựa trên Thỏa ước
Đối tác
Xuyên
Thái Bình Dương
(TPP).
Với quá trình
đàm phán
hiện nay với
Úc, Brunei, Chile, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ,
và Việt Nam, TPP sẽ
trở thành
một trong những
thỏa thuận
thương mại mở rộng
lớn nhất
thế giới. Và nếu
như
Canada, Mexico và đặc biệt là Nhật Bản,
những nước
đã bày tỏ
sự
quan tâm tham gia các cuộc đàm phán
vào
cuối tháng
Mười
Một
năm ngoái
cũng ký
vào
thỏa thuận, TPP sẽ đóng
góp
thêm hàng tỷ Đô
la Mỹ cho
nền kinh tế Mỹ và củng cố cam kết chính trị, tài chính, và quân sự
của Washington đối
với
Thái Bình Dương
trong nhiều
thập kỷ tới.
Chính
quyền Obama tin rằng
với
lợi ích tiềm năng như vậy TPP
cũng là
một cơ hội tốt hơn để
vượt qua những trở ngại
trong nước
so với
một thỏa thuận Doha hoặc các thỏa thuận song phương mới.
Nhưng TPP phải đối mặt với những trở ngại.
Những người chỉ trích từ các nước
tham gia vào các cuộc đàm phán lo ngại Hoa Kỳ đang
cố gắng
vận
dụng các thỏa thuận
thương mại
để áp đặt các quy định mở rộng
về
bản quyền và bằng sáng chế
lên
các đối tác thương mại của mình
nhằm bảo vệ các doanh nghiệp và các nhà đổi mới công nghệ Hoa Kỳ.
Việc giữ bí mật tương đối xung quanh các cuộc đàm phán TPP đã
chỉ
làm sâu sắc thêm những lo
ngại này.
Các nhà đàm phán đã cho phép các bên liên quan từ ngành công nghiệp
đến
công chúng trình bày ý kiến
tại các kỳ họp TPP
mở rộng. Tuy nhiên,
người ta
đã từ chối
việc công bố
các văn bản của các cuộc đàm phán. Nếu chính quyền Obama
không đáp ứng những đòi hỏi
về quyền sở hữu trí tuệ và
minh bạch hơn
các cuộc đàm phán,
nhiều
khả năng TPP
sẽ
sụp đổ. Sự thất bại
này
sẽ
là
một thất bại lớn đối với chính quyền Obama và
nó
phá hoại mục tiêu
của chính quyền hiện nay là
đảm bảo sự hiện diện lâu dài cho Hoa Kỳ ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương.
HỨA HẸN THÁI BÌNH DƯƠNG
TPP được cho là tốt hơn các thể loại thỏa thuận thương mại truyền
thống. Trước hết, trong thập kỷ tới, TPP sẽ dần dần loại bỏ tất cả
các hàng rào thuế quan thương mại giữa các nước thành viên. Tiếp
theo sau mô hình FTA giữa Hoa Kỳ và Hàn Quốc, TPP cũng sẽ ảnh hưởng
đến hầu hết các quan hệ kinh tế giữa các nước thành viên, bao gồm
các chính sách đầu tư và thu mua của chính phủ, tiêu chuẩn về môi
trường và lao động, nông nghiệp, sở hữu trí tuệ, và các lĩnh vực mới
như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa (các doanh nghiệp
có lượng lao động từ 50 đến 500 người). Hoa Kỳ và các đối tác hy
vọng rằng TPP sẽ trở thành nội dung then chốt của thương mại tự do
trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, TPP có thể không đạt được kỳ vọng nếu không có Nhật Bản.
GDP của đất nước này nhiều hơn gấp đôi so với tất cả các quốc gia
TPP khác cộng lại, không tính Hoa Kỳ. TPP bao gồm cả Nhật Bản có
nghĩa chiếm 40% GDP toàn cầu và thêm $ 60 tỷ USD cho thị trường xuất
khẩu của Mỹ. Đó là lý do tại sao chính quyền Obama và giới xuất khẩu
Hoa Kỳ tuyên bố ủng hộ sự tham gia của Nhật Bản vào TPP khi Tokyo
thể hiện sự quan tâm của họ đến TPP. Vào tháng Mười Hai năm ngoái,
hơn 60 tổ chức thực phẩm và nông nghiệp Hoa Kỳ đã gửi một tuyên bố
chung tới Ron Kirk, đại diện thương mại Hoa Kỳ, và Tom Vilsack, Bộ
trưởng nông nghiệp Hoa Kỳ, ủng hộ việc "dọn đường cho sự tham gia
đầy đủ của Nhật Bản." Một tuần sau đó, Hội nghị Bàn tròn Kinh doanh
(một hiệp hội các Giám đốc điều hành), và Liên minh Doanh nghiệp Hoa
Kỳ cho TPP (gồm các công ty ủng hộ các thỏa thuận thương mại
tự do), đã gửi một bức thư tương tự tới Đại diện thương mại Hoa Kỳ.
Trong tháng Ba, Wendy Cutler, trợ lý đại diện thương mại Hoa Kỳ, nói
với cử tọa tại Tokyo: "viễn cảnh Nhật Bản gia nhập TPP. . . là quan
trọng; là bước ngoặt lịch sử. Và nói một cách thẳng thắn điều đó rất
hứng khởi."
Chính quyền Obama tính đến khả năng đó, và đã biến TPP thành nền
tảng trong chính sách thương mại của Hoa Kỳ, cũng như hiện đang làm
tất cả những gì có thể để hình thành thỏa thuận có lợi cho Hoa Kỳ.
Ví dụ, chính sách thương mại nhấn mạnh việc khuyến khích và bảo vệ
lợi ích của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp này thường
có ít kinh nghiệm trong việc đối phó với hàng nhập khẩu hoặc xuất
khẩu, nhưng Washington hy vọng nâng cao vai trò của chúng trong TPP
bởi vì các doanh nghiệp loại này tạo ra phần lớn việc làm cho Hoa
Kỳ. Bằng cách giúp đỡ các doanh nghiệp này, chính quyền Hoa Kỳ có
thể giành được sự ủng hộ trong nước đối với vấn đề thương mại. Người
Hoa Kỳ từ lâu đã không còn quan tâm đến thương mại bởi họ tin nó chủ
yếu mang lại lợi ích cho người nước ngoài, lấy đi công ăn việc làm
và góp phần vào thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ vốn được xem là một
điểm tiêu cực bất kể một thực tế từ lâu là nó gắn liền với
quyền lực thương mại và chính trị của Hoa Kỳ.
NHỮNG NHẦM LẪN VỀ QUYỀN SỞ HỮU
Ngay cả khi Washington hy vọng những nỗ lực của mình để định hình
TPP sẽ xoa dịu những mối quan tâm của các giới công nghiệp và công
đoàn của Hoa Kỳ, TPP đã đụng chạm đến các nhóm lợi ích công cộng và
chính phủ của các nước khác đang đàm phán thỏa thuận - đặc biệt khi
bàn về sở hữu trí tuệ.
Trong tháng Hai năm 2011, một văn bản dự thảo về sở hữu trí tuệ từ
các cuộc đàm phán TPP đã bị rò rỉ trên mạng. Một số nhóm của Hoa Kỳ
và nước ngoài như nhóm Quan sát Sở hữu Trí tuệ, nhóm Tri thức Công
cộng, nhóm Quan sát TPP, và một số cá nhân ẩn danh khác chỉ trích
gay gắt một số biện pháp nêu trong tài liệu. Cụ thể, họ lên án đề
nghị hình sự hóa luật bản quyền và bằng sáng chế rằng điều đó vi
phạm các điều ước quốc tế hiện hành giữa các quốc gia tham gia đàm
phán. Những nhóm và cá nhân này cũng khẳng định TPP sẽ yêu cầu các
nhà cung cấp dịch vụ Internet xác định danh tính người sử dụng và
Hoa Kỳ đang tìm cách áp đặt một cách phi lý các điều khoản bảo vệ
bản quyền mở rộng của mình lên các thỏa thuận. Luật pháp Hoa Kỳ quy
định đại đa số quyền tác giả kết thúc sau 70 năm, nhưng các nhà chỉ
trích ngộ nhận rằng chính quyền Obama đã đề xuất trong TPP một điều
khoản bản quyền tối thiểu đến 95 năm đối với một số đăng ký. Các học
giả luật như Sean Flynn và Jimmy Koo nắm bắt được sự lo ngại của các
nhà chỉ trích và đã viết vào năm 2011: TPP sẽ tạo ra "một công cụ
quốc tế về sở hữu trí tuệ cực đoan nhất chống lại người tiêu dùng và
chống lại sự phát triển từ trước đến nay."
Chính quyền đã ủng hộ những đề xuất này không phải để gây thiệt hại
cho người tiêu dùng mà để bảo vệ các nhà đổi mới công nghệ Hoa Kỳ.
Sở hữu trí tuệ đã là một nguồn giá trị chính đối với Hoa Kỳ. Ví dụ,
trong năm 2010, 40% thanh toán trên toàn thế giới dành cho sở hữu
tài sản trí tuệ - tương đương 100 tỷ Đô la Mỹ - đã vào tay người Mỹ.
Theo Bộ Thương mại Hoa Kỳ, giá trị này tương đương với lợi nhuận thu
được từ xuất khẩu máy bay, ngũ cốc, và các dịch vụ kinh doanh, ba
lĩnh vực giúp cho thương mại của Hoa Kỳ thặng dư. Sở hữu trí tuệ của
Hoa Kỳ sẽ trở nên quan trọng hơn trong những năm tới bởi lẽ những
ngành đổi mới về công nghệ tại Hoa Kỳ như kỹ thuật sản xuất
thế hệ mới và thông tin liên lạc không dây tiên tiến đang dẫn dắt
nền thương mại Hoa Kỳ. Những người sáng tạo công nghệ cũng cần được
bảo trợ theo các thỏa thuận TPP không kém hơn những người hiện đang
nắm giữ bản quyền và bằng sáng chế theo luật pháp Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ hầu như không còn là quốc gia duy nhất gắn kết với TPP để
mang lại lợi ích trong việc đảm bảo bản quyền và bằng sáng chế cho
công dân của mình. Ví dụ: trong năm 2008, Nhật Bản dẫn đầu thế giới
trong ứng dụng bằng sáng chế. Tương tự, Singapore đã đầu tư công
nghệ sinh học trị giá nhiều tỷ đô la cũng có nhu cầu bảo vệ những nỗ
lực của “gà nhà”. Hoa Kỳ cũng đã mở đường cho các quốc gia khác
trong nỗ lực bảo vệ một cách đúng đắn quyền sở hữu trí tuệ của các
nhà đổi mới công nghệ Hoa Kỳ. Nhưng quả thực vẫn còn một số quốc gia
không tin rằng Hoa Kỳ đếm xỉa đến lợi ích tốt nhất của họ.
CÁC CUỘC THẢO LUẬN TỰ DO
Mặc dù có lợi ích rộng lớn trong vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ với
một số các quốc gia đang tham gia đàm phán TPP, một số quốc gia tiếp
tục cáo buộc Hoa Kỳ đang có những đòi hỏi bất hợp lý. Ví dụ tại
phiên đàm phán TPP thứ 11, tại Úc vào tháng Ba vừa qua, báo chí Úc
đưa tin tất cả các thành viên đàm phán TPP đã từ chối đề nghị của Mỹ
về quyền sở hữu trí tuệ. Giữa tháng Tư, một số nhà đàm phán từ Chile
tỏ ra nghi ngờ về tương lai của thỏa ước khi họ đặt câu hỏi "liệu
tham gia vào TPP có đáng giá không nếu phí tổn của nó bao gồm cả
những đòi hỏi bổ sung về sở hữu trí tuệ."
Trong khi đó, trong suốt cuộc họp tương tự tại Úc vào tháng Ba,
nhiều tổ chức lên án TPP về những tác động tiềm năng của nó đối với
sự sẵn có của các loại thuốc giá rẻ. Ví dụ: Tổ chức Bác sĩ Không
Biên giới cáo buộc chính phủ Hoa Kỳ chèn thêm các quy định vào TPP
nhằm can thiệp việc phân phối các loại thuốc HIV/AIDS và sốt rét giá
rẻ đến các quốc gia đang phát triển. Trong suốt vòng đàm phán TPP,
nhóm này tuyên bố thỏa ước sẽ mở rộng sự bảo vệ độc quyền các loại
thuốc nguyên gốc bằng cách thay đổi nhỏ các công thức hiện có”, do
đó nó ngăn cản sự ra đời của các loại thuốc đồng dạng (generic
drugs) rẻ hơn.
Chính phủ Hoa Kỳ đã không phản ứng lại tất cả các cáo buộc trong quá
trình đàm phánTPP. Tuy nhiên, vào cuối tháng Hai năm ngoái,
Demetrios Marantis, Phó Đại diện thương mại Mỹ, cho biết rằng văn
phòng của ông "cực lực không đồng ý [s]" với Tổ chức Bác sĩ Không
Biên giới. Ông này vạch rõ Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ
trước đó sáu tháng đã thiết lập một chương trình TPP bao gồm chín
điểm mang tên "Tăng cường Truy cập Thương mại đối với Thuốc bệnh" để
đảm bảo "các loại thuốc đồng dạng có thể xâm nhập vào thị
trường một cách nhanh nhất."
Như vậy là Hoa Kỳ đã bắt đầu giải quyết những lo ngại của những
người hoài nghi TPP. Tuy nhiên, vấn đề lớn hơn vẫn còn đó. Trong
thời đại của Internet, tin đồn về các điều khoản trong thỏa ước có
thể nhanh chóng châm ngòi cho một sự chống đối trên toàn thế giới.
Minh bạch hơn và thông tin tốt hơn về quá trình đàm phán có thể giúp
đánh bật những tin đồn như vậy. Mặc dù Hoa Kỳ và các đối tác của
mình đã thể hiện sự tiếp thu các yêu cầu của các cá nhân và
các nhóm có lợi ích liên quan thì họ cũng đã không hoàn toàn công
khai quá trình đàm phán ra công chúng. Điều này càng làm gia tăng sự
quan tâm chính đáng về nội dung cuối cùng của thỏa ước. Vào tháng
Giêng, Gary Horlick, một luật sư thương mại tiếng tăm và là cựu viên
chức thương mại của Hoa Kỳ, đã mô tả quá trình TPP là "quá đàm
phán thương mại kém minh bạch nhất mà tôi từng chứng kiến”. Mặc dù
Kirk, đại diện thương mại của Hoa Kỳ, đã gọi các cuộc đàm phán là
"quá trình cởi mở, minh bạch nhất từng có," nhóm công tác của ông
này lại trình bày rất “kiệm lời” quan điểm của Hoa Kỳ cho công chúng
hoặc thậm chí cho cả các bên có lợi ích không tham gia chính
thức vào các thảo luận TPP.
Vấn đề lên đến đỉnh điểm vào tháng Hai năm ngoái khi 23 tổ chức Hoa
Kỳ đại diện cho các thư viện của hầu hết các viện nghiên cứu và
trường đại học Hoa Kỳ kêu gọi chính quyền Obama "ủy quyền truy cập
công cộng" vào các văn bản dự thảo đàm phán. Họ lập luận: các điều
khoản của TPP "sẽ đụng chạm đến mọi gia đình Mỹ" và "việc thực thi
và tính chất lâu dài của những quy định ràng buộc. . . đòi hỏi sự
minh bạch tối đa." Những ngày sau đó, Thượng nghị sĩ Ron Wyden đã
đưa ra yêu cầu trên trong một buổi nghe điều trần của Kirk. Đáp lại
tuyên bố trên, Kirk nói rằng chính quyền Obama đã "công bố thông tin
sớm hơn bất kỳ chính quyền nào trước đây."
Không hài lòng với phản ứng của Kirk, Wyden đề xuất điều khoản luật
yêu cầu công bố thông tin của bất kỳ văn bản đàm phán TPP nào "không
quá 24 giờ sau khi các tài liệu được chia sẻ với các bên khác." Đề
xuất của Wyden đã không thể lôi kéo thêm hậu thuẫn nhưng những tiếng
nói đòi hỏi cởi mở hơn trong các cuộc đàm phán TPP vẫn còn nguyên ở
Hoa Kỳ và nước ngoài.
MỘT DẠNG THỨC MỚI CỦA LÀM ĂN KINH TẾ
Nếu các cuộc đàm phán về TPP đơm hoa kết trái, Hoa Kỳ sẽ trở nên
mạnh mẽ hơn về kinh tế và chính trị trong thế hệ tiếp theo. Một thỏa
thuận bao gồm cả Nhật Bản về cơ bản sẽ dẫn đến một thỏa ước thương
mại tự do giữa Washington và Tokyo, mở đầu cho công cuộc "mở cửa lần
thứ ba" mà Nhật Bản đang kiếm tìm lâu nay và là sự khẳng định sức
mạnh của Hoa Kỳ ở khu vực Thái Bình Dương. Nói rộng hơn, Hoa Kỳ hy
vọng rằng TPP sẽ củng cố một hệ thống thương mại mở, kết nối với
nhau trên nguyên tắc đồng thuận.
Đó là lý do tại sao chính phủ Hoa Kỳ hy vọng sẽ hoàn tất những phác
thảo của một thỏa thuận cuối cùng vào cuối năm nay. Nhưng trước tiên
chính phủ Hoa Kỳ phải giành chiến thắng trước sự phản đối trong nước
đối với TPP, đặc biệt từ các ngành ô tô, bảo hiểm và nông nghiệp.
Chính phủ Hoa Kỳ cũng cần thích ứng tối đa với những quan tâm của
các nhà chỉ trích trong và ngoài nước đối với các đòi hỏi về sở hữu
trí tuệ. Và chính phủ Hoa Kỳ phải đạt được thêm tiến bộ trong
quá trình đàm phán. Nếu chính quyền Obama không thực hiện được những
điều này, có thể sẽ bỏ lỡ một cơ hội để mở đường cho một hình thức
mới của thỏa ước thương mại và tái khẳng định vai trò kinh tế và
chính trị của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương.
Người dịch: Quang Thành
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét