Thứ Hai, 16 tháng 4, 2012

TRUNG QUỐC ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH BIỂN ĐÔNG

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM

TRUNG QUỐC ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH BIN ĐÔNG


Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ bảy ngày 14/4/2012
TTXVN (Niu Yoóc 10/4)
Tạp chí “Các vấn đề đi ngoại” của Hội đồng chính sách đối ngoại Mỹ gần đây đăng bài viết của ông Taylor Fravel, Phó Giáo sư Khoa học Chính trị thành viên Chương trình nghiên cứu an ninh của Viện Công nghệ Massachusetts, trong đó chỉ rõ, mấy năm gần đây Trung Quốc ngày càng sẵn sàng quyết đoán và bảo vệ các tuyên bố lãnh thổ trên Biển Đông.
Bắc Kinh công khai thách thức tính hợp pháp của các khoản đầu tư từ các công ty dầu lửa nước ngoài vào ngành năng lượng trên biển của Việt Nam và nhấn mạnh chủ quyền của Trung Quốc đối với các hòn đảo và các vùng nước cách xa đất liền Trung Quốc, bắt giữ hàng trăm ngư dân Việt Nam gần các hòn đảo bị Trung Quốc chiếm giữ, đồng thời quấy rối các tàu thuyền của Việt Nam và Philippin đang thăm dò địa chấn ở các vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Nhiều nước Đông Á coi thái độ của Trung Quốc như một dấu hiệu mới khẳng định Bắc Kinh sẵn sàng theo đuổi sức mạnh đối đầu và đơn phương hơn trong khu vực. Nhưng gần đây Trung Quốc theo đuổi cách tiếp cận mới ôn hòa hơn. Mục tiêu chủ yếu của chính sách thân thiện hơn là khôi phục hình ảnh của Trung Quốc ở Đông Á và ngăn chặn Mỹ thúc đẩy vai trò trong khu vực.

Dấu hiệu đầu tiên thể hiện cách tiếp cận mới của Trung Quốc diễn ra tháng 6/2011, khi Hà Nội phái một quan chức ngoại giao đặc biệt đến Bắc Kinh để thảo luận những bất đồng trên biển giữa hai nước. Chuyến thăm mở đường cho một thỏa thuận tháng 7/2011 giữa Trung Quốc và 10 nước thành viên ASEAN về việc thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông năm 2002. Trong tuyên bố, các bên nhâst trí “kiềm chế những hành động gây phức tạp hoặc leo thang các bất đồng”. Từ mùa Hè năm ngoái, các quan chức cấp cao Trung Quốc, đặc biệt các nhà lãnh đạo như Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo, thường xuyên nhấn mạnh nguyên tắc chỉ đạo của Đặng Tiểu Bình khi giải quyết các xung đột trên biển của Trung Quốc là chú trọng hợp tác kinh tế đồng thời trì hoãn giải pháp cuối cùng của các tuyên bố quan trọng. Các phương tiện truyền thông của Trung Quốc cũng bắt đầu nhấn mạnh vấn đề hợp tác.
Từ tháng 8/2011 Ban Quốc tế của tờ Nhân dân Nhật báo, dưới bút danh Chung Thanh, đã công bố nhiều bài viết khẳng định Trung Quốc sẽ ít đối đầu trên Biển Đông. Tháng 1/2012, Chung Thanh thảo luận tầm quan trọng của hợp tác để đạt được các kết quả cụ thể. Do tờ Nhân dân Nhật báo là tờ báo chính thức của Ban Chấp hành TW Đảng Cộng sản Trung Quốc, những bài báo như vậy có thể được coi là chủ trương của Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm giải thích chính sách mới đối với độc giả trong và ngoài nước.
Thực tế, Trung Quốc có nhiều tiến bộ trong việc gạt bỏ các bất đồng. Bên cạnh sự đồng thuận với ASEAN tháng 7/2011, tháng 10/2011 Trung Quốc đạt được một thỏa thuận với Việt Nam về “các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển”. Thỏa thuận nhấn mạnh tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển. Từ đó, hai nước thực hiện thoả thuận bằng cách thiết lập một nhóm công tác để phân chia ranh giới và phát triển khu vực phía Nam của Vịnh Bắc Bộ gần các hòn đảo tranh chấp. Trung Quốc cũng bất đầu hoặc đã tham dự một số hội nghị nhằm giải quyết các mối lo ngại của khu vực trước sự quyêt đoán của Bắc Kinh. Ngay trước khi Hội nghị cấp cao Đông Á tháng 11/2011, Bắc Kinh loan báo sẽ thiết lập quỹ 3 tỷ NDT (476 triệu USD) về hợp tác trên biển giữa Trung Quốc-ASEAN trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường, tự do hàng hải, tìm kiếm vả cứu hộ, chống tội phạm xuyên quốc gia trên biển. Sau đó, Trung Quốc tổ chức một số cuộc hội thảo về hải dương học và tự do hàng hải ở Biển Đông và tháng 1/2012, Bắc Kinh chủ trì một hội nghị của các quan chức cấp cao ASEAN nhằm thảo luận việc thực hiện Tuyên bố ứng xử năm 2002. Phạm vi của các hoạt động hợp tác cho thấy cách tiếp cận mới của Trung Quốc vẫn chỉ là chiến thuật tạm thời. Ngoài các nỗ lực mới để thể hiện Trung Quốc sẵn sàng theo đuổi cách tiếp cận hợp tác hơn, Bắc Kinh cũng ngừng thái độ quyết đoán hơn so với giai đoạn từ năm 2009-2011. Ví dụ, từ năm 2010, các tàu tuần tiễu của Cục Quản lý Đánh bắt cá Trung Quốc ít khi bắt giữ các ngư dân Việt Nam hơn (Từ năm 2005-2010, Trung Quốc bắt giữ 63 tàu thuyền đánh cá và ngư dân Việt Nam cho đến khi họ nộp đủ tiền phạt mới trả tự do). Các tàu thuyền của Việt Nam và Philippin có thể tiến hành thăm dò dầu khí mà không bị Trung Quốc ngăn cản. Nhìn chung, gần đây Trung Quốc không gây khó khăn cho các hoạt động thăm dò ở các vùng biển mà Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền. Rõ ràng, Trung Quốc kiềm chế can thiệp vào các hoạt động như vậy để chứng tỏ họ đang theo đuổi lựa chọn trở thành một nước láng giềng thân thiện hơn.
Nhưng tại sao Trung Quốc theo đuổi cách tiếp cận ôn hòa hơn như vậy? Hơn bao giờ hết, Bắc Kinh nhận ra rằng cách tiếp cận quyết đoán đang ảnh hướng không tốt đến các lợi ích chính sách đối ngoại lớn hơn của Trung Quốc. Một nguyên tắc trong chiến lược quan trọng hiện nay của Bắc Kinh là duy trì quan hệ thân thiện với các nước lớn, các nước láng giềng chung biên giới và thế giới đang phát triển. Thông qua những hành động trên Biển Đông, Trung Quốc đã phá huỷ nguyên tắc này và làm mất đi hình ảnh thân thiện ở Đông Nam Á mà Trung Quốc xây dựng được trong thập kỷ trước. Bắc Kinh đã tạo nên mối quan tâm chung giữa các nước khu vực trong việc chống Trung Quốc và khiến các nước này quay sang tìm kiếm sự ủng hộ của Oasinhtơn. Bằng cách làm đó, hành động của Trung Quốc đã tạo cơ hội cho Mỹ can dự lớn hơn trong khu vực và đưa các bất đồng Biển Đông vào mối quan hệ Mỹ-Trung. Mùa Thu năm ngoái, Trung Quốc nhận thấy họ đã đi quá xa. Hiện nay Bắc Kinh muốn tăng hình ảnh ôn hòa hơn trong khu vực để ngăn chặn khả năng hình thành một nhóm nước châu Á liên kết với nhau chống Trung Quốc, ngăn chặn ý đồ của các nước Đông Nam Á thúc đẩy hơn nữa quan hệ với Mỹ, đồng thời làm suy yếu vai trò lớn hơn của Mỹ trong các bất đồng và khu vực. Đến nay, cách tiếp cận mới của Bắc Kinh dường như đang hiệu quả, đặc biệt với Việt Nam. Trung Quốc và Việt Nam đang tăng cường quan hệ thông qua các cuộc trao đổi cấp cao thường xuyên. Các chuyến thăm của Tổng Bí thư ĐCS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đến Bắc Kinh tháng 10/2011 và của Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến Hà Nội tháng 12/2011 nhằm củng cố tinh thần và bảo vệ mối quan hệ song phương rộng lớn hơn không bị ảnh hưởng bởi các bất đồng lãnh thổ trên Biển Đông. Tháng 10/2011, hai nước cũng nhất trí kế hoạch 5 năm nhằm thúc đẩy thương mại song phương lên 60 tỷ USD vào năm 2015. Và tháng 2/2012, bộ trưởng ngoại giao hai nước nhất trí thành lập các nhóm công tác về các vấn đề như tìm kiếm và cứu hộ trên biển, thiết lập đường dây nóng giữa hai bộ ngoại giao, bắt đầu đàm phán việc phân chia ranh giới Vịnh Bắc Bộ.
Mặc dù bầu không khí hiện nay trên Biển Đông có vẻ lắng xuống, nhưng Biển Đông có thể tiếp tục xảy ra những bất đồng trong thời gian tới. Bởi vì, thời tiết xấu đã hạn chế hoạt động của các tàu cá và các công ty dầu khí trên Biển Đông. Nhưng khi các hoạt động đánh bắt cá và thăm dò dầu khí trở lại trong mùa Xuân, các sự kiện có thể tăng lên. Nhưng cách tiếp cận mới của Trung Quốc khiến nhiều người hy vọng Trung Quốc sẽ tham gia các cuộc đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử bắt buộc để thay thế Tuyên bố 2002 và tiếp tục hạn chế những hành động đơn phương. Nhưng do cách tiếp cận mới phản ánh lô gíc chiến lược, nó có thể kéo dài và cho thấy sự thay đổi chính sách đối ngoại quan trọng hơn của Bắc Kinh. Khi Đại hội Đảng lần thứ 18 đang đến gần, các nhà lãnh đạo Trung Quốc muốn một môi trường bên ngoài ổn định vì sợ rằng một cuộc khủng hoảng quốc tế sẽ làm đảo lộn các kế hoạch thay thế lãnh đạo cuối năm nay. Và mặc dù sau khi các nhà lãnh đạo Đảng mới được bầu chọn, họ cũng sẽ tìm cách tránh các cuộc khủng hoảng quốc tế đồng thời củng cố quyền lực và chú trọng các thách thức trong nước. Cách tiếp cận ôn hòa hơn của Trung Quốc trên Biển Đông cũng cho thấy một bằng chứng nữa: Trung Quốc sẽ tìm cách tránh kiểu chính sách đối đầu như họ theo đuổi với Mỹ năm 2010. Như trong chuyến thăm Oasinhtơn hồi tháng Hai, ông Tập Cận Bình khẳng định Mỹ không cần lo sợ phản ứng của Bắc Kinh đối với chiến lược trở lại châu Á. Thay vào đó, Trung Quốc sẽ dựa vào các công cụ ngoại giao và kinh tế thông thường chứ không phản ứng quân sự trực tiếp đối với chiến lược này. Bắc Kinh cũng không thể quyết đoán hơn nếu điều đó khiến các nước Đông Nam Á tăng cường quan hệ với Mỹ. Chưa biết cách tiếp cận mới của Bắc Kinh có thể kéo dài hay không, nhưng ít nhất nó cũng thể hiện Trung Quốc có thể điều chỉnh chính sách đối ngoại của họ. Đây là dấu hiệu tốt cho sự ổn định trong khu vực.
***

Bài dưới đây cho rằng Trung Quốc có cơ sở theo UNCLOS và luật pháp quốc tế để khẳng định quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với việc thăm dò và khai thác các nguồn tài nguyên dầu khí trong vùng biển xung quanh một số đảo của quần đảo Trường Sa", nhưng không đưa ra các chứng minh cần thiết.
 
TTXVN (Giacácta 9/4)
Nếu ý kiến về những tranh chấp chủ quyền biển đảo, tranh chấp v các hoạt động khai thác thăm dò dầu khí trên Biển Đông (khu vực qun đảo Trường Sa) và phụ cận, tác giả Robert Beckman – Giám đc Trung tâm Luật Quốc tế và là Phó Giáo sư tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Xinhgapo vừa có bài viết, được đăng trên t Bưu điện Giacácta” , nhan đ “Tranh chấp trên Biển Đông: Liệu Bắc Kinh có một tuyên b hợp pháp?
Giữa lúc các cuộc tranh cãi pháp lý và tranh chấp trên thực tế giữa các bên liên quan trên Biển Đông tiếp tục có những diễn biến phức tạp, tác giả Robert Beckman đã nêu một số phân tích, nhận định đáng xem xét về một số qui định trong Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), tình hình thực tế, và viện dẫn một số nội dung để cho rằng Trung Quốc có lý khi khẳng định quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với việc thăm dò và khai thác các nguồn tài nguyên dầu khí trong vùng biển xung quanh một số đảo của quần đảo Trường Sa. Theo đó, việc Bắc Kinh phản đối kế hoạch thăm dò dầu khí tại một số lô ngoài khơi đảo Palawan (thuộc chủ quyền Philippin) mà Manila mới loan báo có thể được coi là một hành động hợp pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc.
Trong bài viết này, tác giả cũng nêu ý kiến liên quan đến “đường lưỡi bò” của Trung Quốc, lập trường còn nhiều khác biệt của Trung Quốc và Philippin về việc xác định tính chất cấu trúc đảo, đá trên biển, phạm vi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của các cấu trúc đó, cũng như cổ vũ cho chủ trương “gác tranh chấp cùng khai thác”. 

Dưới đây là nội dung bài viết:
Sau một vài tháng khá yên lắng vừa qua, tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippin trên Biển Đông đã lại bùng phát. Va chạm giữa Philippin và Trung Quốc được kích hoạt bởi một thông báo của Manila rằng nước này sẽ thiết lập các lô mới ngoài khơi đảo Palawan để khai thác các nguồn tài nguyên dầu khí. Trung Quốc đã phản đối với lập luận một số lô nói trên nằm trong những vùng biển mà Bắc Kinh tuyên bố có quyền chủ quyền và quyền tài phán.
Câu hỏi quan trọng là liệu Trung Quốc có một tuyên bố hợp pháp theo quy định của luật pháp quốc tế về quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với những khu vực bao trùm những lô thăm dò đó hay không. Và nếu như vậy, thì có nghĩa là các lô thuộc diện tranh cãi nằm trong một “khu vực tranh chấp”, và, sự phản đối của Trung Quốc trước hành động đơn phương của Philippin là hợp lệ.
Đường đứt quãng chín đoạn “đầy tai tiếng” thể hiện trên bản đồ của Trung Quốc về Biển Đông gợi ý các nhà phê bình miêu tả tuyên bố của Trung Quốc như là một tuyên bố về “chủ quyền lãnh hải”; họ cho rằng hoặc là Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các vùng nước trong đường chín đoạn hoặc là đối với 80% diện tích Biển Đông.
Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nhắc lại rằng Trung Quốc không tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ Biển Đông. Mặc dù Trung Quốc đã không hoàn toàn làm rõ đường đứt quãng chín đoạn, song trong một công hàm ngoại giao chính thức gửi Liên hợp quốc, Bắc Kinh đã tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa và các vùng biển liền kề.
Có một nhất trí chung là khi nói đến “các vùng biển liền kề”, người ta hiểu đó là những vùng biển nằm trong phạm vi 12 hải lý tính từ bất cứ lãnh thổ đất liền nào, kể cả các đảo. Hơn nữa, Trung Quốc cũng đã tuyên bố trong công hàm ngoại giao chính thức rằng quần đảo Trường Sa được hưởng một EEZ và thềm lục địa theo quy định của pháp luật Trung Quốc và theo UNCLOS năm 1982. Một quốc gia không có chủ quyền trong EEZ hoặc trên thềm lục địa, nhưng lại có “quyền chủ quyền” và quyền tài phán với mực đích thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên dưới đáy biển, trong lòng đất thuộc EEZ, cũng như trên vùng thềm lục địa của mình.
Philippin tuyên bố có quyền chủ quyền để thăm dò và khai thác các nguồn tài nguyên dầu khí tại các lô thuộc Bãi cỏ Rong, vì Manila đã tuyên bố phạm vi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ đường cơ sở kết nối các điểm ngoài cùng của hầu hết các hòn đảo ngoài cùng của quần đảo Philippin.
Philippin không tuyên bố EEZ hay thềm lục địa tính liền từ các đảo tranh chấp ở quần đáo Trường Sa. Thay vào đó, quan điểm của Philippin có thể là thậm chí một số cấu trúc gần Bãi cỏ Rong là những hòn đảo bởi vì chúng được hình thành tự nhiên như là những vùng đất đá nổi lên khỏi mặt nước khi thủy triều xuống, các đảo đó chỉ nên được hưởng phạm vi lãnh hải 12 hải lý, mà không phải là một vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa.
Lập trường của Philippin dựa trên sự phân biệt được qui định trong UNCLOS 1982 giữa “đảo” và “bãi đá”. Mặc dù trên nguyên tắc đảo được hưởng một vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, còn “bãi đá”, nơi không thể duy trì hoạt động cư trú hay kinh tế của con người, chỉ được hưởng một vùng lãnh hải 12 hải lý.
Hiệu quả thực tế từ các quan điểm của Philippin là nhằm giảm các “khu vực tranh chấp” tại quần đảo Trường Sa và trong phạm vi 12 hải lý tiếp giáp. Do các lô tại khu vực Bãi cỏ Rong nằm cách xa các đảo tranh chấp hơn 12 hải lý, nên chúng không nằm trong các khu vực có tranh chấp, mà hoàn toàn thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Philippin tính từ chính quần đảo này.
Trung Quốc duy trì lập trường cho rằng một số cấu trúc thuộc quần đảo Trường Sa nằm gần với Bãi cỏ Rong, chẳng hạn như Nanshan Island (đảo Vĩnh Viễn – tên Việt Nam), chính là những “hòn đảo” theo UNCLOS, vì nó được hình thành tự nhiên như là các khu vực đất đá nối lên trên mặt nước khi thủy triều xuống. Hơn nữa, Trung Quốc có thế duy trì lập luận một số các đảo này được hưởng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa vì chúng có khả năng duy trì sự cư trú hay đời sống kinh tế của con người.
Neu Trung Quốc tuyên bố rằng một số trong những hòn đảo nằm gần Bãi Cỏ Rong được hưởng một vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, thì Bắc Kinh có thế duy trì lập luận nước này có quyền chủ quyền và quyền tài phán theo UNCLOS để thăm dò và khai thác các nguồn tài nguyên dầu khí ở các khu vực đó. Bởi vậy, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ các đảo tranh chấp sẽ chồng chéo với các vùng đặc quyền kinh tế của Philippin tính từ quần đảo Philippin.
Nếu các lô đang tranh cãi gần Bãi cỏ Rong nằm trong khu vực tranh chấp, điều này sẽ có ý nghĩa đối với các hoạt động có thể được tiến hành hợp pháp bởi Philippin và Trung Quốc. Các phán quyết của trọng tài quốc tế gần đây cho thấy các hoạt động đơn phương thăm dò và khai thác trong khu vực tranh chấp là “trái với UNCLOS”, đặc biệt nếu chúng liên quan đến hoạt động khoan đáy biển.
Giờ đây, có thể nói rằng Trung Quốc có cơ sở theo UNCLOS và luật pháp quốc tế để khẳng định quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với việc thăm dò và khai thác các nguồn tài nguyên dầu khí trong vùng biển xung quanh một số đảo của quần đảo Trường Sa. Theo đó, việc Trung Quốc phản đối Philippin có thể được coi là một hành động hợp pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc.
Cách tốt nhất trước mắt có thể là hai nước gác sang một bên các tranh chấp về chủ quyền và tranh chấp về đảo hay bãi đá, tiến hành đàm phán để xác định các khu vực tranh chấp có thể là nơi triển khai thỏa thuận hợp tác phát triển. Cùng lúc, hai nước cần kiềm chế và không có bất kỳ hoạt động đơn phương nào làm trầm trọng thêm các tranh chấp vốn đã phức tạp./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét