Lại nhớ khi đọc bài GS HÀ MINH ĐỨC SẮP ẴM CÚ ĐÚP GIẢI THƯỞNG HỒ CHÍ MINH, tôi đã viết bình luận: "Nhớ lại thời đi học phổ thông, phải đọc thêm bao nhiêu tài liệu tham khảo về thơ văn Hồ Chí Minh, Tố Hữu..., trong đó nhiều bài viết của các GS Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ (hồi đó nước mình chưa có chức danh GS)... Đọc mà thấy sao các ông ấy tán giỏi thế, chả bù cho thầy giáo dạy văn (Đỗ Phú) của mình, chẳng biết cách ca tụng như mấy GS trên nên thầy phải vung chân vung tay diễn giải hoặc nói kiểu "cả vú lấp miệng em" để làm cho học trò tin (tất nhiên, tôi cũng thích thơ văn Hồ Chí Minh, Tố Hữu...). Rồi 1 hôm tình cờ nói chuyện với một nhà toán học, ông cười bảo toàn đám "đại đại bồi bút ấy mà". Nhà toán học này còn liệt kê một danh sách các "đại đại bồi bút đương đại"; chẳng biết đúng hay sai nhưng cũng thú". Không biết khi bước vào tuổi xưa nay hiếm, GS Thái có đang tự biến mình thành một thứ "đại đại bồi bút" không ?
Quan điểm phát triển bền vững của một Giáo sư kinh tế.
(Tamnhin.net) - Trân trọng giới thiệu bài viết của GS Nguyễn Quang Thái, Tổng thư ký Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, chia sẻ nhận thức về bản thông điệp đầu năm của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.
Trong mùa xuân đầu tiên của Chính phủ mới sau gần 6 tháng hoạt động, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã có thông điệp gửi toàn dân. Dưới tiêu đề “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng”, thông điệp này đã gây sự chú ý đặc biệt của người đọc. Năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã phát đi một thông điệp rất rõ ràng, hợp lòng người, đó là: Ngay trong điều kiện cực kỳ khó khăn của kinh tế thế giới và trong nước, với tầm nhìn chiến lược dài hạn, bám sát nhiệm vụ xuyên suốt về phát triển bền vững: "Phải chuyển nhận thức, quyết tâm thành hành động và hành động quyết liệt để vượt qua sức ỳ của quá trình khởi động, đặt tiến trình phát triển của đất nước vào quỹ đạo mới - Quỹ đạo phát triển bền vững".
Tư duy chiến lược mẫn cảm
GS,TS Nguyễn Quang Thái
Điều đầu tiên rất quan trọng là thông điệp này dựa chắc trên “tư tưởng kinh tế cốt lõi trong các văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI là tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững”. Trên cơ sở tư tưởng cốt lõi đó, Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh rất trúng về “tiền đề để thực hiện thành công nhiệm vụ này là triển khai hiệu quả ba đột phá chiến lược; trong đó, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường là một đột phá then chốt, có tác động trực tiếp đến quá trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng...”. Bản thông điệp này ngay từ đầu cũng đã giúp giải tỏa một thắc mắc của nhiều người về việc làm thế nào để có thể thắng được “sức ỳ” của tư duy và thói quen cũ.
Chính là trong những dòng đầu tiên của thông điệp đầu năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh tính chất hệ thống của việc chuyển sang mô hình tăng trưởng mới và thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển bền vững, trong đó xem hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường là một đột phá then chốt, có tác dụng tạo ra tiền đề khởi động và tiếp thêm động lực cho quá trình phát triển trong muôn vàn khó khăn hiện nay. Nói về rào cản tạo nên sức ỳ khi khởi động đổi mới và cơ cấu lại hệ thống kinh tế, bài viết đã chỉ đích danh tư duy sơ cứng, “ngại” đổi thay theo kịp thời đại toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt như đã từng diễn ra ở nước ta ¼ thế kỷ trước, Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh “nếu nhận thức đúng và quyết tâm cao” và thực hiện việc “chuyển nhận thức, quyết tâm thành hành động và hành động quyết liệt để vượt qua sức ỳ” của quá trình khởi động để làm mới hệ thống kinh tế yếu kém hiện nay thì không chỉ tạo ra các chuyển biến cục bộ, mà hoàn toàn có thể đặt tiến trình phát triển của đất nước vào quỹ đạo mới - quỹ đạo phát triển bền vững.
Chính vì cần trước hết thay đổi tư duy phát triển, trong thông điệp của mình Thủ tướng Chính phủ tạm thời chưa nói về các chi phí nguồn lực cho đổi mới, mặc dù một khi tiến hành bất cứ vấn đề lớn nhỏ trong tái cơ cấu nền kinh tế, thì ở khâu này, khâu khác cũng phải có chỉnh sửa và thay thế, cùng đòi hỏi cả thời gian và nguồn lực, nhưng đây là một quá trình phát triển liên tục. Hơn thế, nếu không thay đổi để chuyển sang quỹ đạo phát triển có chất lượng cao hơn, thì chính mô hình kinh tế hiện nay đã không hiệu quả, cũng tức là tốn kém chi phí nguồn lực rất lớn, làm cản trở sự phát triển khi tài nguyên chỉ có hạn. Người đọc hiểu khi nói về chi phí tài chính không nhiều là xét trên tầm dài hạn với ý nghĩa đó. Còn thời gian để thực hiện sự chuyển đổi, dĩ nhiên chúng ta cần kiên trì, liên tục trong dài hạn theo hướng không ngừng hoàn thiện hơn, nhưng mọi sự chuyển biến trong khởi đầu để tiến sang quỹ đạo mới, quỹ đạo phát triển bền vững thì lại đòi hỏi quyết sách nhanh chóng và dứt khoát, bởi lẽ đòi hỏi của cuộc sống đã đến “độ” chuyển đổi dứt khoát. Chậm chuyển đổi khi tình thế đã đến “độ” không thể đừng, thì về mặt kinh tế sẽ làm tăng chi phí, giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực. Thông điệp năm nay của Thủ tướng Chính phủ, theo người đọc, đã góp một phần quan trọng vào việc làm sáng tỏ con đường của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước theo hướng bền vững. Hai vấn đề đã được đề cập sâu là vấn đề xây dựng thể chế kinh tế thị trường hiện đại và vấn đề cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đã góp phần tạo nên nhận thức chung đúng đắn, sáng tạo, từ đó bằng hành động thực tiễn có thể đặt nền kinh tế đất nước vào quỹ đạo phát triển bền vững, dù sự khởi đầu không ít gian nan.
Năm đặc điểm thể chế kinh tế thị trường hiện đại
Sau ¼ thế kỷ thực hiện đường lối Đổi mới, chúng ta “đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó, đã huy động được các nguồn lực cho phát triển, bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao, tạo nhiều việc làm và cải thiện đời sống nhân dân”. Tuy nhiên, diễn tiến phát triển trong 5-10 năm gần đây, nhất là qua sự ứng phó với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay đã bộc lộ rõ những yếu kém của thể chế kinh tế hiện hữu, mà hệ quả là hiệu quả chung của nền kinh tế đang bị giảm đi nhanh chóng, tiêu biểu nhất là hiệu quả đầu tư ngày càng thấp. Nhiều thời cơ và lợi thế so sánh của đất nước trong điều kiện đi vào hội nhập quốc tế chưa được khai thác có hiệu quả. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là “thể chế kinh tế thị trường vẫn chưa đồng bộ, các yếu tố của kinh tế thị trường chưa hình thành đầy đủ”.
Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh hàng loạt các bất cập của thị trường hiện đang tồn tại ở nước ta: “Thị trường đất đai còn nhiều vướng mắc. Thị trường tài chính phát triển không cân đối, thị trường trái phiếu còn sơ khai, thị trường chứng khoán thiếu chiều sâu, chưa trở thành một kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế, đang dồn gánh nặng lên thị trường tín dụng, làm cho thị trường này rất dễ bị tổn thương. Thị trường khoa học công nghệ chậm phát triển. Thị trường lao động tuy đã khá hoàn chỉnh nhưng chất lượng nguồn nhân lực thấp cùng với sự bất hợp lý về tiền lương giữa các khu vực đang là rào cản lớn cho việc chuyển dịch lao động đến những lĩnh vực thiết yếu trong quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công. Giá cả một số hàng hóa và dịch vụ chưa bù đắp được chi phí, chưa theo cơ chế thị trường, làm cản trở việc thu hút nguồn lực và công nghệ cao cho phát triển”. Vạch ra hàng loạt các yếu kém này của các loại thị trường kinh tế cụ thể hiện nay không phải là cách làm “liệt kê la liệt” mà chính là để thấy cần có sự chuyển đổi mang tính hệ thống, nhất quán. Thủ tướng Chính phủ viết rất đúng trong bản thông điệp đầu năm là: “Thể chế kinh tế thị trường là một chỉnh thể gồm nhiều loại thị trường vận động đồng bộ trong chỉnh thể đó. Một loại thị trường không phát triển đầy đủ sẽ kìm giữ sự vận động của các thị trường khác và làm cản trở sự vận động chung. Trong bối cảnh đó, rất dễ dẫn đến sự can thiệp hành chính vào các quá trình kinh tế. Sự can thiệp này có thể giải quyết những khó khăn trước mắt nhưng chi phí sẽ lớn hơn cơ hội tạo ra và làm sai lệch quá trình phát triển. Rốt cuộc, những vấn đề cơ bản vẫn không được giải quyết. Đây có thể là một nghịch lý trong sự vận động của tư duy mà những người làm công tác quản lý phải nhận thức được để có cách hành xử đúng đắn và nhất quán”. Và đó cũng chính là những công việc năm 2012 này phải tập trung sức thực hiện theo quan điểm đã được Đại hội lần thứ XI của Đảng xác định.
Thúc đẩy sự chuyển dịch tương đối liên tục cơ cấu đầu tư, sản xuất, tạo ra một nền kinh tế có khả năng sáng tạo cao với nhiều sản phẩm mới, bảo đảm hiệu quả và sức cạnh của nền kinh tế... - Ảnh minh họa
Vì sao lúc này lại đặt ra nhiệm vụ đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, với trọng tâm là đổi mới thể chế kinh tế thị trường theo hướng hiện đại? Thực tế qua 20 năm đổi mới, nước ta đã có thế và lực ngày càng lớn mạnh. Từ một nước nghèo, với tổng sản phẩm trong nước GDP tính theo ngoại tệ chưa tới 8 tỷ USD, nông nghiệp chiếm tỷ trọng hơn 40%GDP, sau 20 năm đổi mới, quy mô kinh tế theo GDP đã tăng hơn 10 lần, xuất khẩu tăng 25 lần, với tổng giá trị xuất nhập khẩu trên 200 tỷ USD và tỷ trọng nông nghiệp chỉ chiếm 22%GDP. Tích lũy nội bộ nền kinh tế từ chỗ gần như không có bao nhiêu, phải dựa chủ yếu vào viện trợ nước ngoài, nay đã đạt gần 30%GDP, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào nội lực. Ngày nay quy mô tổng sản phẩm trong nước GDP đã vượt 100 tỷ USD (tính theo tỷ giá chính thức) và đạt gần 300 tỷ USD (tính theo sức mua tương đương), đưa Việt Nam đứng trong hàng ngũ 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Tuy GDP bình quân đầu người từ năm 2009 đã vượt mức nước thu thập thấp (trên 1000 USD/người), nhưng còn thua trung bình chung của thế giới đến 9 lần và chỉ đứng thứ hạng sau hơn 130 nền kinh tế trên thế giới. Thành tựu phát triển xã hội của nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng rất lớn, nhưng chỉ số chung phát triển nguồn con người HDI (dựa trên các tiêu chí tổng hợp về kinh tế, y tế và giáo dục) năm 2010 mới đứng thứ 113 trong 169 nền kinh tế so sánh; còn chỉ số cạnh tranh toàn cầu GCI của nước ta (dựa trên 12 trụ cột là thể chế; hạ tầng; môi trường kinh tế vĩ mô; y tế và giáo dục sơ cấp; giáo dục cao đẳng và đào tạo; hiệu quả thị trường hàng hóa; hiệu quả thị trường lao động; phát triển thị trường tài chính; sẵn sàng công nghệ; quy mô thị trường; độ tinh vi của kinh doanh và đổi mới công nghệ) năm 2011/2012 theo Diễn đàn kinh tế thế giới WEF mới đứng thứ 65 trong 142 nền kinh tế.
Hơn thế, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, nhiều thứ hạng của Việt Nam trong so sánh chưa được cải thiện nhiều, thậm chí có năm sụt giảm. Chính vì thế, người đọc tâm đắc với nhận định của Thủ tướng Chính phủ: “Trong điều kiện toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt, để đất nước có thể tăng tốc phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực, phải xây dựng thể chế kinh tế thị trường hiện đại, tạo điều kiện cho các nguồn lực dịch chuyển trong các ngành và đến các vùng của đất nước theo tín hiệu của thị trường quanh trục lợi nhuận bình quân, bảo đảm sự phát triển hài hòa, cân đối của nền kinh tế. Điều này sẽ kích thích các doanh nghiệp phát triển nguồn nhân lực, ứng dụng và sáng tạo công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý mới, tạo lập lợi thế cạnh tranh động để tìm kiếm lợi nhuận vượt trội so với các chủ thể kinh doanh khác, qua đó thúc đẩy sự chuyển dịch tương đối liên tục cơ cấu đầu tư, sản xuất, tạo ra một nền kinh tế có khả năng sáng tạo cao với nhiều sản phẩm mới, bảo đảm hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đây chính là biện chứng của sự phát triển”.
Nhưng chuyển đổi thể chế kinh tế thị trường hiện đại như thế nào? Đây cũng là điều không đơn giản. Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh: “Phải từ những đặc điểm của thể chế kinh tế thị trường hiện đại để làm chuẩn mực cho quá trình hoàn thiện thể chế”. Và người đọc rất tâm đắc đối với 5 đặc điểm cơ bản của kinh tế thị trường hiện đại cần xây dựng mà Thủ tướng Chính phủ đã nêu. Đây là nhưng vấn đề rất cơ bản, phải hiểu cho rõ và làm cho đúng.
Đầu tiên là tính hệ thống của thể chế kinh tế thị trường hiện đại. Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh: “các loại thị trường phát triển đồng bộ, các yếu tố của kinh tế thị trường hình thành đầy đủ, vận động cùng nhịp, hỗ trợ lẫn nhau, cùng tương tác trong một chỉnh thể thống nhất. Đây là điều kiện để thị trường vận hành thông suốt, các nguồn lực dịch chuyển thuận lợi, được phân bổ hợp lý, hiệu quả”. Vậy phải khởi đầu với các loại thị trường nào? Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh trong năm 2012 và những năm tiếp theo “phải tập trung sức sửa đổi Luật Đất đai, tạo điều kiện hình thành loại thị trường này, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của thị trường bất động sản; phát triển thị trường trái phiếu, mở rộng thị trường bảo hiểm; phát triển mạnh thị trường khoa học công nghệ. Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với cải cách tiền lương, tạo điều kiện cho thị trường lao động vận hành thông suốt. Kiên trì thực hiện lộ trình giá thị trường đối với những sản phẩm Nhà nước còn định giá...”. Đó là các loại thị trường quan trọng nhất, có tác động khơi dậy các loại thị trường trong điều kiện đổi mới hội nhập quốc tế. Điều rất hoan nghênh là Thủ tướng Chính phủ đã đưa lên hàng đầu vấn đề tập trung sức sửa Luật đất đai, một vấn đề đang gây bức xúc trong xã hội, là nguyên cớ của nhiều cuộc khiếu kiện kéo dài cả ở thành thị và nông thôn, thậm chí làm tụ họp đông người, nhưng chưa được xử lý thỏa đáng do vướng mắc nhiều vấn đề liên quan đến sở hữu đất đai...
Hai là, phải là thị trường cạnh tranh. Thủ tướng Chính phủ trong bài viết đã nhấn mạnh “thể chế kinh tế thị trường hiện đại đòi hỏi phải tạo lập được môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể tham gia thị trường” và rằng “cạnh tranh là thuộc tính của kinh tế thị trường, là một trong những tiêu chí đo lường tính thị trường của nền kinh tế. Một thị trường cạnh tranh cao có tác dụng kiềm giữ giá tốt hơn sự kiểm soát giá của nhà nước”. Trong điều kiện cạnh tranh sẽ tạo ra một “sân chơi” bình đẳng, “buộc doanh nghiệp phải tiết giảm chi phí, nâng cao năng suất, bảo đảm hiệu quả”. Và đó chính là điều kiện để tạo nên chất lượng tăng trưởng mới cho toàn nền kinh tế. Để xây dựng được thị trường cạnh tranh, “Chính phủ sẽ chỉ đạo rà soát, đánh giá mức độ cạnh tranh trong từng ngành sản xuất, dịch vụ, loại bỏ sự phân biệt đối xử còn tồn tại trong thực tế giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, kiểm soát độc quyền tự nhiên; tăng cường năng lực của cơ quan bảo vệ tài sản trí tuệ và cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và lợi dụng vị thế thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh”.
Đây là những công việc phức tạp, tỉ mỉ, đòi hỏi tất cả các ngành, các cấp và từng doanh nghiệp cần cùng chung sức để cùng Chính phủ xây dựng và thực hiện một môi trường cạnh tranh hiện đại, cả đối với thị trường trong nước và vươn ra cạnh tranh bình đẳng trên thị trường quốc tế. Rõ ràng từ năm 2007 khi bắt đầu bước vào cạnh tranh trong môi trường của Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) với hơn 150 nền kinh tế thành viên, sức cạnh tranh của kinh tế nước ta đang được không ngừng nâng lên mạnh mẽ. Thành tích xuất khẩu 96 tỷ USD năm 2011 cũng có phần đóng góp quan trọng của môi trường thể chế mới. Nhưng khi đi phân tích sâu hơn, có thể thấy còn nhiều hiện tượng cạnh tranh chưa lành mạnh, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và của đất nước chưa được tiếp sức đủ mạnh khi chuẩn bị các điều kiện chủ động hội nhập quốc tế, tham gia ngày càng sâu vào các thỏa thuận gia nhập thị trường quốc tế và khu vực, như ASEAN (tổ chức các nước Đông Nam Á), WTO (tổ chức thương mại thế giới) và sắp tới là TPP (đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương) ngày càng hiệu quả hơn...
Ba là, tính công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình. Trong thể chế kinh tế thị trường hiện đại, hơn lúc nào hết cần “thực hiện công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình về các chính sách quản lý, các đề án phát triển cũng như trong hoạt động của các chủ thể kinh doanh”. Thực tế những năm qua, nhiều thông tin kinh tế, hiệu quả kinh doanh đã được công khai minh bạch ngày càng tốt hơn, trong nghị trường Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trên các phương tiện thông tin đại chúng... Nhưng còn rất nhiều vấn đề còn thiếu công khai minh bạch, chẳng những làm phiền hà người dân với hàng loạt thủ tục hành chính rắc rối, với nhiều sự giải trình vòng vo, mà lại là điều kiện để các phần tử xấu đủ mọi loại “đục nước béo cò”. Rất nhiều vấn đề kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng lại liên quan đến đời sống của hàng triệu người dân đôi khi đã bị bộ máy quan liêu, với những thủ tục nhiêu khê vô tình hay hữu ý che khuất, không chịu qua “bộ lọc” của giải trình.
Có khi đó là những khó khăn kỹ thuật, là sự luộm thuộm trong quản lý, nhưng không ít trường hợp có thể còn do sự chi phối của các “nhóm lợi ích” (không chính đáng). Vấn đề thường được gọi là “nhạy cảm” này đã được Thủ tướng Chính phủ lý giải rõ ràng trong bài viết: “Thể chế kinh tế thị trường cùng với tác động của quá trình mở cửa, hội nhập gắn liền với việc hình thành cấu trúc đa sở hữu và cơ cấu đa chủ thể kinh tế dẫn đến sự hình thành các “nhóm lợi ích”. Về khách quan, các “nhóm lợi ích” này có thể tác động đến quá trình ra quyết định. Công khai minh bạch không những tạo cơ hội bình đẳng trong tiếp cận thông tin, mà quan trọng hơn, thực hiện công khai minh bạch và đề cao trách nhiệm giải trình, tạo điều kiện cho người dân giám sát các quyết định của các cơ quan quản lý, là biện pháp cơ bản để ngăn ngừa tham nhũng và sự tác động của các “nhóm lợi ích” vào quá trình ra quyết định, bảo đảm cho các quyết định theo chuẩn “giá trị chung”, vì lợi ích của đất nước. Công khai minh bạch cũng hạn chế đầu cơ, giảm chi phí kinh doanh và tăng hiệu quả của thị trường”. Người đọc cũng thấy rõ tinh thần nhìn thẳng sự thật của người đứng đầu Chính phủ khi viết rằng các kết quả cải cách trong lĩnh vực này “vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu”. Không dừng ở chỗ nhận biết tình hình và vạch ra những yếu kém, Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh “quan điểm chính trị chủ đạo là Đảng và Nhà nước ta phải bảo đảm quyền của người dân trong tiếp cận thông tin và phản biện xã hội” và cam kết “Chính phủ sẽ nghiên cứu hoàn thiện các quy định về công khai thông tin và quyền tiếp cận thông tin, đồng thời tăng cường đối thoại chính sách, các đề án phát triển giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với các chuyên gia độc lập và người dân, không chỉ ở công đoạn “hậu kiểm” như đang làm hiện nay mà quan trọng hơn là ở công đoạn “tiền kiểm”, trước khi các quyết định được ban hành. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, tập trung vào những nội dung thuộc chính sách phát triển và tác động của nó đến các tầng lớp dân cư”. Đây chính là một vấn đề rất quan trọng, góp phần “an dân”, mà không chỉ là cứu trợ tiền gạo, tu sửa nhà cửa, đường xá... sau mỗi đợt bị thiên tai.
Tái cơ cấu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội theo một quy hoạch và một hệ thống phân cấp được rà soát chặt chẽ theo tầm nhìn dài hạn và tư duy liên vùng... - Ảnh minh họa
Bốn là, thị trường hiện đại trong toàn cầu hóa. Nền kinh tế Việt Nam hơn lúc nào hết không thể tự “một mình một chợ” trong thế giới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, đan xen ngày nay. Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh: “thể chế kinh tế thị trường hiện đại trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi phải định vị lại mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Theo đó, Nhà nước chuyển từ việc can thiệp trực tiếp vào các quá trình kinh tế sang thực hiện chức năng kiến tạo phát triển: bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập môi trường thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh; tạo cơ chế phát triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ công”. Đây là sự chuyển biến không dễ, chỉ xét về mặt “thói quen” sử dụng các biện pháp hành chính, mà đôi khi bị gọi chệch ra là “hành là chính” đối với người dân và doanh nghiệp (từ thủ tục hải quan, đóng thuế đến các giao dịch dân sự khác nhau...).
Trong điều kiện hội nhập ngày nay, khi kinh tế thế giới đang trải qua cơn chao đảo chưa từng có, khi thể chế “quản trị toàn cầu” còn quá nhiều bất hợp lý và chưa có tiếng nói chung, trong điều kiện bản đồ kinh tế thế giới đang được mưu toan “tự vẽ” do các thế lực mới nổi và cả lợi ích của các quốc gia và các tập đoàn xuyên quốc gia.... Chính vì vậy, Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh “Một thách thức đặt ra cho quản lý của Nhà nước trong điều kiện toàn cầu hóa là mỗi biến động trên thị trường thế giới tác động rất nhanh, rất mạnh đến thị trường trong nước. Tình hình đó đòi hỏi Nhà nước phải nâng cao năng lực dự báo và khả năng phản ứng chính sách nhằm hạn chế những tác động xấu đến nền kinh tế”. Hơn thế, trong điều kiện đất nước ta mới gia nhập Nhóm nền kinh tế có mức thu nhập trung bình thấp, lại có sự phân hóa thu nhập tăng mạnh cùng với tăng trưởng nhanh, Thủ tướng Chính phủ nêu rõ: “Kinh tế thị trường và toàn cầu hóa cũng làm cho một bộ phận dân cư dễ bị tổn thương, làm gia tăng chênh lệch giàu nghèo.
Nhà nước cần có các chính sách đúng đắn, sử dụng những công cụ điều tiết nhằm khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hoá, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội”. Đối với vấn đề phức tạp này, Thủ tướng Chính phủ đã lý giải về vai trò của Nhà nước và thị trường: “Cần khẳng định rằng thị trường hoạt động theo quy luật của nó, trước hết là quy luật cạnh tranh, quy luật lợi nhuận. Sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa là chức năng của Nhà nước. Một mặt, Nhà nước cần phát huy “sức mạnh tự điều chỉnh” của thị trường, mặt khác phải “hoá giải” được tác động tiêu cực của thị trường, bảo đảm định hướng của sự phát triển. Từ đó, vai trò của Nhà nước không hề giảm đi mà phải được tăng cường trên những nội dung mới, theo những phương thức tác động mới”. Liên quan đến thị trường kinh tế hiện đại trong hội nhập, cũng cần có những chuyển biến trong bộ máy tổ chức và cán bộ, công chức. Thủ tướng viết: “Phải từ những quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đại hội lần thứ XI của Đảng đề ra mà hoàn thiện bộ máy nhà nước các cấp cả về chức năng, cơ cấu tổ chức, các quy định về phân cấp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường”. Đây là vấn đề cần làm ngay, nhưng cũng nên hiểu về mối quan hệ biện chứng của hạ tầng cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng để có sự xử lý thỏa đáng một cách biện chứng, với bước đi thích hợp, khi đụng tới con người.
Năm là, vai trò chủ thể của người tiêu dùng, cũng tức là vai trò chủ đạo của yếu tố “cầu” đối với “cung”, mà thị trường kinh tế hiện đại phải làm cho sự gặp gỡ cung-cầu được thực hiện một cách lành mạnh, nhân văn nhất có thể. Khi nhấn mạnh sự khác biệt của nền kinh tế hiện vật thời bao cấp với nền kinh tế thị trường hiện đại, Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh: “một thể chế kinh tế thị trường hiện đại phải hướng về người tiêu dùng, lấy người tiêu dùng làm chủ thể. Phải không ngừng hoàn thiện các thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phát triển các trung tâm bảo vệ người tiêu dùng”. Từ đó, đã nhấn mạnh những việc cần làm ngay là “Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo hoàn thiện các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm; tăng cường công tác kiểm tra hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá lưu thông trên thị trường nội địa; bổ sung các chế tài xử lý nghiêm các vi phạm. Rà soát, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật Bảo vệ người tiêu dùng để đưa pháp luật vào cuộc sống; tạo lập các cơ sở pháp lý để khuyến khích phát triển các tổ chức phi chính phủ về bảo vệ người tiêu dùng”.
Cả năm đặc điểm đã phân tích trên của thể chế kinh tế thị trường hiện đại cần được thực hiện đồng bộ, nhất quán, có lộ trình thích hợp và những chuyển biến quyết đoán. Nhờ đó “sẽ tạo điều kiện để đất nước tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong một thế giới đang toàn cầu hoá ngày càng sâu rộng và cạnh tranh gay gắt”.
Thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Cùng với việc xây dựng thể thế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một nền kinh tế thị trường hiện đại, tạo nên đột phá trong tư duy phát triển, thì vấn đề thứ hai đi cùng, cũng rất quan trọng là xây dựng nền kinh tế như thế nào, khi nền kinh tế hiện nay đang rất thiếu hiệu quả, thiếu động lực. Về vấn đề này, thông điệp đầu năm của Thủ tướng Chính phủ đã lý giải sâu sắc rằng: “Khi nói các đột phá chiến lược là tiền đề của tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng hoàn toàn không có nghĩa là phải đợi thực hiện xong các đột phá mới thực hiện tiến trình này. Các tiền đề đã hình thành và sẽ được hoàn thiện trong suốt quá trình phát triển. Tái cơ cấu là công việc diễn ra tương đối liên tục dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và sự dịch chuyển lợi thế cạnh tranh giữa các quốc gia cũng như trong từng doanh nghiệp”. Và nhấn mạnh sự quyết đoán của Đảng ta, khi Thủ tướng viết về vấn đề này xét trong chiến lược 10 năm và kế hoạch 5 năm: “Chính trên quan điểm đó và từ tầm nhìn của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Hội nghị Trung ương 3 khóa XI đã đặt yêu cầu thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng ngay trong thời kỳ kế hoạch 2011 – 2015”.
Trong bài viết của mình, Thủ tướng Chính phủ đã phân tích cội nguồn của các quyết sách này của Đảng ta là: “Mục tiêu của tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng là thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu các ngành sản xuất, dịch vụ theo yêu cầu nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế để có thể tham gia vào những công đoạn có giá trị gia tăng cao trong mạng sản xuất và chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu”. Tuy nhiên, khi đề cập tới ba lĩnh vực quan trọng cần đẩy mạnh tái cơ cấu, một số người, thậm chí không ít nhà kinh tế đôi khi đã có sự giải thích phần nào hơi hẹp, dễ gây hiểu lầm rằng hình như cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng chỉ cần làm đôi ba việc như đã nêu với các lĩnh vực đầu tư, DNNN hay thị trường tài chính. Bài viết đã góp phần chỉnh sửa lại nhận thức này khi nhấn mạnh, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế sẽ được thực hiện đồng bộ trên một số các nội dung chính quan trọng về cơ cấu lại các ngành, cơ cấu lại doanh nghiệp, điều chỉnh chiến lược thị trường, ... Những vấn đề này đã được viết rõ thêm, chắc chắn đòi hỏi các nhà kinh tế nước ta đào sâu hơn, để nhận thức cho rõ, làm cho đúng và đạt hiệu quả cao nhất của quá trình này.
Chuyển từ một ngành công nghiệp gia công lắp ráp có hàm lượng khoa học công nghệ và giá trị gia tăng thấp, sang phát triển các ngành chế tạo và chế biến có giá trị gia tăng cao... - Ảnh minh họa
Một là, về tái cơ cấu ngành (các ngành sản xuất và dịch vụ). Đây là một vấn đề rộng lớn, khi các ngành ngày càng được phân công và hợp tác đa dạng trên phạm vi quốc gia, vùng và quốc tế. Trong công nghiệp, Thủ tướng đã nhấn mạnh phải “chuyển từ một ngành công nghiệp gia công lắp ráp có hàm lượng khoa học công nghệ và giá trị gia tăng thấp, sang phát triển các ngành chế tạo và chế biến có giá trị gia tăng cao, tập trung phát triển các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ và một số sản phẩm công nghệ cao mà nước ta có tiềm năng và lợi thế”. Quan điểm này đang được các ngành, các địa phương quán triệt và thi hành. Nhiều địa phương dù muốn tăng trưởng nhanh kinh tế, nhưng đã biết chọn lọc hơn để nói “không” với các dự án lắp ráp, công nghệ thấp, sử dụng nhiều nguyên liệu nhập ngoại và gây ô nhiễm. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng đang được chỉnh đốn đúng hướng để không ham chạy theo số lượng dự án, ham chạy theo các con số cam kết lớn, mà quên rằng, các dự án này tạo việc làm thế nào, tác động lan tỏa trong nền kinh tế và thúc đẩy xuất nhập khẩu đến mức nào...
Trong lĩnh vực dịch vụ, vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động, “nhất là các ngành là “mạch máu” của nền kinh tế như các dịch vụ tài chính, nâng cao năng lực quản trị, bảo đảm phòng tránh rủi ro và an toàn hệ thống”. Chính trong điều kiện đó, các hoạt động tái cơ cấu đã nhằm vào các lĩnh vực của thị trường tài chính, nhất là các ngân hàng thương mại, các kênh dẫn vốn khác nhau trong nền kinh tế. Những đây cũng là các lĩnh vực rất “nhạy”, nếu xử lý thiếu thận trọng, có thể gây tai hại cho nền kinh tế và người tiêu dùng, doanh nghiệp... Thủ tướng cũng nhấn mạnh: “Phát triển các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, đổi mới cơ chế nhằm khuyến khích phát triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ công”. Trong nông nghiệp, một lĩnh vực năm vừa qua đã có những thành quả to lớn cả về quy mô và giá trị, với sản lượng lúa tăng hơn 2,2 triệu tấn và giá trị nông sản xuất khẩu đã đạt 25 tỷ USD. Đối với lĩnh vực quan trọng hiện có dân số làm nông nghiệp chiếm 48% lực lượng lao động và gần 70% dân cư sống ở nông thôn, Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh “phát triển nền nông nghiệp hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới và cải thiện đời sống nông dân. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn”. Để nâng cao năng suất nông nghiệp, cần “đưa công nghiệp và khoa học công nghệ tác động vào nông nghiệp trên tất cả các công đoạn từ nuôi trồng, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản, chế biến đến phân phối. Gắn việc áp dụng khoa học công nghệ với tổ chức sản xuất, phát triển các mô hình sản xuất lớn, từng bước hình thành các tổ hợp nông công nghiệp công nghệ cao; gắn kết các công đoạn của quá trình tái sản xuất trong một chuỗi giá trị bảo đảm phân phối hài hòa lợi ích giữa các công đoạn trong chuỗi gia trị đó”. Và Thủ tướng đã nhấn manh đúng rằng “đây là con đường cơ bản để phát triển nông nghiệp bền vững”.
Hai là, tái cơ cấu doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động sản xuất riêng lẻ của các hộ gia đình đang ngày càng giảm bớt về quy mô và trở thành các “vệ tinh”, mắt xích của các doanh nghiệp nhiều loại, đang hoạt động trong nền kinh tế. Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh: “Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế được mở đường từ các chính sách vĩ mô nhưng lại phải được thực hiện trong từng doanh nghiệp. Tái cơ cấu doanh nghiệp là cơ sở tạo nên diện mạo mới của nền kinh tế”. Tuy nhiên, không thể nào có thể tái cơ cấu từng doanh nghiệp riêng lẻ, mà cần có một chính sách thống nhất, tạo môi trường thuận lợi nhất để các doanh nghiệp có thể tự điều chỉnh theo hướng hoạt động ngày càng hiệu quả trong các ngành, trên các địa bàn lãnh thổ khác nhau, trong sự đan xen và liên kết với nhau, đáp ứng nhu cầu đa dạng cuả thị trường trong và ngoài nước trong điều kiện hội nhập.
Để tạo nên năng suất ngày càng cao, hiệu quả ngày càng lớn, mang tính hệ thống, cần thực hiện “tái cơ cấu doanh nghiệp, phải ứng dụng những thành tựu mới nhất về khoa học công nghệ trong sản xuất và quản lý, phải đổi mới mô hình tổ chức và phương pháp quản trị doanh nghiệp phù hợp với sự thay đổi công nghệ sản xuất và sự phát triển của thị trường nhằm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp”. Dĩ nhiên trong quá trình này, cũng là tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực, cả công nhân trực tiếp sản xuất và các nhà quản lý kinh doanh thời thị trường hội nhập. Mọi người trong nền kinh tế phải không ngừng học hỏi để tiến bộ không ngừng và thích ứng với thị trường quốc tế thay đổi nhanh chóng.
Ba là, điều chỉnh chiến lược thị trường. Thích ứng với một nền kinh tế toàn cầu hóa, hội nhập sâu và cạnh tranh gay gắt, trên phạm vi cả nước và trong từng doanh nghiệp cần có sự điều chỉnh để thích nghi và phát triển không ngừng. Thủ tướng Chính phủ lưu ý rằng, “toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế mở ra thị trường rộng lớn cho doanh nghiệp tăng khả năng tận dụng lợi thế do quy mô các dự án đầu tư và tiêu thụ sản phẩm”. Và cũng không quên cảnh báo rất đúng rằng, “toàn cầu hóa cũng làm tăng tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, nhất là những nền kinh tế có độ mở lớn như nước ta. Điều đó cũng dễ dẫn đến những bất định nhiều khi vượt khỏi khả năng dự báo”. Khi nghĩ về kinh nghiệm nước ta về việc mở rộng thị trường cạnh tranh của cá ba-sa ra ngoài thị trường Hoa Kỳ, mà cả Nga, Tây Âu, và các nước khác cũng như thị trường trong nước, với những đặc thù khác nhau về thói quen tiêu dùng đã mang lại hiệu quả, người đọc thấm thía là “phải đa dạng hóa sản phẩm và thị trường xuất khẩu, hạn chế sự lệ thuộc vào một số ít thị trường, đồng thời phải hết sức coi trọng thị trường nội địa, nhất là địa bàn nông thôn”. Với một quan điểm biện chứng và sự hiểu biết rất thấu đáo về cơ chế thị trường hiện đại, Thủ tướng lưu ý “điều quan trọng không chỉ là tăng xuất khẩu vào từng quốc gia, vùng lãnh thổ mà là xâm nhập vào chuỗi giá trị trong bối cảnh mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu ngày càng phát triển” và đặt ra yêu cầu phải hình thành “chuỗi cung ngay trên thị trường trong nước”. Đây là con đường để phát triển thương mại bền vững- Thủ tướng nhắc nhở trong bài viết đầu năm.
Về tái cơ cấu đầu tư và ba lĩnh vực cấp bách cần cơ cấu lại. Những vấn đề tái cơ cấu đầu tư nói chung và đầu tư công đã được nói nhiều, nói khá kỹ, vì nó đụng chạm ngay đến mọi lĩnh vực phát triển của nền kinh tế. Cần lưu ý rằng, trong điều kiện ngân sách hạn hẹp, việc điều chỉnh đầu tư công như đã nêu ra gần đây đã được các địa phương nhận thức rất rõ và thể hiện quyết tâm cùng hành động trong Hội nghị cuối năm triển khai kế hoạch 2012 tại Hà Nội giữa các thành viên Chính phủ và lãnh đạo các địa phương. Nhưng tái đầu tư không đồng nghĩa với giảm đầu tư nhất loạt, có hại cho số lượng và cả chất lượng tăng trưởng. Vì thế bên cạnh giảm đầu tư công và cơ cấu lại cho hiệu quả theo quan điểm hệ thống cả nước trong điều kiện mới, cũng cần lưu ý tạo điều kiện và môi trường kinh doanh thuận lợi như tín dụng với lãi suất hợp lý để bảo đảm tăng trưởng và việc làm, thu hút đa dạng các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước bên ngoài đầu tư công. Thủ tướng Chính phủ trong bài viết đã lưu ý thêm rằng cần “gắn kết và thực hiện đồng thời với tái cơ cấu các lĩnh vực nêu trên là tái cơ cấu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội theo một quy hoạch và một hệ thống phân cấp được rà soát chặt chẽ theo tầm nhìn dài hạn và tư duy liên vùng. Khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, tập trung cho các công trình thiết yếu, sớm đưa vào khai thác, tạo điều kiện cho các yếu tố sản xuất dịch chuyển thuận lợi đến những vùng có tiềm năng phát triển, góp phần giảm chi phí vận tải, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Giảm tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư xã hội; hoàn thiện cơ chế khuyến khích để thu hút mạnh đầu tư của khu vực tư nhân và các doanh nghiệp nước ngoài, phát triển các phương thức đầu tư, đặc biệt là phương thức hợp tác công - tư (PPP), nâng cao hiệu quả đầu tư”.
Trong bài viết, Thủ tướng Chính phủ cũng đã nhấn mạnh, “các nội dung cơ cấu lại nền kinh tế phải được thực hiện trong suốt quá trình công nghiệp hóa nhưng phải được bắt đầu ở những lĩnh vực cấp bách nhất, đó là tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; tái cơ cấu thị trường tài chính, trọng tâm là hệ thống các ngân hàng thương mại và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước”. Thủ tướng giải thích vì sao Trung ương và Chính phủ đã lựa chọn các lĩnh vực này, cho đó là rất đúng đắn và cần thiết vì đây là “những lĩnh vực hiệu quả còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực bỏ ra và tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế”. Tái cơ cấu các lĩnh vực này còn có tác động thúc đẩy quá trình tái cơ cấu theo các nội dung toàn diện nêu trên.
Vấn đề tái cơ cấu kinh tế, với nội dung rất phong phú và đa dạng như trên đang được các cơ quan Chính Phủ xây dựng đề án chi tiết, nhưng cũng đã được Chính phủ quan tâm xây dựng thành đề án chung. Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh “đang chỉ đạo sát sao việc xây dựng đề án tái cơ cấu trong từng lĩnh vực để triển khai mạnh mẽ theo những quy trình chặt chẽ cho từng bước với những mục tiêu cụ thể đặt ra cho mỗi bước, xác định rõ các tiêu chí đo lường và đánh giá kết quả. Yêu cầu đặt ra là phải bảo đảm sự đồng bộ khi thực hiện tái cơ cấu các lĩnh vực nói trên do mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa chúng, đồng thời tăng cường công tác giám sát việc thực hiện ở mỗi Bộ, ngành, địa phương và từng doanh nghiệp, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, không gây xáo động lớn cho nền kinh tế, “rút dây” mà không “động rừng”...”.
Vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Trong bài viết của mình, Thủ tướng Chính phủ đã phân tích rất rõ mối quan hệ biện chứng, đa chiều: tái cơ cấu nền kinh tế một mặt đòi hỏi chuyển đổi mô hình tăng trưởng và “chuyển đổi mô hình tăng trưởng là nội dung cơ bản của tái cơ cấu doanh nghiệp, là điều kiện để tăng hiệu suất sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, có tác động mạnh mẽ đến tái cơ cấu đầu tư và tái cấu trúc thị trường tài chính, góp phần giảm thiểu chi phí của quá trình tái cơ cấu. Phải chuyển mạnh từ tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên đang ngày càng cạn kiệt và nguồn nhân lực chất lượng thấp sang mô hình tăng trưởng dựa vào việc áp dụng những thành tựu của khoa học công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và phương pháp quản trị hiện đại; nâng cao mức đóng góp của các yếu tố tổng năng suất vào tăng trưởng”.
Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh về mối quan hệ biện chứng đối với vấn đề khoa học công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao: “chuyển đổi mô hình tăng trưởng vừa là yêu cầu cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài, gắn với phát triển nguồn nhân lực và quá trình đổi mới công nghệ sản xuất và quản lý. Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, trong năm 2012, cùng với việc sớm phê duyệt đề án phát triển thị trường công nghệ, Chính phủ sẽ ban hành các chính sách khuyến khích đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp; quy định tiêu chuẩn công nghệ trong Luật Đầu tư công và các dự án đấu thầu; khuyến khích mạnh các dự án áp dụng công nghệ mới và các dự án có lập trung tâm nghiên cứu phát triển công nghệ; tăng cường hợp tác công - tư trong việc hình các quỹ đầu tư mạo hiểm về khoa học công nghệ… Xây dựng văn bản pháp lý cao hơn để phát triển công nghiệp hỗ trợ”.
Không quên nhiệm vụ ngắn hạn, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đạt mức tăng trưởng hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội. Thủ tướng Chính phủ nêu rõ vấn đề gắn các nhiệm vụ trước mắt với các vấn đề trung, dài hạn, mang tầm chiến lược: “Cùng với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, trong năm 2012 phải tiếp tục quán triệt quan điểm chỉ đạo trong kết luận số 02 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 11 của Chính phủ, tăng cường ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát và duy trì tăng trưởng hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội. Đây là những nhiệm vụ rất nặng nề và khó khăn, nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới đang diễn biến phức tạp, thậm chí có nguy cơ rơi vào vòng suy thoái mới, đòi hỏi phải có sự nỗ lực vượt bậc của các ngành, các cấp. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò mở đường, tạo cơ chế, chính sách và chỉ đạo thực hiện nhưng kết quả phải được phản ánh trên từng cơ sở sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, doanh nghiệp phải là chủ thể, có vai trò quyết định”.
Thông điệp đầu năm của Thủ tướng Chính Phủ đã tạo ra một nhận thức chung trên cơ sở “thuận lợi cơ bản là đã tạo được sự thống nhất cao về nhận thức trong cả hệ thống chính trị, có sự quyết tâm cao trong các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương và cộng đồng doanh nghiệp”.
Lời kết luận của thông điệp đầu năm đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc, và chắc chắn sẽ còn là chủ đề nghiên cứu để hiểu cho thấu triệt và không ngừng làm phong phú thêm trong hoạt động thực tiễn, đó là “Phải chuyển nhận thức, quyết tâm thành hành động và hành động quyết liệt để vượt qua sức ỳ của quá trình khởi động, đặt tiến trình phát triển của đất nước vào quỹ đạo mới - Quỹ đạo phát triển bền vững” . Một tư duy sáng tỏ như vậy sẽ được đón nhận tích cực của mọi giới đồng bào. Khi đó, đúng là “dễ một lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng qua”. Mong rằng thông điệp này như một sự khẳng định về ý Đảng, lòng dân hòa hợp và trở thành sức mạnh mới mang tính thời đại trong mùa xuân 2012, đưa dân tộc ta tiếp tục vượt gian khó, phát triển bền vững.
Thủ tướng cũng lưu ý các Bộ, ngành cần sớm khắc phục một số hạn chế như công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật chất lượng chưa cao, công tác qui hoạch, quản lý tài nguyên còn bất cập, hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật còn chưa nghiêm, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn lúng túng……
Trước hết với tinh thần tự phê bình và phê bình các thành viên Chính phủ, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng thực thực trạng, sớm triển khai kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ, ngành mình quản lý, chỉ rõ những ưu khuyết điểm, từ đó ra sức khắc phục những tồn tại,nhưng lời nói phải đi với việc làm trong công tác chỉ đạo, điều hành thì mới thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đề ra trong năm 2012.
GS,TS Nguyễn Quang Thái
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét