Huổi Chát là một bản Mông chừng vài chục nóc nhà ở
huyện nghèo Mường Tè. Hôm chúng tôi có mặt, chỉ còn 7 ngày nữa là đến
ngày hội khai giảng, nhưng những gì bày ra trước mắt thật đắng lòng: Một
căn lều tranh tre nứa lá gió thổi tứ bề, xiêu vẹo, ghế gãy bàn long, ủn
ỉn trong đó một cặp lợn mán, được cô giáo cắm bản giới thiệu là trường
học.
“Chuồng học” ở Huổi Chát
Khó từ viên phấn trắng
Đường lên Huổi Chát
ngoằn nghèo bò dọc theo núi. Con đường mới vỡ chỉ rộng độ 3 gang tay, bé
đến mức những chiếc xe máy chỉ có thể tiến chứ không thể quay ngang để
lùi, nhiều đoạn đã thụt hẳn xuống khe sâu hun hút. Đương mùa trái gió
trở giời, lúa nương cây trổ cây trụi. Đường núi thăm thẳm thi thoảng lại
ngoi lên một khuôn mặt trẻ con cháy nắng lấm lem bùn đất. Những đứa nhỏ
5-6 tuổi đã phải chui rừng cắt suối bói măng mò cá kiếm cơm. Gùi có khi
còn to hơn cả người.
Bấy giờ đã giữa trưa,
bữa cơm nhiều nhà chỉ có đôi bát nước suối, mấy chiếc măng to bằng quả
chuối, với đĩa muối ớt. Dường như cơm có vị cay, vị mặn. Đám trẻ vừa đi
nương về áo quần xốc xếch, mặt mũi nhem nhuốc túm tụm sau lách liếp đầu
bản giương cặp mắt trong veo như nước suối tò mò nhìn người lạ. Cô giáo
Đinh Thị Vin nói bằng tiếng Mông, vẫy chúng xuống lớp. Lớp học là một
căn chòi lá rộng độ bằng 4 chiếc chiếu đôi xiêu vẹo, vách tre vọc vạch,
hở hoác. Bên trong bàn ghế gãy nát, đầy mạng nhện, ngổn ngang phân heo.
Không biết đã từ bao giờ, trường học của lũ trẻ đã trở thành nơi trú ngụ
cho một cặp heo mán với 4 heo con. Có người trong số chúng tôi gọi đùa,
giọng không ít cay đắng: “Đây là chuồng học chứ đâu phải trường học”.
Bế theo một học trò người Mông, cô giáo Vin loay hoay tìm chỗ đặt chân.
Lớp học vùng cao khó. Khó từ chiếc bảng đen, viên phấn trắng. Khó đến cả
cái sự “bắc cầu Kiều”.
7 năm trước, cô giáo
Đinh Thị Vin từ Phú Thọ rừng cọ đồi chè lên Mường Tè theo tiếng gọi tình
nguyện. 6 năm trước, cô mang con trai 3 tuổi lên núi, để sau đó chỉ 1
năm phải vội vã đưa con về xuôi vì đứa trẻ bấy giờ chỉ học tiếng người
Mông. 5 năm trước, chồng cô mì tôm cá khô tấp tểnh lên thăm vợ, lần đầu
và cũng là lần cuối, để chỉ nói một câu: Về. 4 năm trước, cô suýt bị dân
bản bắt đền khi giữa đêm dám đem đứa trò nhỏ bấy giờ ốm thập tử nhất
sinh vượt “ngang sông Đà”. 3 năm trước, cô khóc cả đêm khi đứa con đứt
ruột đẻ ra giờ không còn nhận ra giọng mẹ. Gia đình là thứ gì đó mơ hồ.
Có khi chỉ là mười ngày phép mỗi dịp cuối năm và những đồng tiền chắt
bóp tháng tháng gửi về quê xa.
Và giờ, cô giáo người
Kinh đã trở thành đứa con của Huổi Chát, của Nậm Manh, nói tiếng Mông để
dạy tiếng phổ thông, ăn mèn mén, sắn khô, măng rừng, với ước mơ giản dị
là một ngày nào đó sẽ có một đứa trò nhỏ người Mông thi đậu vào đại
học.
Cái chữ xa xỉ và rau cháo ngày thường
Ở Huổi Chát, ở Mường
Tè, ở vùng cao, việc đầu tiên của những cô giáo trước ngày khai trường,
không phải là nghĩ ra các khoản thu, nghĩ ra cách thu tiền mà là “dân
vận” để cha mẹ học sinh đồng ý đưa con đến trường. Không thể có giáo dục
nếu như không có những ngôi trường. Nhưng cũng không thể có những ngôi
trường nếu như không có học trò. Chỉ buồn là giáo dục ở vùng cao không
thể tách rời chuyện miếng cơm manh áo. Huổi Chát tất nhiên không phải
ngoại lệ.
Trưởng bản Lầu Giống Sì
khoát khoát cánh tay quanh tứ bề rừng nham nhở xung quanh. Đấy là ông
đang giải thích chuyện miếng cơm. 100% hộ sống dưới mức nghèo đói. Cả
bản, không một mét vuông ruộng nước, sống nhờ vào những nương lúa. Lúa
nương trông cả vào ông giời. Năm nào mưa thuận gió hòa, Nậm Chát có gạo,
có ngô ăn đủ trong nửa năm. Nửa năm còn lại thì sao? Thì trông cả vào
rừng. Có nghĩa, đến ngay cả chuyện căng cái bụng cũng trông vào ông
giời, đủ ăn cũng đã là một niềm mơ ước khi Nậm Chát đói quanh năm chứ
không chỉ là mùa giáp hạt. Trong nhà người Mông Nậm Chát, những chiếc
lông gà dán trên cây cột thiêng giờ bạc thếch, xác xơ. Lâu lắm rồi người
Huổi Chát không có hội, không làm gà, thậm chí không cả xuống chợ Nậm
Hàng phía bờ hữu sông Đà. Cuộc sống là chuỗi những mưu sinh không buồn,
chẳng vui, không quá khứ, không tương lai. Miếng cơm manh áo thúc vào
sườn họ đau và bức bối đến mức ước mơ đôi khi chỉ là bát cơm có miếng
thịt. Và cái chữ, vì thế cũng là thứ gì đó xa xỉ, thậm chí xa lạ.
Chúng tôi đi từ Văn
Chấn, Mù Cang Chải của tỉnh Yên Bái, ngược lên Phong Thổ, Mường Tè, qua 9
điểm bản và nhận ra một điều rằng, ở bất cứ trường học vùng cao nào cái
khó nhất của thầy trò nơi đây chính là bữa ăn. Vâng, đầu thập kỷ thứ
hai của thế kỷ 21, vẫn cứ phải nói đến chuyện miếng cơm manh áo khi mà
bữa ăn phổ biến nhất của những đứa trò nhỏ vùng biên ải vẫn triền miên
là cảnh “một nồi canh rau, 3 miếng đậu trắng”.
Trường học là đây, khi chỉ còn 7 ngày nữa là khai giảng năm học mới
Hôm chúng tôi đến
Trường Tiểu học Huổi Luông, ở xã biên giới Huổi Luông thuộc huyện Phong
Thổ, Lai Châu, điều không ai có thể quên được là bữa ăn của những đứa
trẻ. Một bát tô nhựa, trong đó hổ lốn vừa cơm, vừa canh, và loi nhoi 2
miếng đậu trắng. Không thể gọi khác hơn là tô cơm tiêu điều và khốn
cùng. Xin đừng ai đó trách các thầy cô giáo vùng cao. Ở những điểm
trường vùng cao, cha mẹ học sinh tháng tháng góp 4kg gạo và 7.000 đồng
tiền ăn mỗi tuần, thậm chí vì không có tiền, mỗi cuối tuần chỉ có 1 bó
rau rừng được gửi tới. Người ta có thể mua gì khác cho lũ trẻ ngoài đậu,
loại thực phẩm chỉ giúp lũ trẻ quên đi cơn đói?
Từ cách đây 2 năm, Nhà
nước đã có chính sách hỗ trợ 120.000 đồng/tháng đối với trẻ em 5 tuổi.
Tới cuối năm ngoái, Thủ tướng Chính phủ có quyết định (số 60/2011/QĐ-TTg
ngày 26.10.2011), theo đó: Trẻ em mẫu giáo 3 và 4 tuổi có cha mẹ thường
trú tại các xã biên giới, núi cao, hải đảo, các xã và thôn bản đặc biệt
khó khăn, hoặc cha mẹ thuộc diện hộ nghèo theo quy định hoặc mồ côi cả
cha lẫn mẹ không nơi nương tựa hoặc bị tàn tật, khuyết tật có khó khăn
về kinh tế, được ngân sách nhà nước hỗ trợ 120.000 đồng/tháng và được
hưởng theo thời gian học thực tế, nhưng không quá 9 tháng/năm học để duy
trì bữa ăn trưa tại trường.
Hiệu lực thi hành của
quyết định là từ 15.12.2011. Phải mất nhiều tháng sau đó, liên bộ: GDĐT,
Tài chính, Nội vụ mới có thông tư hướng dẫn quyết định 60, thực hiện
chi hỗ trợ ăn trưa cho trẻ em mẫu giáo. Và cũng phải bắt đầu từ
1.9.2012, các trường mới bắt đầu làm thủ tục thống kê học sinh 3 - 4
tuổi đề nghị được cấp hỗ trợ. Danh sách này sẽ qua các nấc từ xã, huyện,
tỉnh và nếu như tiến độ chính xác như quy định đến từng ngày như trong
thông tư thì sau 80 ngày danh sách mới về đến Bộ Tài chính và Bộ GDĐT.
Còn bao giờ tiền về được tới trường thì lại phải phụ thuộc vào “tốc độ
cải cách hành chính” của các bộ, các sở, các địa phương.
Chỉ biết là 8 tháng sau
quyết định của Thủ tướng, ngay trước thềm năm học mới 2012-2013, ở hầu
hết trong 9 điểm trường mà chúng tôi đặt chân tới của các tỉnh Yên Bái,
Lai Châu, “độ trễ của chính sách” khiến cho những đồng tiền cơm lũ trẻ
đáng được hưởng, thực ra vẫn bóng chim tăm cá. Câu hỏi “bao giờ” vẫn là
niềm day dứt của những người làm giáo dục vùng cao. Và cái hậu của việc
truy lĩnh, “dồn một cục”, là các trường sẽ phải trả những đồng tiền ăn
của các cháu cho cha mẹ. Không ai có thể cam kết sau đó những đồng tiền
cơm 2 năm học của một đứa trẻ không biến thành một bữa nhậu của người
lớn.
Chúng tôi ngồi bên mái
lá Huổi Chát trong sự ngưng đọng của cả không gian và thời gian. Một
lát, cô giáo tiểu học Nguyễn Thị Hường đội nắng leo núi đi tới. Hường 24
tuổi, đã lên Mường Tè 5 năm. Lớp học của cô có 18 học sinh, học từ lớp 1
đến lớp 4. Nấu ăn cho lũ trẻ ư? Hường hỏi, trong mắt có chút ngơ ngác.
Chúng tôi hiểu được sự ngỡ ngàng của cô ngay sau đó. Chợ Nậm Hàng thì
cách Huổi Chát vài tiếng đi bộ. Và điều quan trọng nhất là chính cô cũng
triền miên rau cháo qua ngày.
Cũng còn may cho lũ trẻ
vùng cao là còn có những cô giáo cắm bản, như Vin, như Hường. Một người
đã từ lâu coi Huổi Chát là nhà. Một người khác đang tính chuyện xây
dựng gia đình trên chính mảnh đất nghèo khó này, với người chồng, cũng
là một thầy giáo cắm bản, đang ở xã xa nhất Huổi Manh, cách cô chừng 6
giờ leo núi.
Lao động
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét