Chủ Nhật, 8 tháng 4, 2012

Tái lập cơ chế thị trường trong việc cơ cấu lại nền kinh tế: đề xuất các chính sách trung và dài hạn

Lưu lại lúc rảnh đọc. Không biết nguoilotgach.blogspot.com moi bài này ở đâu ra để đưa lên ? Có thể nội dung bài viết hay, song tiêu đề thì lộn xộn quá.
Riêng các dự báo nêu trong mục C (khung chính sách 2012-2015) và phụ lục thì quá đẹp đến mức không thể tin được. Đặc biệt các dự báo cho thấy trong vòng 4 năm tới, mọi chỉ tiêu đều đi lên quá nhanh và liên tục. Điều này chắc chắn sẽ gây ra cuộc khủng hoảng mới vì nền kinh tế sẽ nhanh chóng trở lên quá nóng và phát sinh các mất cân bằng vĩ mô mới. Lý thuyết dự báo và kinh nghiệm thực tiễn đều khẳng định không thể định hướng phát triển theo kiểu tăng trưởng ào ào để rồi lại rơi vào khủng hoảng được mà cần phát triển theo đúng tiềm năng. Do đó dự báo 1 cách khoa học nhất sẽ là để cho các chỉ tiêu hội tụ dần về điểm cân bằng hệ thống của chúng và sau đó thì duy trì ổn định. Đây cũng là nguyên tắc cơ bản để xây dựng khuôn khổ chính sách trung hạn (5 năm) của IMF. Đáng ngạc nhiên là TS Chí đã làm việc nhiều năm ở IMF và đã từng là Trưởng đại diện IMF ở nước ngoài mà lại không nắm được nguyên tắc cơ bản này.
Xem thêm 1 bài khác cũng của TS Chí trong đó có nêu lại các dự báo này: http://nguoilotgach.blogspot.com/2012/04/hai-nen-kinh-te-song-hanh-o-viet-nam.html

Tái lập cơ chế thị trường trong việc cơ cấu lại nền kinh tế: đề xuất các chính sách trung và dài hạn


TS Phạm Đỗ Chí[1]


1. Cần bớt đi các can thiệp vào thị trường

Nhiều chuyên gia ở Việt Nam thường trực theo dõi các nền kinh tế tư bản (hay thị trường) và kinh tế xã hội chủ nghĩa, đặc biệt các biến chuyển lý thuyết, với nhiệm vụ chính là để giữ gìn những đặc trưng cho nền kinh tế Việt Nam hiện nay được mệnh danh “kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa ”.

Nhưng trong khuôn khổ bài này, chúng tôi lại đặt vấn đề một cách khác: từ vài năm qua, do những mất cân bằng kinh tế vĩ mô nghiêm trọng, chúng ta tìm cách can thiệp quá nhiều vào sự vận hành của nền kinh tế bằng những biện pháp hành chính.

Do đó, đặc biệt từ 2007 đến nay, một số nguyên tắc và vận hành căn bản của kinh tế thị trường bị đảo lộn bởi ảnh hưởng và tác động của các nhóm lợi ích quan trọng (như đã được chính thức xác nhận trong các tuyên bố của giới hữu trách cao cấp nhất) và chi phối quá lớn đến nền kinh tế quốc gia, khiến nhiều qui luật thị trường bị thay thế bởi các biện pháp hành chính. Cùng đó là sự bùng mạnh thêm của các Tổng công ty nhà nước với nhiều đặc quyền ưu thế trong sản xuất và hưởng phân bổ tín dụng nhưng lại gây những thất thoát tài chính nghiêm trọng cho quốc gia.

Nhưng quan trọng nhất, bài này không muốn chỉ nói đến vấn đề công bằng hay đạo đức xã hội khi các nhóm lợi ích hay hưởng đặc lợi đã hưởng lợi quá nhiều trong 4-5 năm qua, mà là trên phương diện hiệu quả chính sách kinh tế-là mục tiêu chính của bài này. Sự thiên vị hay ưu đãi các nhóm lợi ích (interest groups) và nhóm tìm đặc lợi (rent-seekers) đã dẫn dắt đến tình hình kinh tế tài chính khủng hoảng hiện tại với tăng trưởng kinh tế sụt giảm nghiêm trọng (chỉ còn 5%), mặc dù công bằng mà nói thì cũng phải thừa nhận có phần là do ảnh hưởng một phần của hai năm suy thoái kinh tế thế giới 2008-09), so với một thập kỷ trước đó 1996-2005 (GDP tăng  trung bình 7%-8%).

Nhưng đáng lo nhất là sự mất cân bằng vĩ mô (macroeconomic disequilibrium) và các mất mát thua lỗ tài chính khổng lồ của khu vực công trong vài năm qua (từ Vinashin, EVN, nay đến PVN…, bao giờ danh sách này mới hết?). Hai nguyên nhân chính mới đây đã được các chuyên gia phân tích đầy đủ và sâu sắc:[2]

(i) Nhận xét gần đây nhất là của TS Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), dựa trên khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư quá lớn, cho rằng “tiết kiệm của Việt Nam so với thế giới không hề thấp (khoảng 35%) tuy nhiên tổng đầu tư/GDP của Việt Nam giai đoạn từ 2006 – 2011 lại quá lớn, trung bình đều trên 40%; riêng năm 2011, do Chính phủ thực hiện chính sách cắt giảm đầu tư công để kiềm chế lạm phát nên con số này chỉ dừng ở mức 34,6%”. Và “sở dĩ đầu tư của Việt Nam luôn ở mức cao là do mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa trên mở rộng đầu tư nhưng chất lượng đầu tư ngày càng giảm, năng suất nền kinh tế không được cải thiện.
(ii) Thêm vào đó, Chính phủ lại tập trung vào đầu tư công và cho các Tổng công ty nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Vì hiệu quả đầu tư của khư vực này thấp theo nhiều nghiên cứu khác nhau, kết quả là làm suy giảm toàn bộ năng suất nền kinh tế, điển hình là làm hệ số ICOR tăng nhanh từ 4-5 lên 7-8 trong những năm gần đây.  TS Vũ Thành Tự Anh cũng đã dẫn chứng rằng: “Xét về mức độ phân tán/tập trung của các tập đoàn nhà nước thì Việt Nam cũng xếp vào hàng “vô địch”. Nếu ở Việt Nam, điểm số này là 6,4 thì Hàn Quốc chỉ là 1,7; Indonesia là 2,1; Philippines là 3,1; thậm chí Trung Quốc cũng chỉ mức 2,3.” Cũng theo ông, tỉ lệ doanh số của 10 đại tập đoàn kinh tế Việt Nam trên GDP thuộc loại lớn nhất thế giới. Cụ thể, tỷ lệ này của Việt Nam lên tới 37,3%, chỉ đứng sau Hàn Quốc thời gian trước khủng hoảng, còn lại đều vượt xa các nước khác.Thí dụ để so sánh: Trung Quốc (9,4%), Đài Loan (19%), Indonesia (25%), Brazil (8%), Argentina (11%) và Mexico (10%).[3]

Nhưng chúng tôi muốn nhấn mạnh nhiều hơn các vấn đề chính sách tương lai trong các phần sau, không phải đơn thuần là các chính sách có tính “kỹ trị” như tài khóa ngân sách hay giá cả…theo các thảo luận thông thường, mà là các vấn đề căn bản hơn về thể chế, về tái lập nguyên tắc thị trường, về khu vực kinh tế chủ đạo dẫn dắt mới, nói chung về sự thay đổi triết lý và tư duy kinh tế căn bản để điều hành guồng máy kinh tế mới trong tinh thần một Đổi Mới đợt II (“Economic Renewal” Mark II).

2. Vài vấn đề chính sách lớn và khẩn cấp trước mặt

a.Vấn đề mất cân bằng vĩ mô căn bản nêu trên giữa chi tiêu và dự trữ đã gây nên lạm phát quá cao trong suốt 5 năm qua (2007-2011) và là một hình thức thuế gián tiếp phải trả bởi đại đa số  dân chúng.

b. Ưu tiên chính sách số một vẫn phải là giảm lạm phát, không phải bằng cách đẩy lãi suất lên cao nữa, mà bằng cách cắt giảm các món chi tiêu công khổng lồ vẫn tiếp tục cho các nhóm đặc quyền dưới tên những DNNN ưu đãi, các dự án “khủng” thiếu hiệu quả kinh tế nhưng vẫn được theo đuổi, các chương trình phát triển vùng/cảng/khu chế xuất thiếu hiệu quả kinh tế, tiếp tục được tài trợ hay hưởng tín dụng ưu đãi .

c. Tình trạng đình đốn sản xuất kéo dài từ quý 3.2011 đang kéo theo sự phá sản của nhiều doanh nghiệp, nhất là DN vừa và nhỏ, và gây khốn đốn cho nhiều doanh gia có tim óc thật sự trong khu vực sản xuất vì thiếu tiếp cận tín dụng. Dần dà có thể khu vực tư doanh sẽ được thay thế bởi các DNNN vẫn có ưu tiên tín dụng và chúng ta sẽ trở lại thời xưa khi tỷ trọng khu vực nhà nước lại có dịp được phình to hơn với cơ chế "xin-cho" càng tràn lan thay vì phải thu hẹp dưới Đổi Mới I, bản thân tự nó đang bị lung lay tận gốc rễ vì các cơ chế thị trường tự do như tín dụng ngân hàng, lãi suất hay tỷ giá tự do đang bị thay thế bởi các thị trường chợ đen hay biện pháp hành chính.

d. Đặc biệt là các chính sách của NHNN hiện nay nhằm mục đích “chữa cháy ngắn hạn” bằng những biện pháp hành chính đã kéo dài khá lâu, được lầm tưởng là đang có tác động tốt cho bệnh nhân là toàn nền kinh tế hay dân cư được “ngấm thuốc” sẽ khỏi bệnh, chẳng hạn tỷ giá tạm ổn định, lãi suất đang có chiều xuống nhờ “trần lãi suất”, phân bổ tín dụng giữa các ngân hàng do NHNN ấn định để cứu hệ thống ngân hàng hay giúp các “ngân hàng nhỏ”…Thật sự nếu phân tích kỹ thì các dấu hiệu trên chỉ mang tính cách tạm thời thiếu bền vững.

(i) Tỷ giá tạm yên từ dịp Tết không phải do “ngấm thuốc” tốt mà thật sự là phản ánh tình trạng đình đốn sản xuất đang rất nguy kịch kéo dài từ gần 9 tháng nay, khi các dữ kiện thống kê cho thấy chỉ số sản xuất công nghiệp tăng trưởng chậm dần, nhập khẩu sụt giảm khiến mức nhập siêu trong 3 tháng đầu năm nay chỉ là 250 triệu USD thay vì bình quân khoảng 2,5-3 tỷ USD như vài năm gần đây. Ngoài ra do thị trường vàng thế giới bấp bênh khiến nhu cầu tích trữ vàng trong dân cư giảm hẳn, và giá vàng nội địa có lúc ngắn ngủi chỉ còn hơn giá vàng thế giới khoảng 200.000 đồng/lượng thay vì 1-2 triệu đồng như trước kia. Nhưng khi nhập khẩu trở lại mức cũ nếu sản xuất hay nền kinh tế trở lại bình thường như trước quý 2 năm ngoái, hay nếu “vàng nóng” trở lại làm giá vàng trong nước lại lên cao hơn giá ngoại 2-2,5 triệu đồng/lượng như trong tuần giữa tháng 3/2012, tỷ giá USD/VNĐ sẽ lại bắt đầu nhích lên cao như chúng ta đang và có lẽ sắp thấy trong vài tháng kế tiếp.

(ii) Các lãi suất chính sách và lãi suất huy động trần được giảm (từ 14% xuống 13% từ giữa tháng 3/12) đang đi đúng hướng theo lý luận trên đây. Nhưng việc tiếp tục duy trì lãi suất trần này cũng như việc chia các ngân hàng thành 4 nhóm để phân bổ 4 mức tăng tín dụng (quotas) khác nhau đặt ra nhiều dấu hỏi cho các quan sát viên kinh tế cả trong và ngoài nước về hiệu quả thật sự của các cải cách của NHNN. Duy trì lãi suất cho vay trần là tiếp tục “giết” các ngân hàng nhỏ (mặc dù nhiều người vẫn râm ran chuyện các tổ chức hay cá nhân “lớn” vẫn tìm được nơi an toàn để nhận lãi huy động cao ở mức 17%-18% với các khoản tiền lớn trên 1 tỷ đồng chẳng hạn), vì họ khó huy động vốn nơi các trương mục nhỏ lẻ của đa số dân cư.

(iii) Các ngân hàng lớn chỉ phải trả 13% cho vốn huy động của đa số dân cư tìm đến ngân hàng lớn cho yên tâm, nhưng lại được thả lỏng để cho vay trong thị trường 1 ở mức thỏa thuận riêng đã từng lên trên 20% là mức cao khủng cho NIM (net interest margin—mức lợi biên ngân hàng) theo tiêu chuẩn quốc tế. Nhờ đó, vài ngân hàng lớn lại đang hưởng lợi ích lớn nữa trên thị trường 2 với các NH khác qua thị trường liên ngân hàng, khiến lãi suất lại đang dâng cao trong thị trường này từ giữa tháng 3/12. Cũng các NH lớn này trong nhóm G7 cách đây không lâu đã được độc quyền bán vàng SJC theo giá cao ngất trong nước và mua vàng tài khoản hay vật chất ngoài nước với giá thấp hơn (1,5-2,5 triệu ĐVN/lượng), và thu các món lợi nhuận “khủng” được báo cáo, là giấc mơ của các NH nhỏ hay các doanh nghiệp khác.

(iv) Thêm một biện pháp hành chính nữa từ cuối tháng 2 là việc NHNN áp dụng 4 mức tăng trưởng tín dụng (17%, 15%, 8% và 0%) cho 4 nhóm NH do NHNN xếp hạng sau khi áp dụng lối “stress test” (thử thách rủi ro) thô sơ cho toàn hệ thống. Công bằng là phải chờ một thời gian nữa xem việc áp dụng biện pháp này ra sao, nhưng cũng đang râm ran trong giới ngân hàng là sắp phải lo sửa soạn chuyện “chạy” hay “bán” các quotas tín dụng.

e. Vấn đề lớn nữa là vai trò chủ yếu của chính sách tài khóa để giảm lạm phát. Nếu phải đẩy mặt bằng lãi suất xuống và và muốn giảm tổng cầu thì không còn cách nào khác là cắt chi tiêu ngân sách, nhất là đầu tư công. Có vấn đề nghiêm trọng nhất mà đa số giới hữu trách tài chính vẫn chưa nhận ra là có một vấn đề kỹ thuật thường được gọi là “vấn đề chỉ số” (index problem) trong việc sửa soạn các số chi-thu ngân sách phình to mỗi năm do bao gồm một tỷ lệ lạm phát cao và tỷ giá USD từ năm trước (thí dụ ngân sách năm 2012 dùng số năm 2011 với lạm phát 18% và tỷ giá trên 21.000), như vậy sẽ hàm ý cho năm nay 2012 mức thu-chi cũng sẽ “dung dưỡng” mức lạm phát 2 con số vì chúng ta đã nhân số thu chi 2011 thực hiện với một tỷ lệ gia tăng cố hữu cho năm nay 2012. (Xem Khung 1 giải thích kỹ hơn chi tiết kỹ thuật nhưng cần được giới hữu trách, nhất là hai Ủy ban Kinh tế và Ngân sách Tài chính của QH, để ý gấp rút vì bây giờ đã là đầu tháng 4).

f. Vấn đề sau nữa cho tái cấu trúc kinh tế và chính sách tài chính công là cần đưa mới vai trò chủ đạo của doanh nghiệp tư nhân thay vì các DNNN. Đây là một quyết định cả chính trị lẫn kinh tế can đảm nhất trong bối cảnh chính trị hiện tại của VN. Sẽ cần giảm cả tỷ lệ thu lẫn chi ngân sách so với GDP trong vài năm tới như kim chỉ nam dẫn đường cho chiến lược kinh tế mới này (xem Khung 2 về một đề xuất ngân sách trung hạn cho tới năm 2015). Một biện pháp gây sốc quan trọng cho chiến lược mới này là giảm thuế doanh nghiệp từ 25% xuống còn 20% trong bước đầu.

g. Sau cùng, cố gắng tạo lối ra cho các thị trường chứng khoán và bất động sản bằng sự cải thiện môi trường vĩ mô bền vững và tìm các nhà đầu tư mới có thể gây “sóng” và tái lập niềm tin lâu dài cho thị trường và người đầu tu. (xem Khung 3 trong Phụ Lục).

3. KẾT LUẬN: CÁC BIỆN PHÁP NGẮN HẠN CÙNG ĐỀ XUẤT ĐỊNH LƯỢNG CHO CHÍNH SÁCH VĨ MÔ TRUNG HẠN ĐẾN 2015

Sau các nhận định ngắn gọn và thẳng thắn về thực trạng kinh tế đất nước đầu năm 2012, với những thành quả Đổi Mới tốt đẹp không thể phủ nhận cho đến năm 2006, chúng tôi chỉ muốn đề nghị là nên thay đổi từ chiến lược căn bản về đường hướng và thể chế của nền kinh tế sang áp dụng ngay các biện pháp cấp thiết vĩ mô ngắn và trung hạn đến 2015 để tái lập các cân bằng vĩ mô đã mất trong 5 năm qua từ 2007.
Các đề xuất gồm 3 phần:

A.   Các thay đổi chiến lược cơ bản

(1) Nâng cao vai trò của khu vực doanh nhân tư nhân là đầu máy (locomotive) của một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa.

(2) Điều hành kết hợp biện pháp hành chính và kinh tế
Các công cụ hành chính có tác dụng ngắn hạn hơn là các công cụ điều tiết bền vững của cơ chế thị trường. Mặc dù đem lại tác động nhất định nhưng cái giá của những biện pháp đó là những rủi ro đạo đức ở các ngân hàng thương mại và cơ quan quản lý nhà nước. Và quan trọng nhất là tác động lên hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế  ngày càng suy  giảm.
Sự không tương thích giữa các biện pháp hành chính và các nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường sẽ tạo ra tình trạng giá cả và các tín hiệu thị trường khác bị bóp méo, không còn là cơ sở hay cho tín hiệu chính xác để các tác nhân kinh tế ra quyết định. Kinh nghiệm trong quá khứ cho thấy, bất kỳ khi nào tồn tại cơ chế hai giá thì luôn có sự trục lợi từ cơ chế. Tình trạng "hai giá" trong lãi suất, tín dụng và tỷ giá đã khiến các tổ chức tín dụng và khách hàng mệt mỏi, thị trường tiền tệ không minh bạch, và sau cùng nền kinh tế gánh chịu việc phân bổ các nguồn lực bị lệch lạc.

(3) Trong tinh thần trên, tuyên bố chính thức vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế tư nhân thay vì các DNNN là bước sáng kiến thứ nhất

(4) Giảm gánh nặng thuế nói chung của nền kinh tế (giảm dần tỷ lệ tổng thu/GDP) và giảm thuế doanh nghiệp nói riêng từ 25% xuống 20% từ năm nay là bước chủ động thứ hai

(5) Tập trung việc tái cấu trúc ba ngành kinh tế vào một cơ quan chỉ đạo duy nhất dưới sự đôn đốc trực tiếp và toàn thì của một Phó Thủ Tướng năng động với sự trợ giúp của các chuyên gia trong và ngoài chính phủ, cùng với một ban thư ký (secretariat) gồm chuyên viên các bộ liên hệ thuộc loại “trẻ, giỏi” đang có mặt rất nhiều trong các cơ quan chính phủ và Quốc hội, hay trên các diễn đàn kinh tế.

(6) Công bố chính thức một định hướng bằng số cho các chính sách vĩ mô trung hạn (thí dụ trong bảng chỉ số vĩ mô trung hạn kèm dưới đây) để hướng dẫn về định hướng chính sách mới của chính phủ và tái lập niềm tin cho các doanh nhân và giới đầu tư.

(7) Cần sự minh bạch thông tin hơn lúc nào hết. Các chỉ số suy yếu kinh tế rất rõ ràng từ khu công nghiệp và nhập khẩu như đã bàn ở trên từ quý 4/2011, đặt lại vấn đề cần cập nhật hóa số tăng trưởng GDP cho quý 4 năm ngoái (6,1% là số cao nhất trong bốn quý). Ngoài ra thị trường tài chính vẫn chờ đợi sự công bố chính thức các số liệu về khảo sát tiền tệ và dự trữ ngoại hối như NHNN đã hứa trước đây.

B. Các biện pháp kinh tế và tài chính cụ thể cho 2012

(i) Các dấu hiệu về giảm tốc độ tăng trưởng, thâm chí là đình đốn sản xuất bắt đầu từ quý 3/2011 đã trở nên rõ nét hơn trong ba tháng đầu năm 2012. Tăng trưởng tín dụng âm trong 3 tháng đầu năm nay, cũng như mức nhập siêu chỉ là 250 triệu USD, là các dấu hiệu phản ánh tình trạng này, ngoài chỉ số sản xuất công nghiệp tiếp tục giảm. Như đã bàn ở trên, cần phối hợp và hoán chuyển chính sách (policy switch) để chặn đình trệ sản xuất (nới lỏng CS tiền tệ qua giảm lãi suất) và vẫn kiềm chế lạm phát (qua thắt chặt thêm CS tài khóa)
(ii) Sự phối hợp giữa các chính sách vĩ mô cần được thực hiện theo hướng phối hợp hoạch định mục tiêu và chính sách từ cuối năm trước cho năm kế hoạch, nhất là chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước với các mục tiêu hàng năm và hàng quý về cung tiền M2 với kế hoạch phát hành phù hợp cho tín phiếu Kho bạc hay trái phiếu Chính phủ của Bộ Tài chính.
(iii) Phối hợp xây dựng chính sách vĩ mô một cách toàn diện và căn bản hơn bằng lập trình tài chính với sự chủ trì của Bộ KHĐT phối hợp với Bộ TC, NHNN, Bộ Thương mại để đạt các mục tiêu hàng năm về lạm phát, tăng trưởng và cán cân thanh toán tổng thể của nền kinh tế cần thực hiện. Hàng năm, Bộ KHĐT phối hợp với UBGSTCQG báo cáo QH và Chính phủ về tình hình ổn định tài chính trong khu vực tiền tệ-ngân hàng và tính bền vững tài khóa (xem Khung 2).

(iv) Ngân sách:
·       Kiềm chế chi tiêu ngân sách cần được áp dụng ngay từ năm 2012 và trong việc lập dự toán cho tài khóa 2013. Việc kiểm soát mức tổng chi ngân sách không vượt quá nhiều so với dự toán cần được thực hiện cả ở ngân sách trung ương và địa phương.
·       Giảm chi thường xuyên: trong dự toán ngân sách năm 2012 chi thực hiện cải cách tiền lương là 59.300 tỷ đồng.
·       Giảm chi đầu tư (ngoài dự toán): chi đầu tư ngoài ngân sách gồm chi đầu tư của NHPT và NHCSXH. Hạn chế chi thông qua giảm nguồn vốn bằng cách phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, phát hành trái phiếu của các NH này không yêu cầu Chính phủ bảo lãnh.
·       Giám sát chặt chẽ việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn: ban hành nghị định đối với DNNN và giải quyết vụ kiện trả nợ của Vinashin theo hướng chuyển nợ thành cổ phiếu, bán nợ để hạn chế ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát hành trái phiếu quốc tế của các doanh nghiệp khác và của Chính phủ trong tương lai. Tăng điều kiện bảo lãnh Chính phủ vay trong nước và nước ngoài để hạn chế cấp bảo lãnh.

(vi) Thị trường tiền tệ:
·       Cần điều hành thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối chặt chẽ, linh hoạt, thận trọng bằng công cụ tiền tệ, phù hợp với thị trường, bỏ sớm hay hạn chế sử dụng công cụ hành chính.
·       Cần dựa nhiều hơn vào thị trường mở và chính sách dự trữ bắt buộc (đặc biệt là với các khoản tiền gửi ngoại tệ) để kiểm soát cung tiền.
·       Mức tăng tổng phương tiện thanh toán nên tương đương với mức tăng GDP danh nghĩa mà Quốc hội đã phê duyệt.

Lãi suất:
·       Sớm bỏ trần lãi suất để thiết lập lại đường cong lãi suất bình thường và loại bỏ các biến dạng hiện có trong thị trường tín dụng và lãi suất.
  
·       Để giải quyết tận gốc bài toán hạ lãi suất cần sự phối hợp với chính sách tài khóa chặt chẽ: quy định lãi suất tái chiết khấu ở mức trung hòa được các lãi suất tín phiếu NHNN (mới phát hành), lãi suất trái phiếu Chính phủ, và lãi suất tín phiếu Kho bạc mà NHTM mua.
·       Tiếp tục phát hành tín phiếu NHNN với lãi suất thích hợp để mua lại lượng vốn thừa của một số ngân hàng và dùng nó tái cấp vốn cho các ngân hàng thiếu vốn.

(vii) Giải quyết nợ xấu:
·       Biện pháp xử lý nợ xấu được sử dụng phổ biến nhất là xử lý tài sản đảm bảo (bán, phát mại), nhằm thu hồi vốn đã cho DN vay. Về lâu dài cần phát triển thị trường mua bán nợ, để xử lý các khoản nợ của tổ chức tín dụng nói riêng, của các DN nói chung.
·       Rà soát các quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu công trình để khuyến khích doanh nghiệp sử dụng công cụ này bổ sung cho tín dụng ngân hàng.
·       Chuyển nợ ngân hàng thành trái phiếu.
·       Để tái cơ cấu thành công và giải quyết một cách căn bản nguyên nhân thanh khoản kém là thiếu vốn và đầu tư quá mức vào bất động sản với tỷ lệ nợ xấu gia tăng cần có nguồn vốn lớn để làm sạch bảng cân đối của các NHTM (ước tính tối thiểu khoảng 5% tổng dư nợ tín dụng, tương đương khoảng 130 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 1/3 tổng vốn tự có thực và quỹ dự phòng rủi ro tín dụng được trích lập của toàn hệ thống).
·       Có hai lựa chọn là sử dụng nguồn vốn nước ngoài của tư nhân hoặc của các tổ chức quốc tế. Cần thăm dò khả năng cho vay của WB và ADB để tái cấp vốn cho các NH, và xác định nhu cầu của các NHTM để lên kế hoạch vay tổng thể và đàm phán với về điều kiện vay.
·       Trường hợp vay tổ chức quốc tế thì đồng thòi với việc đàm phán vay cần xây dựng cơ chế trả nợ, tránh tình trạng sử dụng thiếu trách nhiệm khi cho vay lại nợ của Chính phủ. 

C. Khung chính sách vĩ mô trung hạn

                      Bảng: Vài chỉ tiêu kinh tế vĩ mô trung hạn cho 2012-2015

2010
2011
2012
2013
2014
2015
Tỷ lệ tăng GDP thực (%)

6,8
5,9

6,5

7,0

7,5

8,0

Lạm phát (tăng %)
11,7
18,2
7,0
6,0
5,0
5,0
Tỷ giá VND/USD*
21.000
21.300
22.000
22.600
23.300
23.900
Bội chi ngân sách (% GDP) **

-5,5

    -4,9

-4,0

-3,5

-3,0

-2,5

Đầu tư toàn xã hội (% GDP) ***

Đầu tư công/GDP (%)****
41,9

18
38

15
36

14
34

13
32

11,5
30

10
Tổng phương tiện thanh toán (%)
25,3
12
12-13



Tổng tín dụng trong nước ( %)
29,8
14
15-17




Cán cân tài khoản vãng lai (% GDP)
Cán cân thanh toán (tỷ USD)*****
          
-4.4
-3,1
-7.1
2,0
-4.9
5,2
-4.3
9,5
        -3.9
10,9
-3.8
12,7
Dự trữ ngoại hối (tỉ USD)
Dự trữ ngoại hối/tuần nhập khẩu
14,0
8,6
16,0
7,0
17,6
7,9
27,1
10,6
38,0
12,6
50,7
14,2
Nguồn: Các số liệu 2011-15 dựa trên các tính toán ước tính và dự báo của tác giả.
Ghi chú:
1)      Số liệu 2010 là số thực hiện, 2011 là ước thực hiện, từ 2012-2015 là số mục tiêu
2)      *Tỷ giá tự do vào cuối năm (theo mục tiêu trượt giá 1,5-2% mỗi năm như trong quá khứ)
3)      **Theo cách tính của Việt Nam
4)      *** Chưa tính đầu tư từ tín dụng ngân hàng
5)      **** Chưa tính đầu tư của địa phương, phần không đưa vào cân đối ngân sách.
6)      ***** Cán cân thanh toán tổng thể trong năm 2011-2015 thặng dư  tổng cộng 40,3 tỷ USD

PHỤ LỤC

Khung 1. Dự toán NS 2012: vấn đề thổi phồng cả số tổng thu và chi

Chúng ta tiếp tục dự báo mức thu cao ngất ngưởng cho năm 2012 dựa trên số thu cũng cao ngất thực hiện được năm nay (2011) là chúng ta tiếp tục chấp nhận một nền tảng thuế cao dựa trên mức lạm phát cao hai con số và mức mất giá cao cho tiền VND.
Một kết luận quan trọng khác là do số TỔNG THU dự báo được bơm phồng cho năm tới, chúng ta cũng tự động bơm phồng số TỔNG CHI cho năm tới, mặc dù có hạn định giới hạn cho tỷ lệ bội chi ngân sách/GDP là 4,9% cho năm 2012. Một nhận xét quan trọng là dù tỷ lệ bội chi có được giới hạn, nhưng nếu cả TỔNG THU và TỔNG CHI đều được bơm phồng do vấn đề lạm phát (hay vấn đề chỉ số--indexing, như nêu trên) thì số BỘI CHI cũng được bơm phồng theo cùng tỷ lệ. Và kết quả là lạm phát sẽ lại tiếp tục lên cao năm tới và trong trung hạn v.v… Cơ chế giữa số bội chi tuyệt đối cao và lượng cung tiền cao hàng năm chính là mối liên hệ mật thiết giữa chính sách tài khóa và tiền tệ gây ra lạm phát cao ở Việt Nam từ nhiều năm nay (hai thí dụ gần và rõ nhất là năm 2011 và 2008). Cơ chế này được giải thích rõ hơn dưới đây, qua việc bơm phồng chi tiêu công hàng năm bằng số thu “lạc quan” và nhất là đầu tư công được tài trợ dễ dàng qua phát hành trái phiếu chính phủ.
Việc này còn nhằm làm rõ hơn tính chất của khoản chi tiêu đầu tư tài trợ bởi phát hành trái phiếu chính là mối liên hệ căn bản giữa chính sách tài khóa và tiền tệ hàng năm đã gây ra lạm phát cao và bị “làm ngơ” ví cách trình bày thực hiện ngân sách hiện nay: đây chính là nguồn tài trợ thất thu ngân sách hàng năm bằng hệ thống ngân hàng, thoát khỏi con mắt các nhà phân tích vĩ mô. Để giải thích rõ hơn, thử trở lại thí dụ của nửa đầu năm 2011, trái phiếu chính phủ mặc dù với lãi suất thấp 10%-12% vẫn được các ngân hàng lớn tích cực mua vì họ có thể đem đến cửa sổ tái cấp vốn của NHNN và chỉ trả mức lãi suất 7% dạo đó trong một thời gian dài. Nói một cách khác hơn, qua tái cấp vốn, chính NHNN đã tài trợ thất thu ngân sách (deficit financing) như trong nhiều nước đang phát triển khác với lạm phát cao. Vì chi tiết này không được thảo luận rõ ràng, vẫn còn có vài nghiên cứu phát biểu “can đảm” rằng chính sách tiền tệ là nguyên nhân của lạm phát và chính sách tài khóa không có trách nhiệm về lạm phát.


                           Khung 2.  Dự toán NS trung hạn: 2013-2015
Mục tiêu chính của dự toán ngân sách giai đoạn 2012 – 2015 là tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực và giảm lạm phát. Sẽ cần giảm cả tổng chi và thu ngân sách và bội chi ngân sách (cả về số tuyệt đối và tỷ lệ với GDP) qua các năm như trong bảng mục tiêu chính sách dưới đây:                                         
Dự toán tỷ trọng các khoản thu thành phần so với tổng thu:
  • Giảm thuế doanh nghiệp từ 25% xuống 20% để khuyến khích sản xuất trong khu vực tư; tỷ trọng thu nội địa vẫn có thể tăng lên từ việc gia tăng thuế thu từ các doanh nghiệp tư sản xuất mạnh hơn và bằng lòng khai thuế ở mức thấp hơnh; chống thất thu trong khối doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Ngoài ra, việc xem xét lại các chính sách thu từ đất và có kế hoạch lập dự toán thu từ đất sát với thực tế từng năm sẽ giúp tăng thu cao hơn.
  • Tỷ trọng thu từ dầu thô giảm xuống và giảm nhiều do dự báo lượng dầu thô xuất khẩu có thể bị sụt giảm vì nguồn tài nguyên này sẽ bị cạn kiệt theo thời gian mặc dù giá có thể không giảm.
  • Tỷ trọng thu từ xuất, nhập khẩu giảm do dự báo tỷ giá sẽ ổn định hơn và giảm thuế xuất nhập khẩu dần dần.
  • Tỷ trọng thu viện trợ không hoàn lại giảm dần
Dự toán tỷ trọng các khoản chi thành phần so với tổng chi:
  • Tỷ trọng chi đầu tư phát triển giảm dần qua các năm nhưng vẫn đảm bảo chi vào các hạng mục cần thiết, hiệu quả đầu tư được nâng cao, tránh đầu tư dàn trải.
  • Tỷ trọng chi thường xuyên tăng dần nhằm mục đích ưu tiên chi đầu tư cho con người, đầu tư cho chuyên môn, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, chất lượng dạy học…
  • Tỷ trọng chi trả nợ và viện trợ và tỷ trọng chi dự phòng, dự trữ, khác tăng dần.
Lượng trái phiếu chính phủ phát hành hàng năm trong giai đoạn 2011 – 2015: bình quân khoảng 45.000 tỷ đồng/ năm.


   Khung 3. Lối ra cho các TT Chứng Khoán và Bất Động Sản

v    Tình hình kinh tế vĩ mô phải có bước ngoặt nhanh chóng để gây lại niềm tin là Chính Phủ thực sự sẽ kiểm soát được tình hình kinh tế vĩ mô.
v    Các yếu tố kỹ thuật như cho phép quỹ mở, quỹ ETF, triển khai T+2, v.v…, chỉ giúp thêm cho hồi phục mang tính thời điểm của TTCK.
v    Cần giảm lạm phát trong các quý 1-2 và dẫn đến giảm lãi suất cuối quý 2. Thị trường BĐS cũng sẽ phục hồi từ từ sau TTCK khi lãi suất có dấu hiệu giảm thực sự.
v    Giải pháp tối ưu và khả thi hiện tại rõ ràng là phải dùng chính sách tài khóa để hỗ trợ thực sự chính sách tiền tệ nhằm giảm tổng cầu và lạm phát, và từ từ sẽ nới lỏng chính sách tiền tệ để giảm lãi suất.
v    Sau khi thị trường BĐS được khởi động từ lãi suất, thị trường này chỉ có thể phục hồi nhanh chóng nếu có cú sốc ào ạt từ các nhà đầu tư mới (thí dụ thực tế nhất và “hấp dẫn” nhất là các nhà đầu tư Nhật bản đang tìm cách di dời cư dân và nhiều xưởng hãng từ các vủng bị tsunami và dò rỉ từ trung tâm nguyên tử quanh vùng Tokyo), đây sẽ là điều gây tác động tâm lý mạnh nhất cho BĐS ở Việt Nam. 
v    Ngoài ra các chính sách tái cơ cấu nền kinh tế sẽ tiếp sức mạnh mẽ cho nhu cầu BĐS nếu khu vực tư nhân được đóng vai trò chủ đạo trong nỗ lực giảm thật sự đầu tư công và vai trò các doanh nghiệp nhà nước. Việc giảm thuế doanh nghiệp xuống 20% sẽ là bước đầu cho chính sách này.
v    Việc tính tiền sử dụng đất theo Nghị Định 69 của chính phủ đã bị ách tắc gần 2 năm nay, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp và cả người dân do tình trạng đóng băng của BĐS. Nếu được “khơi thông” cho đóng thuế SDĐ thấp hơn, Nhà nước sẽ “được” nhiều hơn mất do thu thuế của các doanh nghiệp BĐS nhiều hơn, và tình trạng thị trường sẽ được khơi thông.







[1] Tác giả là chuyên gia chương trình STAR Plus/USAID, nhưng bài này được phát biểu hoàn tòan với tư cách cá nhân và không phản ánh bất cứ quan điểm nào của chương trình STAR Plus hay USAID.
[2] Xin xem “Vì sao bất ổn vĩ mô của Việt Nam kéo dài?, của Khánh Linh (TTVN) trên mạng cafef.vn, http://cafef.vn/20120321043525142CA33/vi-sao-bat-on-vi-mo-cua-viet-nam-keo-dai.chn, báo cáo về buổi Tọa đàm “Hướng tới một khung khổ chính sách kinh tế vĩ mô cho Việt Nam trong trung và dài hạn” (21/3/2012).
[3] Đã dẫn trên ở chú thích 2.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét