Thứ Năm, 19 tháng 1, 2012

Huyền thoại về ngày tàn của nước Mỹ (Phần cuối)

Huyền thoại về ngày tàn của nước Mỹ (Phần cuối)


 

Chưa phai tàn

Phản biện huyền thoại về sự suy tàn của Mỹ
Robert Kagan, Tạp chí The New Republic, 2/2/2012
Robert Kagan là nghiên cứu viên cao cấp về chính sách đối ngoại ở Brookings Institution, và bình luận viên cho báo The Washington Post. Một phiên bản của tiểu luận này sẽ in trong cuốn sách mới của ông, The World America Made (Thế giới mà nước Mỹ tạo ra), sẽ được nhà Knopf xuất bản vào tháng này. Việc ấn hành tiểu luận này được sự hỗ trợ của Quỹ Phân tích Chính sách Hertog/Simon. Bài báo này đăng trong số ngày 2 tháng 2 năm 2012 của tạp chí The New Republic.

III.
Những thách thức hiện nay rất lớn, và sự vươn lên của Trung Quốc là thách thức hiển nhiên nhất. Nhưng chúng cũng không lớn hơn những thách thức mà Mỹ gặp phải trong Chiến tranh Lạnh. Chỉ khi hồi tưởng lại mới thấy Chiến tranh Lạnh có vẻ dễ dàng. Người Mỹ vào cuối Chiến Tranh Thế giới Thứ hai đối mặt với một cuộc khủng hoảng chiến lược quan trọng. Liên Xô, nếu chỉ xét về quy mô và địa thế của họ, dường như đe dọa những trung tâm chiến lược ở Châu Âu, Trung Đông, và Đông Á. Ở tất cả những vùng này, Liên Xô đối đầu với những quốc gia điêu tàn và kiệt quệ vì chiến tranh. Để giải quyết thách thức này, Mỹ đã phải vận dụng sức mạnh của chính mình, tuy lớn nhưng cũng hạn chế, vào mỗi vùng đó. Mỹ đã phải thành lập các liên minh với những quyền lực địa phương, một số trong đó là kẻ thù cũ, và hỗ trợ về kinh tế, chính trị, và quân sự để giúp họ đứng vững trên đôi chân của mình và chống lại sức ép của Liên Xô. Trong Chiến tranh Lạnh, Liên Xô gây ảnh hưởng và tạo áp lực đối với những lợi ích của Mỹ chỉ bằng cách ngồi yên, trong khi Mỹ phải tất tả ngược xuôi. Nên nhớ rằng chiến lược “ngăn chặn” (containment) này tuy hiện nay được đề cao nhờ thành công rõ rệt của nó nhưng vào thời đó bị một số nhà quan sát có ảnh hưởng chê là hoàn toàn không có tác dụng. Walter Lippmann chỉ trích chiến lược đó là “sai lầm”, dựa trên “hy vọng”, nhường “thế chủ động chiến lược” cho Liên Xô trong khi Mỹ dốc hết nguồn lực của mình để cố gắng thiết lập “những nhà nước chư hầu, những chính phủ bù nhìn” yếu kém, không hữu hiệu, và không đáng tin cậy. 

Hiện nay, trong trường hợp Trung Quốc, tình thế đã đảo ngược. Mặc dù Trung Quốc hiện đang và sẽ giàu hơn nhiều, và sẽ gây ảnh hưởng kinh tế trên thế giới lớn hơn ảnh hưởng mà Liên Xô từng có. Chiến tranh Thế giới Thứ hai đã đẩy Trung Quốc vào một vị thế tương đối yếu mà từ đó Trung Quốc đã và đang cố gắng hết sức để hồi phục. Nhiều nước láng giềng của Trung Quốc là những quốc gia mạnh có quan hệ gần gũi với Mỹ. Trung Quốc sẽ khó trở thành một nước bá quyền trong khu vực chừng nào Đài Loan vẫn còn độc lập và có quan hệ chiến lược với Mỹ, và chừng nào những cường quốc trong khu vực như Nhật, Hàn Quốc và Úc tiếp tục có quân Mỹ đồn trú và còn căn cứ quân sự của Mỹ. Trung Quốc sẽ cần ít nhất vài đồng minh mới mong có cơ hội đẩy Mỹ ra khỏi thành trì của Mỹ ở tây Thái Bình Dương, nhưng ngay bây giờ chính Mỹ mới là nước có những đồng minh đó. Chính Mỹ hiện có quân triển khai ở những căn cứ tiền đồn. Chính Mỹ hiện chiếm thế thống lĩnh hải quân ở những vùng biển và đường thủy mà hoạt động thương mại của Trung Quốc phải đi qua. Nhìn tổng thể, với tư cách là một đại cường quốc đang vươn lên, nhiệm vụ của Trung Quốc (đẩy Mỹ ra khỏi vị thế hiện tại), khó khăn hơn nhiều so với nhiệm vụ của Mỹ (chỉ cần duy trì vị thế mình đang có).
Liệu Mỹ có thể làm vậy hay không? Với tâm trạng bi quan hiện nay, một số người Mỹ nghi ngờ khả năng đó. Thực vậy, họ ngờ vực liệu Mỹ có đủ khả năng tiếp tục đóng vai trò thống lĩnh ở bất cứ nơi nào trên thế giới như đã từng trong quá khứ. Có người lập luận rằng tuy có thể đã không đúng hồi năm 1987, lời cảnh báo của Paul Kennedy về “tầm ảnh hưởng đế quốc dàn trải quá rộng” (imperial overstretch) mô tả chính xác hiện trạng bất ổn của Mỹ. Cuộc khủng hoảng tài khóa, hệ thống chính trị bế tắc, những vấn nạn khác nhau của xã hội Mỹ (trong đó có tình trạng mức lương dậm chân tại chỗ, bất bình đẳng thu nhập), những nhược điểm của hệ thống giáo dục, cơ sở hạ tầng xuống cấp – tất cả những vấn đề này hiện nay được xem là những nguyên nhân tại sao Mỹ cần cắt giảm hoạt động quốc tế, rút lui bớt từ một số cam kết ở nước ngoài, tập trung vào việc “xây dựng đất nước ở quốc nội”, chứ đừng cố gắng tiếp tục định hình thế giới như đã từng trong quá khứ.
MỘT LẦN NỮA, những giả định phổ biến này gần được cân nhắc ít nhiều. Trước hết, Mỹ đã “dàn trải quá rộng” đến đâu? Câu trả lời là, xét về mặt lịch sử, không hề quá rộng như thoạt tưởng. Thử xét đến vấn đề dễ hiểu là số quân mà Mỹ triển khai ở nước ngoài. Theo dõi cuộc tranh luận hiện nay, ta có thể tưởng rằng số quân Mỹ tham gia các hoạt động ở nước ngoài nhiều hơn bao giờ hết. Nhưng còn lâu mới đúng như vậy. Năm 1953, Mỹ có gần một triệu quân triển khai ở nước ngoài – 325.000 tham chiến ở Triều Tiên và 600.000 đồn trú ở Châu Âu, Châu Á, và những vùng khác. Năm 1968, Mỹ có hơn một triệu quân ở nước ngoài – 537.000 ở Việt Nam và thêm một nửa triệu quân đóng ở những nơi khác. Trái lại, vào mùa hè 2011, vào lúc cao trào của số quân triển khai trong hai cuộc chiến của Mỹ, có khoảng 200.000 quân tham chiến ở Iraq và Afghanistan tính chung, và khoảng 160.000 quân đóng ở Châu Âu và Đông Á. Tính chung, và bao gồm những lực lượng khác đóng trên khắp thế giới, có khoảng 500.000 triển khai ở nước ngoài. Con số này thậm chí còn thấp hơn những đợt triển khai thời bình trong Chiến tranh Lạnh. Ví dụ, năm 1957, có hơn 750.000 quân đóng ở nước ngoài. Thời gian mười năm từ khi đế chế Xô viết sụp đổ cho đến lúc xảy ra những vụ khủng bố 11/9 là giai đoạn duy nhất mà con số những lực lượng triển khai ở nước ngoài thấp hơn hiện nay. Phép so sánh này càng tương phản hơn nếu ta xét đến mức gia tăng dân số của Mỹ. Khi Mỹ có một triệu quân triển khai ở nước ngoài vào năm 1953, tổng dân số của Mỹ chỉ là 160 triệu. Hiện nay, khi có nửa triệu quân triển khai ở nước ngoài, dân số Mỹ là 313 triệu. Đất nước có số dân đông gấp đôi, với số quân triển chỉ bằng một nửa so với 50 năm trước.
Vậy còn phí tổn tài chính thì sao? Nhiều người hình như tin rằng chi phí của những đợt triển khai này, và của các lực lượng vũ trang nói chung, là một yếu tố chính góp phần làm tăng vọt những khoản thâm hụt ngân sách đe dọa đến khả năng trả nợ của nền kinh tế quốc dân. Nhưng điều này cũng không đúng. Theo nhận định của nguyên giám đốc cơ quan ngân sách Mỹ Alice Rivlin, những dự báo đáng sợ về thâm hụt trong tương lai không phải là do “chi tiêu quốc phòng gia tăng”, huống gì là do chi tiêu cho viện trợ nước ngoài. Những khoản thâm hụt bất kham dự báo cho những năm sắp đến chủ yếu là kết quả của chi tiêu phân bổ bắt buộc theo luật định (entitlement spending) ngày càng nhiều. Ngay cả những khoản cắt giảm mạnh tay nhất về ngân sách quốc phòng cũng chỉ tiết kiệm được từ 50 tỉ đến 100 tỉ đô-la mỗi năm, một tỉ lệ nhỏ – từ 4 đến 8 phần trăm – trong con số 1,5 ngàn tỉ đô-la thâm hụt hàng năm mà Mỹ đang đương đầu.
Năm 2002, khi Paul Kennedy sửng sốt về việc Mỹ vẫn còn khả năng duy trì vị thế “siêu cường quốc độc nhất của thế giới với giá rẻ”, Mỹ chi tiêu khoảng 3,4 phần trăm GDP cho quốc phòng. Hiện nay, mức chi tiêu đó thấp hơn 4 phần trăm một chút, và trong những năm sắp đến, con số đó có thể lại giảm xuống – vẫn còn “rẻ” theo các chuẩn mực trong lịch sử. Chi phí cho việc duy trì sức mạnh thống lĩnh thế giới không đến nỗi đắt quá.
Ngoài ra, nếu ta thật sự nghiêm túc về chuyện hạch toán này, chi phí của việc duy trì vị thế đó không thể đo lường được nếu không xét đến chi phí của việc đánh mất vị thế đó. Tất nhiên, trong những chi phí của việc giảm vai trò của Mỹ trên thế giới, có những chi phí không thể định lượng được. Nếu người Mỹ được sống trong một thế giới với chủ yếu là các nước dân chủ, thay vì các chế độ chuyên quyền, thì điều đó có giá trị ra sao đối với người Mỹ? Nhưng một số trong những chi phí khả dĩ này có thể đo lường được, nếu như có người muốn thử. Nếu sự suy tàn của sức mạnh quân sự Mỹ dẫn đến sự tan rã trật tự kinh tế quốc tế mà sức mạnh Mỹ từ trước đến nay đã giúp duy trì; nếu những con đường mậu dịch và đường thủy không còn an toàn như trước, vì Hải quân Mỹ không còn khả năng bảo vệ chúng; nếu những cuộc chiến tranh khu vực bùng nổ giữa các đại cường quốc vì họ không còn bị siêu cường Mỹ chế ngự; nếu những đồng minh của Mỹ bị tấn công vì Mỹ tỏ ra không còn khả năng ứng cứu bảo vệ cho họ; nếu bản chất nhìn chung tự do và cởi mở của hệ thống quốc tế trở nên bớt tự do và cởi mở – nếu tất cả những điều này xảy ra, thì sẽ có những chi phí có thể đo lường được. Và cũng chẳng phải viển vông nếu hình dung rằng những chi phí này sẽ lớn hơn nhiều so với những khoản tiết kiệm thu được nhờ cắt giảm 100 tỉ đô-la mỗi năm trong ngân sách quốc phòng và ngân sách viện trợ nước ngoài. Ta có thể tiết kiệm bằng cách mua xe cũ không có bảo hành và không có một số đặc tính an toàn, nhưng chuyện gì xảy ra nếu ta bị tai nạn? Sức mạnh quân sự Mỹ giảm rủi ro xảy ra các tai nạn bằng cách ngăn cản xung đột, và giảm chi phí của các tai nạn thực sự xảy ra bằng cách giảm xác suất thua trận. Những khoản tiết kiệm này cũng cần được đưa vào phép tính. Chỉ riêng về khía cạnh tài chính, việc duy trì hoạt động quốc tế của Mỹ ở mức độ hiện tại có thể rẻ hơn nhiêu so với việc giảm bớt hoạt động đó.
CÓ LẼ MỐI QUAN NGẠI lớn nhất đằng sau tâm lý lo sợ suy tàn hiện diện trên khắp đất nước hiện nay không hẳn là liệu Mỹ có đủ khả năng đảm nhận vai trò của mình trên thế giới hay không. Mà là liệu người Mỹ có giải quyết được vấn đề nào trong những khó khăn kinh tế và xã hội cấp bách nhất của họ. Như nhiều chính khách và bình luận viên đã hỏi, liệu người Mỹ có thể làm điều cần phải làm để cạnh tranh hiệu quả trên thế giới trong thế kỷ 21 hay không?
Câu trả lời trung thực là: ai mà biết được? Tuy nhiên, nếu lấy lịch sử Mỹ làm chỉ dẫn, chí ít cũng có lý do để hy vọng. Người Mỹ trước kia từng có cảm giác bất an này, và nhiều thế hệ trước đây cũng đã có cảm tưởng đánh mất sức sống mãnh liệt và mất hiệu lực: như hồi năm 1788, Patrick Henry [11] than vãn về chuyện đất nước sa sút từ vinh quang trong quá khứ, “khi tinh thần Mỹ đang ở thời thanh xuân”. Trong hai thế kỷ qua đã có nhiều lần hệ thống chính trị trở nên vô dụng, bế tắc đến tuyệt vọng, và dường như không thể tìm ra các giải pháp những vấn nạn trầm trọng của quốc gia – từ nạn nô lệ và rồi thời kỳ Tái thiết sau Nội chiến, đến những xáo trộn về công nghiệp hóa vào cuối thế kỷ 19 và cuộc khủng hoảng phúc lợi xã hội trong cuộc Đại Khủng hoảng, đến những hỗn loạn và tâm lý hoang tưởng trong những năm đầu của Chiến tranh Lạnh. Bất cứ ai trung thực nhớ lại thập niên 1970, với vụ Watergate, cuộc chiến Việt Nam, kinh tế vừa đình trệ vừa lạm phát cao, và khủng hoảng năng lượng, không thể thực sự tin rằng những khó khăn hiện nay của chúng ta là không có gì sánh bằng.
Thành công trong quá khứ không bảo đảm thành công trong tương lai. Nhưng dường như bằng chứng lịch sử cho thấy rõ một điều: hệ thống Mỹ tuy có những đặc tính thường khiến nó vô dụng nhưng cũng đã chứng tỏ có khả năng thích ứng và hồi phục từ những khó khăn tốt hơn nhiều nước khác, trong đó có những đối thủ địa chính trị. Điều này hẳn nhiên có liên quan đến quyền tự do tương đối của xã hội Mỹ tưởng thưởng cho những người đổi mới sáng tạo, thường bên ngoài cơ cấu quyền lực hiện có, vì có công tạo ra những cách làm mới; và liên quan đến hệ thống chính trị tương đối cởi mở của Mỹ cho phép các phong trào có động lực tiến triển và tác động đến hành vi của giới chóp bu quyền lực chính trị. Hệ thống Mỹ chậm chạp và vụng về một phần bởi vì những vị Quốc phụ (Founding Fathers) thiết kế hệ thống theo cách đó, với một cơ cấu liên bang, tam quyền phân lập, và một Hiến Pháp và Tuyên Ngôn Dân Quyền thành văn – nhưng hệ thống đó cũng có năng lực đặc biệt để thực hiện những thay đổi ngay khi nồi nước sôi có vẻ như sắp sửa bật tung nắp. Thỉnh thoảng có “những cuộc bầu cử tới hạn”[12] tạo điều kiện diễn ra những chuyển biến [hệ trọng], mang lại những giải pháp chính trị mới cho những vấn đề cũ và dường như không thể giải quyết được. Dĩ nhiên không có gì bảo đảm cả: hệ thống chính trị đã không giải quyết được vấn đề nô lệ mà không có chiến tranh. Nhưng về nhiều vấn đề lớn trong suốt tiến trình lịch sử của mình, người Mỹ đã tìm ra cách đạt được và thực hiện một giải pháp đồng thuận quốc gia.
Khi Paul Kennedy trầm trồ thán phục thành công liên tục của siêu cường Mỹ hồi năm 2002, ông nhận xét rằng một trong những nguyên nhân chủ yếu là người Mỹ có khả năng vượt qua hoàn cảnh mà hồi năm 1987 ông cứ tưởng là một cuộc khủng hoảng kinh tế dài hạn không giải quyết được. Giới doanh nhân và giới chính khách Mỹ “đã phản ứng mạnh mẽ trước cuộc tranh luận về “suy tàn” bằng cách ra tay hành động: cắt giảm chi phí, tinh giản các công ty cho gọn nhẹ và hiệu quả hơn, đầu tư vào những công nghệ mới hơn, thúc đẩy cách mạng thông tin liên lạc, giảm thâm hụt chính phủ, tất thảy những việc đó đã giúp tạo nên những bước tiến đáng kể hàng năm về năng suất”. Có thể hình dung rằng người Mỹ cũng có thể đương đầu được với thách thức kinh tế mới đây nhất. Cũng hợp lý nếu nghĩ rằng giống như trong quá khứ, những quốc gia khác sẽ gặp phải những khó khăn của chính họ. Trong số những quốc gia hiện đang tận hưởng các phép lạ kinh tế, không có nước nào không có vấn đề. Brazil, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, và Nga đều có những lịch sử đầy gian truân cho thấy con đường trước mắt sẽ không phải là đường thăng hoa đơn giản và suôn sẻ. Có một câu hỏi thực sự: liệu mô hình chuyên quyền của Trung Quốc, vốn có thể rất hữu hiệu trong việc đưa ra một số quyết định chiến lược về nền kinh tế trong ngắn hạn, về dài hạn có thể đủ linh hoạt để thích ứng với một môi trường kinh tế, chính trị, và chiến lược quốc tế đang biến đổi hay không?
Tóm lại: không phải chỉ nhờ có may mắn mà trong quá khứ Mỹ đã vượt qua những cuộc khủng hoảng và trỗi dậy mạnh mẽ hơn và vững vàng hơn những nước khác trong khi nhiều đối thủ của Mỹ đã suy sụp. Và có thể chỉ bằng khấn nguyện thôi thì chưa đủ để tin rằng Mỹ lại có thể làm được như vậy.
NHƯNG một nguy cơ. Đó là trong lúc này, trong khi đất nước tiếp tục chật vật, người Mỹ có thể tự nhủ rằng suy tàn quả thực là điều tất yếu, hoặc tin rằng Mỹ có thể tạm rút lui khỏi những trách nhiệm toàn cầu trong khi xử lý những vấn đề nội địa. Đối với nhiều người Mỹ, chấp nhận suy tàn có thể là một lối thoát đáng hoan nghênh để trốn khỏi những gánh nặng đạo đức và vật chất đã đè lên vai họ kể từ Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Nhiều người trong tiềm thức có thể mong ước trở lại với tình hình hồi năm 1900, khi Mỹ giàu có, hùng mạnh, nhưng không phải chịu trách nhiệm cho trật tự thế giới.
Giả định đằng sau một hướng đi như vậy là trật tự thế giới hiện tại dù sao sẽ vẫn tồn tại mà không cần sức mạnh Mỹ, hay ít ra là cần ít sức mạnh Mỹ hơn; hoặc những nước khác có thể điền khuyết vào những việc chưa có ai đảm nhận; hoặc đơn giản là những lợi ích của trật tự thế giới luôn hiện diện và chẳng cần hành động đặc biệt của bất cứ ai. Đáng tiếc là trật tự thế giới hiện tại – với những quyền tự do phổ biến rộng rãi, tình hình nhìn chung thịnh vượng, và không có xung đột giữa các đại cường quốc – vừa mỏng manh vừa độc nhất vô nhị. Gìn giữ trật tự đó xưa nay là một cuộc đấu tranh trong mỗi thập niên, và sẽ vẫn là một cuộc đấu tranh trong những thập niên sắp đến. Việc gìn giữ trật tự thế giới hiện tại đòi hỏi vai trò lãnh đạo thường xuyên của Mỹ và cam kết thường xuyên của Mỹ.
Suy cho cùng, quyết định nằm trong tay người Mỹ, Sự suy tàn, như Charles Krauthammer nhận xét, là một lựa chọn. Suy tàn không phải là một định mệnh không thể tránh khỏi – ít nhất là chưa phải vậy. Các đế chế và đại cường quốc hưng thịnh rồi suy vong, và câu hỏi duy nhất là khi nào. Nhưng câu hỏi “khi nào” quả thực rất quan trọng. Liệu Mỹ sẽ bắt đầu suy tàn trong hai thập niên sắp đến hay không sẽ có ý nghĩa rất hệ trọng trong hai thế kỷ đến, với cả người Mỹ lẫn bản chất của thế giới họ đang sống.

[11] Patrick Henry (1736-1799): chính khách lãnh đạo phong trào độc lập ở Virginia trong những năm 1770, là một trong những vị Quốc phụ (Founding Fathers) của Mỹ, và sau này là thống đốc đầu tiên và thứ sáu của tiểu bang Virginia. (N.D.)
[12] “Những cuộc bầu cử tới hạn” (critical elections) là thuật ngữ chỉ tiến trình chuyển biến chính trị ở Mỹ thông qua nhiều cuộc bầu cử (thường trong thời gian dài) trong đó những nhóm cử tri chuyển lá phiếu ủng hộ từ đảng này sang đảng khác, và những chuyển biến đó không đảo ngược được. Thuật ngữ này được nhà chính trị học người Mỹ Vladimir Orlando Key Jr. (1908-1963) đặt vào năm 1955 để mô tả những kỳ bầu cử tổng thống Mỹ từ 1928 đến 1932, trong đó nhiều nhóm xã hội (đặc biệt là sắc dân thiểu số ở thành thị và người da đen) chuyển từ ủng hộ Đảng Cộng hòa sang ủng hộ Đảng Dân chủ. (N.D.)

Bản tiếng Anh: Not Fade Away, The New Republic, 2/2/2012. Toàn văn lấy từ trang của GS Trần Hữu Dũng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét