Nhà văn Đắc Trung Tiểu bất nhẫn tắc loạn đại mưu
(Không nhẫn nhịn được điều nhỏ sẽ hỏng cả kế lớn) 1. Cuộc sống phát triển với tốc độ chóng mặt. Thành tựu vĩ đại nhiều, nhưng con người cũng phải chịu rủi ro không ít: thảm họa thiên tai (sóng thần, lũ lụt, động đất), ô nhiễm môi trường, chiến tranh, khủng bố, dân chủ, nhân quyền bị chà đạp... Đồng thời biết bao bất hạnh trực tiếp dồn đến từ mọi phía: mâu thuẫn gia đình, đổ vỡ hôn nhân, người yêu phản bội, trượt ngã sau thi cử, phá sản trong kinh doanh, thất thế chốn quan trường, bất công oan ức trước pháp luật, hoặc tổn thất quá lớn bởi tai nạn, bệnh tật hiểm nghèo vô phương cứu chữa... vân vân... luôn tạo nên áp lực khiến con người khó kiềm chế nổi, dễ bột phát thịnh nộ, hoặc tột cùng tuyệt vọng dẫn tới tự huỷ hoại đời mình.
Người ta đã tìm nhiều cách giải tỏa áp lực ấy. Từ những trò tiêu khiển tầm thường: quay cuồng điên loạn dưới ánh đèn màu và tiếng nhạc đinh tai nhức óc, say xỉn bởi bia rượu, mê muội trong trác táng. Hoặc du lịch, đọc sách, chơi thể thao, tìm bầu bạn sẻ chia tâm sự. Hoặc ngồi thiền, suy ngẫm cầu đến sự che chở, phù hộ, giải thoát của tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh...
Nhưng tất cả những cách đó chỉ nhất thời làm vơi nhẹ áp lực một cách thụ động, chứ không thể khống chế, kiểm soát và chi phối để không chỉ giải toả mà còn xử lí áp lực một cách chủ động theo hướng tốt nhất. Muốn làm được thế phải cần đến “Nhẫn.
2. Khái niệm:
“Nhẫn” là sự bền bỉ không nản lòng trước khó khăn nguy hiểm, là sự kìm nén tâm trạng trước áp lực. Nói cách khác “nhẫn” là khả năng chịu đựng của con người nhằm thực hiện mục đích.
Bản chất:
“Nhẫn” được cấu thành bởi ba yếu tố: tâm nhẫn, chí nhẫn và lực nhẫn.
Tâm nhẫn: chiết tự Hán ngữ “nhẫn” được ghép từ hai chữ “đao” ( ) ở trên và “tâm” ( ) ở dưới. Chữ “tâm” tạo từ mấy nét chính mang tính biểu tượng. Bên trái, chấm đậm, hất nhẹ lên thành hình giọt máu đang rơi, gọi là tà tâm ứng với kẻ gian hùng. Bên phải chấm đậm, xoay nửa vòng, vuốt nhẹ tạo hình đầu con chim đang thản nhiên rỉa lông gọi là muội tâm, ứng với những ai an phận chỉ biết lo cho chính mình. Ở giữa nhô lên cao, chấm đậm, xoay tròn giống vầng trăng sáng giữa trời gọi là chính tâm, ứng với người quân tử. Bản chất trang quân tử, kẻ gian hùng, người ích kỷ đều gói trong chữ “tâm”. Mới biết Hán ngữ thật sâu sắc.
Bản chất của “nhẫn” được quyết định bởi “tâm”. Trang quân tử “nhẫn” để thực thi điều thiện. Kẻ gian hùng “nhẫn” để làm việc ác. Người an phận “nhẫn”chỉ để lo cho bản thân, tránh ác nhưng cũng không dám bảo vệ thiện.
Chí nhẫn: là ý chí quyết thực hiện “nhẫn”. Cao hay thấp, mạnh hay yếu, kiên trì bền bỉ hay hăng hái tạm thời, vững vàng nhất quán hay chao đảo phân tán, chấp nhận mọi thử thách hay lựa chọn, né tránh... đều phụ thuộc ở chí nhẫn.
Lực nhẫn: là sức chịu đựng trước mọi áp lực từ mọi phía, mọi lúc, mọi nơi, mọi cách. Biểu hiện của lực nhẫn rất phong phú và ít khi giống nhau. Có người bị chà đạp về thể xác “nhẫn” được, nhưng khi bị tổn thương danh dự thì phản ứng quyết liệt. Bị xúc phạm nơi vắng vẻ “nhẫn” được, nhưng ở chỗ đông người không kìm nén nổi. Bị tra tấn dã man “nhẫn” được, nhưng nếu kẻ thù đem sinh mạng người thân của mình ra làm áp lực thì nhũn chí đầu hàng...
Cả tâm nhẫn, chí nhẫn và lực nhẫn không hoàn toàn tự có, mà đòi hỏi phải nghiên cứu, hiểu sâu sắc, ý thức đầy đủ “nhẫn” để chủ động kiểm soát ứng xử, đối phó một cách bình tĩnh, sáng suốt trước mọi áp lực trong cuộc sống.
Mục đích:
Không ai “nhẫn” chỉ để “nhẫn”. Nói cách khác “nhẫn” luôn có mục đích. Hán ngữ “nhẫn” được ghép bởi “đao” và “tâm”. “Đao” biểu tượng của ác và “tâm” chủ yếu biểu tượng của thiện. Trong “nhẫn” có cả thiện và ác, bởi thế mục đích của “nhẫn” cũng có thể thiện hoặc ác. Điều đó thường do tâm nhẫn chi phối. Chính tâm, tà tâm hay muội tâm ứng với chủ thể của “nhẫn” là hiền nhân quân tử, gian hùng đạo tặc hay thủ thế cầu an? Sự khác nhau nằm ở đấy. Ý nghĩa, giá trị, chính tà, trung gian, thiện ác, tốt xấu... đều trong mục đích của “nhẫn” cả.
Phương thức:
“Nhẫn” được biểu hiện bằng ba phương thức chính: ngôn ngữ, hành vi và kết hợp ngôn ngữ với hành vi. Ngôn ngữ và hành vi đều rất đa dạng, phong phú. Bởi thế đòi hỏi chủ thể của “nhẫn” phải sáng suốt và linh hoạt. Căn cứ mục đích của “nhẫn”, đối tượng khách thể của “nhẫn”, bối cảnh của “nhẫn”... mà quyết định sử dụng phương thức nào.
Giới hạn:
Về nguyên tắc “nhẫn” được sử dụng khi áp lực xuất hiện. Áp lực càng lớn đòi hỏi “nhẫn” càng cao và khi không còn áp lực thì “nhẫn” triệt tiêu. Tuy nhiên điều quan trọng là chủ thể của “nhẫn” phải biết điều chỉnh mục đích, đối tượng, cường độ, phương thức... của “nhẫn” sao cho phù hợp trong quá trình diễn biến của áp lực. Đặc biệt phải biết dừng khi cần thiết không để “nhẫn” quá giới hạn. “Nhẫn” nhũn, “nhẫn” nhịn, “nhẫn” nhường, thậm chí có khi “nhẫn” nhục nếu ý nghĩa, mục đích của “nhẫn” quá lớn, quá quan trọng. Song không được để “nhẫn” biến thành nhu nhược, hèn hạ làm tổn thương tới nhân cách, danh dự, uy tín, lợi ích, hoặc chủ quyền, quốc thể... Gặp những trường hợp quá khó khăn, phức tạp hãy tìm giải pháp khác thay cho “nhẫn” thích hợp hơn, hiệu quả hơn.
Mối liên hệ giữa “nhẫn” với các lĩnh vực tinh thần khác:
Tư chất mỗi người gồm ba yếu tố chính: bản chất, bản lĩnh và bản tính.
Bản chất: là thiện hay ác? Chính hay tà? Trung hay gian? Tốt hay xấu?... Ở đời không có gì tuyệt đối, vả lại “nhân bất thập toàn”, bởi thế bản chất con người là tổng hoà các yếu tố đó. Tuy nhiên “tính trội” trong từng yếu tố vẫn mang ý nghĩa bản chất. Điều ấy không dễ nhận ra, nhưng cũng không khó, nếu ta biết “nhẫn” để bình tĩnh, tỉnh táo suy xét. Chẳng hạn một người bản chất tốt thì cả tư duy, ngôn ngữ và hành vi luôn hướng thiện. Nghĩ điều thiện, nói lời thiện, làm việc thiện. Hơn thế còn che chở bảo vệ thiện, phê phán tấn công ác. Những yếu tố phi thiện dù có cũng là thứ yếu và tồn tại nhất thời. Còn kẻ bản chất xấu thì ngược lại. Cho nên muốn đánh giá chính mình hay người khác cần phải xem xét đầy đủ các yếu tố để khẳng định đúng bản chất.
Bản lĩnh: là ý chí, nghị lực nhằm thực hiện bản chất. Người bản chất tốt, bản lĩnh vững họ sẵn sàng dám đương đầu, dám sả thân bảo vệ thực hiện điều thiện đồng thời kiên quyết tấn công ác.
Triều nhà Tống (Trung Quốc) gian thần Bàng Thái sư cậy thế quan đại triều lại là bố vợ vua, y không từ thủ đoạn hiểm độc và hèn hạ nào để diệt trung thần mà mục tiêu chính là Bao Công, người đại diện cho công lý và lòng nhân ái. Bàng Thái sư lập mưu giăng bẫy, tạo chứng cứ giả vu cho Tống Địch Thanh, vị tướng văn võ song toàn một lòng kiên trung với nước tội thông đồng cùng giặc Liêu phản quốc. Đồng thời gây áp lực dồn Bao Công vào thế tiến thoái lưỡng nan nhằm một phát tên trúng hai đích: diệt cả Bao Công lẫn Tống Địch Thanh. Với bản lĩnh cương trực của một quan trung thần dám sả thân bảo vệ điều thiện kiên quyết tấn công tội ác, trước nhà vua Bao Công sẵn sàng lấy mạng sống của mình bảo lãnh cho lòng trung sắt đá của Tống Địch Thanh. Cuối cùng ông và Địch Thanh đã thắng. Tấm gương vì đại nghĩa của Bao Công từ hàng nghìn năm nay vẫn luôn toả sáng. Rõ ràng Bao Công có cả bản chất tốt và bản lĩnh vững. Ở đời thử thách lớn đòi hỏi bản lĩnh lớn và trí tuệ lớn. Nếu là người giàu bản lĩnh và năng lực thì mọi khó khăn chỉ là điều kiện để họ khẳng định mình.
Cũng có người bản chất tốt nhưng bản lĩnh yếu thì chỉ hướng tới, hoặc thực hiện điều thiện chứ không dám chấp nhận hy sinh sả thân bảo vệ thiện, càng ít dám tấn công ác.
Có một vị bản chất tốt được cử tri tín nhiệm bầu vào cơ quan lập pháp. Ông có những ý kiến đóng góp và tích cực hoạt động đem lại hiệu quả thiết thực cho xã hội. Ông sống chan hoà, gần gũi với cộng đồng nên ai cũng quý. Nhưng rồi mọi người vô cùng thất vọng khi ngay khu phố ông ở xảy ra vụ án oan. Một bác làm nghề đạp xích lô bị mấy gã càn quấy đua xe máy tông phải gãy chân, chấn thương sọ não. Mặc dầu những người chứng kiến đều xác nhận thủ phạm gây tai nạn là bọn phóng môtô như điên, nhưng không hiểu sao hồ sơ điều tra kết luận ngược lại. Bà con dân phố bất bình làm đơn gửi tới “ngài dân biểu” đề nghị can thiệp và đặt nhiều tin tưởng ở ông, nhất là khi được biết người bị hại không chỉ cùng phố mà còn là em họ của ông nữa. Chức năng giám sát của “dân biểu” đã được luật định, ông có quyền chất vấn và yêu cầu làm sáng tỏ sự thật đem lại công bằng cho người lương thiện. Nhưng không. Ông chỉ ầm ừ qua loa, rồi... im lặng. Vì sao? Vì thủ phạm gây tai nạn chính là “cậu quý tử” con vị “sếp lớn” trực tiếp lãnh đạo ông! May nhờ báo chí phanh phui nên một phần công lý mới được thực hiện. Rõ ràng bản chất ngài dân biểu” không đến nỗi xấu, nhưng bị muội tâm chi phối, bản lĩnh lại quá hèn yếu ông chỉ lo phòng thân không dám tấn công ác để bảo vệ thiện.
Những kẻ bản chất xấu lại có bản lĩnh vững thì chúng dám bất chấp luật pháp, táng tận lương tâm làm mọi điều ác và điên cuồng tấn công thiện. Loại đối tượng này rất khó cảm hoá để hoàn lương.
Không ít kẻ để lại tiếng ác trong lịch sử. Hồ Quý Ly được Thượng hoàng Trần Nghệ Tông tin dùng đã lộng quyền. Thượng hoàng qua đời, Quý Ly ép Trần Thuận Tông là con rể của mình phải nhường ngôi cho con là Thái tử Án mới ba tuổi (cháu ngoại Hồ Quý Ly) để dễ thao túng rồi sai người giết Thuận Tông (1398). Triều thần bất bình lập hội kín chống lại, bị lộ, Hồ Quý Ly tàn sát 370 tôn thất và quan lại nhà Trần, rồi sau đó cướp ngôi vua.
Lê Nghi Dân con cả vua Lê Thái Tông nhưng không được truyền ngôi, mà người kế vị là Bang Cơ. Mười sáu năm nuôi dã tâm và rồi Lê Nghi Dân giết em cướp ngôi, điên cuồng tàn sát bất kỳ ai chống đối khiến triều thần uất hận, lòng dân oán ghét và chỉ tám tháng sau y lại bị các đại thần giết chết.
Lê Uy Mục được em trai là Lê Túc Tông nhường ngôi. Vừa kế vị y giết luôn Hoàng Thái hậu và những người không ủng hộ mình. Sống tàn bạo, trác táng. Cùng cung nhân rượu chè vô độ, ai say là giết. Y còn ra lệnh tàn sát những gia nô người Chiêm trong điền trang của các công thần. Sự tàn bạo quá đáng của y khiến lòng người sôi sục căm thù. Năm 1509 y bị quần thần nổi dậy giết chết, đặt xác vào miệng súng thần công bắn tan thây. Người bắn Lê Uy Mục là Lê Tương Dực.
Lê Tương Dực tự xưng vua. Y còn tàn ác và dâm đãng hơn cả Lê Uy Mục. Nghe gian tấu giết một lúc 15 vương công. Rút quốc khố dựng điện hơn trăm nóc, bắt vũ nữ trần truồng chèo thuyền trên Hồ Tây cho vua chơi đùa... Quần thần nổi dậy. Trịnh Duy Sản sai quân đâm chết Tương Dực rồi đem thiêu xác.
Triều nhà Hán (Trung Quốc) Lưu Bang phong Lữ Hậu làm chính cung Hoàng hậu. Họ có hai người con: Thái tử Hiếu Huệ và Công chúa Lỗ Nguyên. Hoàng đế còn một thứ phi được ông rất sủng ái là Thích Cơ. Thích Cơ sinh con trai là Như Ý. Hoàng đế ngày đêm say đắm Thích Cơ. Thích Cơ xúc xiểm, nhiều lần Hoàng đế muốn truất bỏ Hiếu Huệ lập Như Ý làm Thái tử, nhưng còn ngại triều thần bất bình nhất là thế lực của Lữ Hậu khá mạnh. Lữ Hậu nén lòng nuôi chí báo thù để đạt tham vọng. Là người coi quản mọi việc trong cung cấm, bà đặt tai mắt khắp nơi, rất bản lĩnh, nhiều mưu mô với rắp tâm thâu tóm quyền lực cho mình và cho dòng họ Lữ nhằm bá chủ thiên hạ.
Năm 195 (tr.CN) Hoàng đế qua đời, Hiếu Huệ nối ngôi, bà trở thành Lữ Thái hậu đích thân điều hành xã tắc. Để thực hiện mưu đồ, đầu tiên Lữ Hậu triệu Như Ý vào cung. Hiếu Huệ vốn bản chất nhân từ, biết tin này sợ Thái hậu giết Như Ý đã thân hành ra tận ngoài thành đón em và lúc nào cũng ở bên canh chừng bảo vệ. Một hôm Hiếu Huệ đế dậy sớm đi săn. Thái hậu được bẩm báo liền sai người mang thuốc độc đến ép Như Ý uống. Hiếu Huệ đế về chỉ còn biết ôm xác em vật vã khóc.
Tiếp đó Lữ Hậu sai người chặt tay, chân, móc mắt Thích Cơ, cho uống thuốc sâm rồi nhốt vào nhà xí, gọi là “con người lợn”. Bà ta triệu Hiếu Huệ đế đến xem. Kinh tởm và ghê sợ trước hành động tàn bạo ấy, Hiếu Huệ đế đau lòng nói: “Việc đó không phải việc con người làm. Tôi là con của Thái hậu không thể trị vì thiên hạ được”. Từ đó sinh ra chán chường, căm ghét cảnh đố kỵ, tranh giành quyền bá nơi cung cấm, trễ nải chính sự. Một lần Điệu Huệ vương đến hầu. Điệu Huệ vương là anh khác mẹ, Hiếu Huệ đế mời anh ngồi ghế trên theo lễ nghĩa gia giáo. Lữ Hậu tức giận sai rót hai chén rượu độc để trước mặt, bắt Điệu Huệ vương chúc thọ mình. Thấy anh đứng dậy Hiếu Huệ đế cũng đứng dậy theo muốn cùng nâng chén chúc thọ với Điệu Huệ vương. Lữ Hậu liền hất đổ chén rượu của Hiếu Huệ đế. Điệu Huệ vương giả say không uống, nhờ thế mà thoát chết. Từ đó Lữ Hậu coi Hiếu Huệ đế (dù là con mình dứt ruột đẻ ra) như kẻ thù. Hiếu Huệ đế càng chán chường, rồi ốm nặng và ít lâu sau qua đời. Lữ Hậu đến viếng con “khóc mà không có nước mắt”. Rồi lập thằng bé “con hờ” của Hiếu Huệ đế lên ngôi. Ít lâu sau bà ta cũng thủ tiêu đồng thời ra tay tàn sát các bậc lão thần có công khai quốc kể cả ba Hoàng tử con Lưu Bang. Bằng mọi thủ đoạn tàn độc, bà ta thâu tóm hết quyền lực.Tuy nhiên hành động tội ác luôn ám ảnh. Có lần mơ thấy con quái vật màu xanh chui từ nách ra rồi biến mất. Lữ Hậu kinh sợ hỏi thày bói. Thày bói nói: “Đó là oan hồn của Hoàng tử Như Ý”. Từ đó bà ta suy sụp kiệt quệ rất nhanh, rồi chết thảm trong cung cấm.
Đó là những nhân vật tiêu biểu bản chất xấu và bản lĩnh vững. Họ dám làm những việc đại gian đại ác. Mục đích “nhẫn” của họ bị tà tâm chi phối. Dù khác nhau về thời điểm, hoàn cảnh, phương thức nhưng hầu hết đều nhẫn tâm và kết cục giống nhau, đó là “gieo ác thì gặt họa”.
Cũng có những kẻ bản chất xấu nhưng bản lĩnh yếu. Có thể dám làm những việc bất nhân thất đức, hành hung, cướp của, lập mưu gài bẫy đẩy người lương thiện vào vòng lao lý. Nhưng những việc đại gian ác như đâm chém, tàn sát, khủng bố dã man thì sợ. Loại đối tượng này nếu biết cách sẽ cảm hoá cải tạo được để hoàn lương.
Bản tính: là biểu hiện cá tính, sở thích, thói quen nặng yếu tố bản năng ở mỗi người như: vui vẻ cởi mở hay trầm tư kín đáo, khoáng đạt rộng rãi hay chặt chẽ bủn xỉn, gọn gàng sạch sẽ hay lôi thôi nhếch nhác, thích âm nhạc hay mê hội họa, hâm mộ bóng đá hay văn học, dụt dè nhút nhát hay xông xáo táo bạo, dí dỏm hài hước hay châm chọc kê kích chì chiết, dễ tủi thân mau nước mắt hay“gan lỳ cóc tía”... Nghĩa là rất phong phú. Cha mẹ sinh con trời sinh tính. Bản tính là cái vỏ bên ngoài gói bản chất và bản lĩnh bên trong. Cần phân biệt cho đúng. Việc ấy không dễ. Chẳng hạn “nóng giận” thì “nóng” là bản tính (đỏ tai lên quát tháo vài ba câu, rồi thôi, quên luôn, lát sau lại cười nói vui vẻ). Nhưng “giận” lại là bản chất (nhất là giận lâu, thù dai thì thật đáng sợ).
Trong ba yếu tố bản chất, bản lĩnh và bản tính thì bản chất quan trọng nhất, là thước đo giá trị con người. Có những cặp vợ chồng bản tính xung khắc, cứ ngồi với nhau là “vặc”nhau, mà toàn những chuyện chẳng đâu vào đâu, nhưng không bao giờ họ nghĩ đến bỏ nhau. Bởi cả hai đều biết rằng bản chất bạn đời của mình tốt. Trong các trường hợp ấy nếu cả hai biết “nhẫn” tìm cách điều chỉnh cải thiện bất hoà trong bản tính thì hạnh phúc của họ chắc chắn sẽ ngày càng viên mãn.
Xét về mối liên hệ thì bản chất thống nhất và mật thiết với tâm nhẫn. Bản lĩnh với chí nhẫn và lực nhẫn. Bản tính với phương thức của nhẫn.
“Nhẫn” tiếp thu kế thừa từ các thế hệ tổ tiên, ông cha. “Nhẫn” là di sản văn hoá truyền thống. Mỗi người, mỗi gia đình, mỗi dòng họ, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc đều biết “nhẫn” để lo việc lớn sẽ tạo sức mạnh vô địch. Sức mạnh bắt nguồn từ lý trí. “Nhẫn” là gốc của lý trí. Nhân cách khẳng định con người, “nhẫn” giúp ta bảo vệ nhân cách. “Nhẫn” cho ta thêm bản lĩnh, gạt bỏ ích kỷ hẹp hòi, hoá giải thù hận, xa sai lầm, tránh nguy hiểm, thêm bạn, bớt thù, tâm hồn thanh thản, cơ thể khoẻ mạnh và yêu đời. “Nhẫn” giúp ta tỉnh táo nhận ra cái sai, nhìn thấy cái đúng. “Nhẫn” cho ta sự khoan dung nhân từ. “Nhẫn”giúp ta tránh được sự xúc phạm làm tổn thương chính mình và tổn thương người khác. “Nhẫn” không chỉ nhằm giải toả áp lực từ “bi”, “nộ”, “hành”, mà cả “hỷ”, “hài”, “ái”, “bỉ”... cùng mọi yếu tố tác động khác để điều tiết tạo sự cân bằng trong giới hạn cần thiết không thái quá. “Nhẫn” có yếu tố bẩm sinh, song quyết định vẫn do nhận thức và tu rèn. “Nhẫn” có đẳng cấp. “Nhẫn” tạo ra vẻ đẹp cao đạo của trí tuệ là đức tính đặc trưng người quân tử, bậc hiền triết thánh nhân. Có “nhẫn” thì gặp áp lực lớn đến đâu cũng vượt qua. Vua chúa “nhẫn” sẽ có được thiên hạ. Quan văn, tướng võ “nhẫn” sẽ có được vinh hiển. Người giàu “nhẫn” sẽ tránh được sự hợm hĩnh. Kẻ nghèo “nhẫn” sẽ vượt qua sự xúc phạm. Cha con “nhẫn” sẽ có được lòng yêu thương hiếu thảo. Vợ chồng “nhẫn” sẽ giữ được sự êm ấm hoà thuận. Anh em, bạn bè “nhẫn” sẽ có được tình nghĩa lâu dài. Người có “nhẫn” sẽ nhìn rõ trời biển bao la, sẽ có được sự thanh thản bình tĩnh sáng suốt, sẽ vượt qua được nhiễu nhương tai họa, sẽ đứng vững ở thế có thể chuyển hung thành cát, nguy thành yên, bại thành thắng, sẽ tránh được sai lầm, giữ được thể diện và danh dự. “Nhẫn” nhiều khi là yếu tố quyết định thành bại đại nghiệp của đời người, hưng vong của quốc gia.
3. Nghiên cứu thật sâu, hiểu thật đầy đủ về “nhẫn”đã khó, nhưng vận dụng được “nhẫn” vào cuộc sống còn khó hơn nhiều.
Mỗi chúng ta đều chịu tác động từ ba nhóm quan hệ: với thiên nhiên, với cộng đồng xã hội và trong gia đình. Quan hệ ở cả ba nhóm ấy con người đều rất cần phải “nhẫn”. “Nhẫn” ẩn phục chờ con thú sa bẫy, hoặc đợi nó đến đúng tầm phóng lao, cự ly bắn cung mới hạ được nó, mới không bị nó tấn công. “Nhẫn” chờ bão tan, sóng yên biển lặng mới ra khơi đánh cá. “Nhẫn” chờ thời tiết thuận mới gieo hạt, chờ cây sinh trưởng, phát triển, ra hoa, kết trái, rồi trái già hoặc chín mới thu hoạch. Mùa hè nóng như thiêu đốt cũng phải “nhẫn” chịu đựng chờ tiết thu về trời mới dịu mát. Sóng thần, lũ quét, động đất tài sản mất hết, người thân không còn, phải “nhẫn” mới khỏi gục ngã và vươn dậy được...
Rõ ràng trong mối quan hệ với thiên nhiên loài người từ khi chỉ biết săn bắt hái lượm đến nay đều rất cần phải “nhẫn”.
Còn trong cộng đồng xã hội thì sao? Đây là mối quan hệ rất rộng và phức tạp: từ lân bang làng xóm, cùng phố, cùng đường, đồng nghiệp, đối tác kinh doanh, bạn, thù, cấp trên, cấp dưới, cho tới việc bang giao giữa các quốc gia... đều rất cần phải “nhẫn”.
Cộng đồng hẹp như gia đình, rộng là tổ chức, cơ quan, địa phương, dân tộc muốn thống nhất, đoàn kết tạo nên sức mạnh phải có ba điều kiện cơ bản. Thứ nhất là cùng ý thức hệ, thứ hai là chung mục đích và thứ ba là gắn bó quyền lợi.
Lịch sử nước ta triều Lý (215 năm) và triều Trần (175 năm) đều hưng thịnh và hùng mạnh bởi đã hội tụ được cả ba điều kiện đó. Phật Giáo được lấy làm nền tảng của ý thức hệ tư tưởng. Cốt lõi của Đạo Phật là từ bi bác ái. Phật Giáo nước ta thuộc dòng chính tâm, phái Đại thừa đã thấm đậm cuộc sống tinh thần mọi người từ vua quan tới lương dân. Tư tưởng Phật Giáo ảnh hưởng sâu sắc tới việc quản lý điều hành đất nước. Sách “Thái vi quốc tế ngọc ký” cho biết vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho con năm 40 tuổi, ngài vào Hoa Lư dựng Am Thái Vi để tu hành Phật pháp. Khi quân Nguyên – Mông lăm le xâm lược nước ta lần thứ hai, tại đây, nhiều lần Thượng hoàng Thái Tông mặc áo cà sa chủ trì các cuộc họp quan trọng với các quan đại thần, các tướng lĩnh để bàn kế chống giặc. Cả lập pháp, hành pháp và tư pháp đều được bao trùm bởi chủ nghĩa nhân văn, đồng tâm, hướng thiện. Luật pháp không chỉ răn đe, mà chủ yếu là cứu độ. Sách “Đại Việt sử lược” viết về Lý Thánh Tông: Mùa hạ, tháng sáu, vua ngự ở điện Thiên Khánh nghe án. Bấy giờ con gái vua là công chúa Động Tiên hầu một bên. Vua nhìn công chúa mà bảo ngục lại rằng: Lòng ta thương con ta cũng giống như lòng cha mẹ trong thiên hạ thương con của họ. Trăm họ không biết tự mắc vào pháp luật. Ta rất thương xót. Nên từ nay, tội không kể nặng nhẹ đều nhất luật khoan hồng”. Thương xót sâu sắc tới cả số phận những người bị tù tội. Rõ ràng nhà vua trị vì xã tắc bằng cái tâm từ bi Bồ tát. Hoàng đế mang tâm Phật và lương dân cũng thế. Người chấp pháp và người thực thi đều thiện tâm thì cõi Niết Bàn sẽ hiện hữu.
Quốc gia độc lập là mục đích chung của mọi thần dân Đại Việt. Coi Tổ quốc là mẹ hiền, giang sơn là đất Phật, thiêng liêng như sự sống của chính mình. Điều ấy lý giải vì sao mọi kẻ thù xâm lược không bao giờ khuất phục nổi nhân dân ta.
Ở những triều đại ấy vua tôi, tướng sĩ, quan dân quyền lợi gắn bó mật thiết. Các bậc minh chủ đều nêu gương sáng hết lòng vì xã tắc. Lý Thái Tông dựa vào Phật Giáo để quy tụ nhân tâm thực hiện đại đoàn kết dân tộc. Chủ trương dùng hàng nội (vua là người đầu tiên và kiên trì thực hiện) để phát triển thủ công nghiệp. Vua xuống chiếu cho phát hết gấm vóc trong kho may áo ban cho các quan, rồi từ đó chuyên dùng vải của nước mình không nhập từ nước ngoài nữa. Khuyến dạy dân phát triển nông tang.“Mùa xuân, tháng hai, vua ngự giá ra cửa Bồ Hải thân chinh tế Thần Nông, xong tự xuống đồng cày ruộng. Các quan tả hữu có người can: “Đó là công việc của nông phu, Bệ hạ cần gì làm thế”. Vua nói: Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lại lấy gì cho thiên hạ noi theo”. (“Đại Việt sử lược”). Đến triều Trần cũng dựa trên nền tảng tư tưởng Phật Giáo, coi độc lập chủ quyền là sự sống còn của quốc gia và trung thành với chủ trương “Lượng sức dân để nuôi rễ, bền gốc”. Vua Trần Nhân Tông đặc biệt coi trọng việc phát triển kinh tế xã hội bằng các chính sách khuyến nông, khai khẩn đất hoang, chia ruộng cho nông dân. Nơi nào bị binh lửa tàn phá hoặc thiên tai mất mùa thì miễn giảm thuế. Xây dựng các công trình thuỷ nông. Khuyến khích học hành, tuyển chọn nhân tài bất luận giàu nghèo sang hèn. Vua thường nhắc nhở các quần thần rằng: nhà Trần ta xuất thân từ nghề chài lưới trên sông, thiên hạ này là của trăm họ, nhờ dân mới có nên phải hết lòng thương dân. Vua thường vi hành thăm hỏi động viên, cảm thông chia sẻ với mọi vui buồn của dân. Vinh hoa phú quý không màng. Mới 36 tuổi đã nhường ngôi cho con, hồi hương sống cuộc đời đạm bạc, khoác áo tu hành tại chùa Phổ Minh, dốc lòng nghiên cứu Phật pháp, cùng các cao tăng Pháp Loa và Huyền Quang lập ra “Dòng thiền Trúc Lâm”. Nhờ các bậc vua hiền như thế mà nước thịnh dân an. Những áp lực từ xã hội và gia đình tác động vào con người ít hơn.
Lịch sử cũng chứng minh triều đại nào không đủ ba điều kiện cơ bản: thiếu nền tảng vững chắc cho hệ tư tưởng, mục đích thiếu thống nhất và khoảng cách về quyền lợi giữa các tầng lớp đẳng cấp trong xã hội quá xa nhau thì rất khó tránh khỏi những nguy cơ tiềm ẩn, những mâu thuẫn và những áp lực. Trong hoàn cảnh ấy “nhẫn” càng không thể thiếu. “Nhẫn” không phải mục đích mà là sách lược. “Tiểu bất nhẫn tắc loạn đại mưu” – không nhẫn nhịn được điều nhỏ sẽ hỏng cả kế lớn. Người mạnh là người biết cười, biết công kích cho đối phương tức giận. Kẻ tức giận là kẻ yếu. Vẻ hùng hổ của kẻ thất phu không đáng sợ bằng sự im lặng của nhà hiền triết. Gia Cát Lượng ba lần khiêu khích khiến Chu Du tức giận. Vì tức giận mà mất tỉnh táo. Mất tỉnh táo dẫn tới sai lầm. Sai lầm dẫn đến thất bại. Thất bại khiến Chu Du càng tức giận đến nỗi không kìm được hộc máu mà chết.
Cái chết của Chu Du là bài học cho những kẻ thiếu “nhẫn”.
Còn biết bao gương sáng về “nhẫn” được lưu danh.
Năm 1548, vua Mạc Phúc Nguyên cử Quang Bí đi sứ. Đến Nam Ninh quân nhà Minh ngờ ông giả mạo sứ thần bắt giữ tra xét. Khi tới được Bắc Kinh ông lại bị lưu giữ chờ đợi. Đã mấy năm Đại Việt bỏ việc triều cống khiến quan hệ bang giao hai nước khá căng thẳng. Quang Bí biết rằng sứ mệnh của ông rất nặng nề trong cuộc thương thuyết này. Bởi thế cho dù hành trình vất vả với biết bao trắc trở rồi triền miên chờ đợi suốt 18 năm ròng (1548-1563), một cuộc đi sứ dài nhất trong lịch sử nước ta, phải chịu nhiều áp lực thử thách, lục vấn, đe dọa...Quang Bí vẫn kiên nhẫn chịu đựng tìm cách dãi bày, khiến đại học sĩ nhà Minh là Lý Xuân Phương rất nể phục tâu với vua cho ông được dâng sớ.
Nhờ “nhẫn” của Quang Bí, mâu thuẫn giải toả và hai nước tránh được nạn binh đao.
Đời vua Lệ Vuơng có người họ Hoà dâng lên một viên ngọc quý. Vua cho gọi thợ ngọc đến xem. Thợ ngọc xem xong tâu đấy là đá. Vua Lệ Vương giận quá sai chặt chân người họ Hoà. Đến đời vua Vũ Vương nối ngôi, người họ Hoà lại đem hòn ngọc ấy dâng lên. Vua gọi thợ ngọc đến xem. Xem xong thợ ngọc tâu đấy là đá. Người họ Hoà lại bị chặt chân. Đến đời vua Văn Vương nối ngôi. Người họ Hoà đem hòn ngọc ấy ra ngồi ở chân núi Sở Sơn khóc ròng rã mấy ngày đến chảy máu mắt. Thấy thế Văn Vương cho người đến hỏi có phải vì bị chặt chân mà khóc? Người họ Hoà tâu rằng không phải khóc vì bị nhà vua chặt chân, mà khóc vì ngọc thì bị cho là đá, người nói thật thì cho là nói dối, kẻ nói dối thì lại tin là thật. Vua Văn Vương cho người xem kỹ thì quả nhiên đó là ngọc quý.
Người họ Hoà nhờ “nhẫn” mà thật giả, đúng sai được khẳng định.
Đời Xuân Thu. Một đêm Sở Trang Vương cùng quần thần ăn tiệc. Chợt đèn tắt. Có kẻ thừa cơ ghẹo Vương phi. Vương phi dứt đứt dải mũ kẻ ghẹo mình để làm tang vật, rồi báo Sở Trang Vương biết mà truy tìm. Trang Vương liền lệnh cho quần thần phải dứt đứt hết dải mũ. Đèn bật sáng. Mọi người đều đội mũ không dải. Năm sau giặc Tần xâm lược. Một viên tướng đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, đánh thắng, đem thủ cấp giặc về trước Sân Rồng. Sở Trang Vương hỏi: “Vì sao khanh hết lòng vì trẫm?”. Viên tướng tâu: “Thưa bệ hạ, vì năm trước trong tiệc rượu, hạ thần đã trót trêu ghẹo Vương phi, nhưng được bệ hạ rộng lòng tha. Nay hạ thần quyết lập công để đền đáp lại ân sủng đó”.
Nhờ đức“nhẫn” và lòng vị tha của vua mà đất nước không mất một tướng tài.
Trần Thủ Độ mồ côi từ nhỏ ở với người chú họ là Trần Lý. Trần Lý có người con gái rất xinh đẹp là Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung gắn bó thương yêu nhau bằng mối tình sâu nặng. Thủ Độ làm quan đại triều nhà Lý, một người mưu lược và quyết đoán. Chính ông đã cùng Trần Thừa và Trần Tự Khánh (đều là anh trai Trần Thị Dung) mộ quân dẹp loạn cát cứ khôi phục cơ đồ nhà Lý, giúp Thái tử Sảm lên ngôi Hoàng đế. Thời gian lánh nạn ở nhờ nhà Trần Lý, ngây ngất trước sắc đẹp của Trần Thị Dung, Thái tử Sảm ngỏ lời cưới Dung làm vợ. Sự việc ấy tạo áp lực rất nặng lên Trần Thủ Độ. Để giữ vững quyền lực của mình và những người họ Trần trong triều Lý nhằm lo quốc gia đại sự, Trần Thủ Độ đành kiên “nhẫn” chịu đựng nỗi đau riêng, hy sinh mối tình đầu để người yêu lấy Thái tử Sảm. Thái tử Sảm lên ngôi hiệu là Huệ Tông, phong Trần Tự Khánh làm Chương tín hầu, Trần Thừa là Phụ quốc thái uý và Trần Thủ Độ là Điện tiền chỉ huy sứ.
Nhà vua bất tài, nhu nhựơc và sa đọa khiến đất nước suy thoái. Thiên tai mất mùa liên tiếp, nhân dân cực khổ, giặc giã nổi khắp nơi, ngoài biên ải quân Nguyên - Mông ráo riết chuẩn bị xâm lược. Trước tình hình nguy ngập đó, Trần Thủ Độ thấy rằng nếu cứ để nhà Lý yếu hèn trị vì đất nước thì chắc chắn không tránh khỏi họa diệt vong. Ông bàn với Trần Thừa: “Thời thế lúc này chỉ có họ Trần thay ngôi nhà Lý mới cứu đất nước khỏi suy vi”. Trần Thừa cho là phải. Tháng 10 năm Giáp Thân (1224) Trần Thủ Độ ép Lý Huệ Tông nhường ngôi cho công chúa Lý Chiêu Hoàng rồi vào chùa đi tu. Sau đó lợi dụng tình cảm đặc biệt của Lý Chiêu Hoàng với Trần Cảnh, Trần Thủ Độ dàn xếp để Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh. Đứng về ý nghĩa lịch sử đây là cuộc đảo chính tích cực không đổ máu phù hợp với quy luật phát triển.
Nhờ đức“nhẫn”của Trần Thủ Độ mà họ Trần lấy được ngôi báu, củng cố xây dựng Đại Việt trở nên quốc gia hùng mạnh ba lần đánh thắng giặc Nguyên - Mông xâm lược.
Đầu thế kỷ 20 công nghiệp ôtô Nhật Bản xếp hàng rất xa sau Mỹ. Để chấn hưng người Nhật đã dùng nhiều biện pháp mà vô hiệu. Một hãng ôtô lớn của Nhật chọn mấy nhân viên giỏi của mình sang Mỹ học tập. Học là giả, thu thập tình báo công nghiệp là thật. Trong số đó có Mộc Thôn. Đến làm ở một công ty ôtô Mỹ hai năm, người Mỹ rất cảnh giác không bao giờ cho Mộc Thôn tiếp cận những thiết bị quan trọng. Sắp về nước mà chưa nắm được điều then chốt, Mộc Thôn rất nóng ruột. Một hôm anh nhận được điện báo từ Nhật Bản, của công ty anh. Nội dung: Ngài Mộc Thôn! Nếu ngài không lấy được cái mà công ty cần thì công ty không dùng ngài nữa”. Mộc Thôn không thể trách, bởi công ty đã chi khoản tiền rất lớn cho anh... Buồn. Mộc Thôn vào tửu quán. Ra về đã khuya, say lảo đảo. Bỗng một chiếc xe con choáng lộn lao đến, phanh kít. Nhưng không kịp. Một bánh trước cán qua đùi Mộc Thôn.
Khi tỉnh Mộc Thôn thấy mình nằm trong bệnh viện. Một người Mỹ bước đến hỏi: “Ông đã đỡ chưa?”. Người này tự giới thiệu là thư ký Tổng giám đốc một hãng ôtô lớn, không may đã gây tai nạn cho Mộc Thôn. “Tổng giám đốc chúng tôi gửi tới ông lời xin lỗi và hỏi ông có cần gì Tổng giám đốc chúng tôi sẽ hết lòng để ông được thoả mãn”. Mộc Thôn liền nghĩ tới “Khổ nhục kế” trong “Binh pháp Tôn Tử”. Muốn thế phải “nhẫn”. Anh tỏ ra buồn rầu nói với người thư ký: “Tôi gãy mất một chân rồi, không ai nhận làm việc. Quý công ty có thể cho tôi một việc làm đến lúc nghỉ hưu được không?”. Mấy ngày sau viên thư ký đến thăm và nói: “Tổng giám đốc có thể nuôi ông đến già không cần phải làm việc”. Mộc Thôn từ chối: “Cám ơn Tổng giám đốc, nhưng tôi là người tự trọng, không muốn sống bám. Tôi có thể đến công ty làm vệ sinh. Nếu không được tôi thà chết còn hơn”. Tổng giám đốc thấy nể trọng Mộc Thôn, ông đồng ý. Từ đó Mộc Thôn đến công ty làm vệ sinh rất chăm chỉ. Anh được vào quét dọn các phân xưởng quan trọng. Thấy anh chất phác, chịu khó lại tàn tật nên chỉ thấy quý mến chứ chẳng mấy ai nghi ngờ. Năm sau Mộc Thôn xin về nước thăm gia đình. Công ty mua vé máy bay cho anh. Trước khi đi công ty đã bố trí người bí mật kiểm tra rất kỹ hành lý của anh nhưng không phát hiện điều gì đáng nghi cả. Về đến Nhật Bản, Mộc Thôn rút trong ruột chiếc chân giả một cuốn microphim. Sau hai năm ôtô Nhật Bản ồ ạt vào Mỹ. Một hôm Tổng giám đốc tập đoàn ôtô Mỹ đàm phán với phái đoàn ôtô Nhật Bản, bỗng ông phát hiện ra Mộc Thôn què chân. Ông giật mình tỉnh ngộ. Nhưng đã muộn.
Nhờ “nhẫn” mà Mộc Thôn đã giúp cho hãng ôtô của mình giành thắng lợi trong thương trường.
Về quan hệ bằng hữu, người Việt ta mấy ai không biết câu chuyện “Lưu Bình – Dương Lễ”. Cùng học, Dương Lễ có chí thi đỗ làm quan, Lưu Bình ngược lại, thi trượt lâm cảnh khốn quẫn tìm đến nhà bạn nhờ cậy. Dương Lễ không tiếp, sai gia nhân đem cho Lưu Bình bát cơm nguội với cà thâm như bố thí kẻ hành khất. Bị bạn cố ý sỉ nhục, Lưu Bình nén hận ra về quyết chí học hành. Chàng gặp nàng Châu Long, một phụ nữ thục hiền đẹp người đẹp nết. Châu Long động viên, chăm sóc tận tình để Lưu Bình dốc lòng chuyên tâm học, hứa sau khi chàng đỗ đạt thành tài, vinh quy bái tổ sẽ thuận thành thân kết tóc. Mấy năm đèn sách chuyên cần Lưu Bình thi đỗ, được vua ban mũ cao áo dài. Nhưng khi về nhà Châu Long đã bỏ đi chỉ để lại bức thư giã biệt. Lưu Bình đến nhà Dương Lễ. Sau khi đã xa xôi bóng gió cái người “cậy phú khinh bần” phụ tình bằng hữu, Lưu Bình cáo biệt ra về. Dương Lễ níu giữ để phu nhân của mình được ra chào “quan tân khoa”. Lưu Bình tưởng mình đang mơ. Bởi phu nhân của Dương Lễ chính là nàng Châu Long xinh đẹp. Rồi khi biết rằng bát cơm nguội, quả cà thâm xưa kia chính là Dương Lễ cố ý xúc phạm nhằm khơi dậy trong Lưu Bình ý chí vươn lên và Châu Long lãnh trách nhiệm đi nuôi bạn thay chồng, Lưu Bình nghẹn ngào quỳ phục khấu đầu “lạy anh, lạy chị” đã dành cho mình tình thương yêu trời biển và đã dạy cho mình bài học làm người. Chuyện cảm động và sâu sắc.
Lưu Bình “nhẫn để vượt qua tuyệt vọng quyết chí học thành tài. Dương Lễ nhẫn”để hết lòng vì bạn. Châu Long “nhẫn” để trọn đạo với chồng.
Đạo lý người Việt Nam ta là thế, “nhẫn” không chỉ vì mình mà còn “nhẫn” vì người. Đạo lý ấy đặc biệt được thể hiện qua cuộc đời đầy oan nghiệt của nàng Thị Kính. Dùng kéo tỉa râu cho chồng nàng bị vu “tội sát phu”. Đau đớn, khổ nhục, Thị Kính xuống tóc đi tu nương nhờ cửa Phật. Tưởng đã yên thân, nào ngờ Thị Mầu con gái phú ông lẳng lơ dâm đãng, hoang thai cùng gã tá điền nhưng dám trơ tráo đổ tội và đem hài nhi trả Tiểu Kính. Thấm nhuần giáo lý nhà Phật “cứu một người phúc đẳng hà sa” Tiểu Kính nhịn nhục ngày ngày mang bát đi xin sữa, rau cháo nuôi con. Nhờ đức “nhẫn” và tấm lòng từ bi Tiểu Kính đắc pháp hoá Phật. Khi ấy mọi người mới biết bà là nữ. Hai lần oan nghiệt bà kiên “nhẫn” chịu đựng vượt qua để giữ trọn nhân cách, phẩm giá và thực hiện việc đại nhân đại nghĩa.
Việc bà hoá Phật là biểu tượng sự tôn vinh giá trị cao đẹp về đạo “nhẫn” của người Việt Nam, là tấm gương mà các thế hệ tôn thờ.
“Nhẫn” đã thấm sâu vào cuộc sống tinh thần chúng ta. Bởi thế hiểu về “nhẫn”, truyền bá, phát huy “nhẫn” là việc rất nên làm.
“Nhẫn” luôn là nhân tố tạo thành công.
Chu Văn Vương nhờ “nhẫn” lặn lội đến tận Bàn Thạch, đích thân gò lưng kéo xe mới cầu được Khương Tử Nha về giúp và nước Chu trở nên siêu cường. Lưu Bị “nhẫn” ba lần đến chầu chực dưới lều cỏ, biết rõ Gia Cát Lượng có nhà, không tiếp, vẫn chờ, nhờ thế mới cầu được ông làm quân sư giúp nước Thục đủ sức đương đầu với Ngô và Ngụy. Quý Bố “nhẫn” quỳ lạy lâu đến nỗi Phạm Tăng mủi lòng đành nhận lời giúp Hạng Vũ. Trương Lương “nhẫn” cam đi nhặt giầy, cả tuần liền đến nơi hẹn đúng giờ để được Hoàng Thạch Công tin trao cho sách quý “Thái Công binh pháp” nhờ thế trở thành cố vấn giúp Lưu Bang dựng nghiệp lớn. Tôn Tẫn “nhẫn” mới bảo toàn mạng sống và rửa được hận với Bàng Quyên. Việt vương Câu Tiễn “nhẫn” mới diệt được Ngô Phù Sai giành lại giang sơn...
Trong khi Trương Phi võ nghệ cao cường, sức địch muôn người, nhưng bản tính nóng nảy, hung tợn. Chỉ vì không biết “nhẫn”, xúc phạm thô bạo hai phó tướng của mình và hai phó tướng ấy cũng không biết “nhẫn” đã rút gươm giết chết chủ soái. Dũng tướng Chu Du vốn chỉ quen đuợc tung hô chúc tụng chiến thắng. Nay thất bại do thiếu “nhẫn” không chịu nổi áp lực nhục nhã, ức quá thổ ra máu mà chết.
Cái chết của Trương Phi và Chu Du là kết cục của thiếu “nhẫn”.
Quan hệ xã hội “nhẫn” quan trọng và cần thiết như thế, còn trong gia đình thì sao?
Gia đình là tế bào xã hội, là tổ ấm không chỉ một mà nhiều thế hệ cùng gắn bó. Gia đình yên ấm là yếu tố cơ bản của hạnh phúc. Bởi thế mỗi thành viên từ ông bà, bố mẹ, anh chị em, con cháu đều phải biết “nhẫn”, biết nhường nhịn, cảm thông, sẻ chia, thương yêu nhau. Triều nhà Đường (Trung Quốc) gia đình Trương Công Nghệ chín đời sống chung (cửu đại đồng đường). Vua Cao Tông khen và hỏi: làm sao giữ được hoà thuận? Trương Công Nghệ dâng vua tờ giấy viết rất đậm một chữ “Nhẫn”. “Nhẫn” được học, được rèn từ khi còn bé ngay trong cuộc sống gia đình.
Trong vô vàn các mối quan hệ tưởng rất phức tạp, song thật ra chúng chỉ gồm hai nhóm chính: bất biến và khả biến. Bất biến là các mối quan hệ không thể mất và không thay đổi, như ông bà, bố mẹ với con cháu, anh chị em họ hàng ruột thịt với nhau. Còn quan hệ khả biến thì ngược lại, có thể mất hoặc thay đổi như vợ chồng, bè bạn. Tuy phạm vi hẹp nhưng quan hệ gia đình lại rất phức tạp. Nhiều áp lực tạo ra từ đây, nhiều bi kịch cũng diễn ra từ đây. Đau đầu, mất ngủ, rối loạn tiền đình, thần kinh phân liệt đến tan nát chia lìa, con cái bơ vơ cũng từ đây. Thảm họa gia đình vô cùng đáng sợ. Bởi thế càng đòi hỏi mỗi thành viên đều phải biết “nhẫn”. Hãy nghiêm khắc tự trách mình đồng thời rộng lòng tha thứ cho người để “nhẫn”. Không có “nhẫn” hậu hại khôn lường, đến khi tỉnh ngộ thì đã muộn.
Năm 1852, Hoàng đế Napoleon đệ tam si mê nữ bá tước Mari Eugenie, người đàn bà vào loại đẹp nhất thế giới. Cận thần có người can ngăn vì rất băn khoăn về bản tính của người phụ nữ đầy quyến rũ ấy. Nhưng Hoàng đế không nghe, quyết cưới nàng. Quyền uy, tiền bạc, sắc đẹp, tình yêu... tất cả những yếu tố đó tưởng sẽ xây dựng nên lâu đài hạnh phúc. Thế mà không. Lòng kiêu ngạo về nhan sắc và tính ghen tuông đến cực đoan của Mari Eugenie đã biến thành cực hình đối với gia đình họ. Bà nghi ngờ, đay nghiến, mạt sát ông. Bất kể ông là Hoàng đế bà xông vào phòng của ông trong khi ông đang bộn bề công việc quốc gia hoặc đang bàn bạc đại sự với các cận thần. Bà không bao giờ để ông một mình vì sợ ông ngoại tình. Có lần bà đạp cửa xông vào thư viện gào thét chửi bới khi thấy một nữ nhân viên đang tìm sách cho ông. Tính ghen tuông đến điên cuồng của bà suốt ngày đêm bao vây khiến ông không được lấy một phút tự do. Ông cảm thấy gia đình như địa ngục và nàng Mari Eugenie xinh đẹp tuyệt trần xưa kia ông đã từng mê mẩn, thì bây giờ hoàn toàn không làm ông mảy may rung động nữa. Và, cuối cùng sự khát khao tình yêu ngọt ngào đã đẩy ông đến với một phụ nữ khác thật xinh đẹp, hiền thục, dịu dàng. Ông thường lén lút ra khỏi cung, đội chiếc mũ nỉ sụp xuống che mắt cùng một người hầu cận trung thành đi theo đến nơi hò hẹn với giai nhân. Bản tính và lối ứng xử của bà Mari Eugenie đã đem tới kết cục như vậy đó. Cả chức Hoàng hậu, sự giầu có và sắc đẹp của bà cũng không cứu nổi tình yêu và hạnh phúc gia đình.
Bi kịch thảm thương nhất của Bá tước đại văn hào A. Tolstoi cũng là hôn nhân. Cặp vợ chồng đó cũng đầy đủ những điều kiện để xây nên lâu đài hạnh phúc. Chồng là nhà văn nổi tiếng thế giới, vợ vô cùng xinh đẹp, giàu sang, địa vị cao trong xã hội, lại có đủ con trai con gái. Nhưng càng sống bản tính hai người càng trái ngược nhau. Bà ưa xa hoa, ông thì ghét. Bà thích giao du và thích mọi người coi mình là quan trọng, còn ông thì không màng gì tới cái thứ tầm phào ấy. Bà mong có nhiều vàng bạc châu báu sống thật phóng túng, còn ông thì cho sống như thế là tội lỗi. Bà đay nghiến mạt sát ông khi ông cho in sách mà không đòi quyền tác giả, còn bà thì không muốn bỏ những món tiền lớn đó. Khi ông phân tích để bà hiểu thì bà nổi khùng như lên cơn động kinh, lăn trên mặt đất, ngậm ở môi một ve thuốc phiện dọa tự tử. Cuộc sống đầy bạo lực tâm lý như thế cứ triền miên khiến nhà văn không sao chịu nổi. Một buổi tối tháng 10 năm 1910, tuyết sa đầy trời, ông bỏ nhà ra đi. Mười ngày sau ông bị viêm phổi và chết tại một nhà ga. Lời cuối cùng của ông là: “Đừng để tôi thấy mặt vợ tôi”. Một thời gian sau bà cũng qua đời. Trước khi lâm chung bà nói với các con rằng: “Chính mẹ đã làm cha các con chết. Mẹ đã đầu độc ông ấy bằng những lời đay nghiến chua cay, bằng những cuộc xung khắc bất tận. Các con hãy nhớ lấy bài học đau đớn này và đừng bao giờ mắc phải”. Lời trăng trối thật sâu sắc nhưng với bà đã quá muộn.
Hành vi và ngôn ngữ “bất nhẫn” của Hoàng hậu Mari Eugenie và bá tước phu nhân A.Tolstoi đã khiến họ tự đào huyệt chôn chính hạnh phúc gia đình mình. Nếu họ biết “nhẫn” bình tĩnh tỉnh táo xem xét xử lý một cách đúng mực thì chắc chắn họ sẽ có cả thiên đường hạnh phúc.
Toà án Chicago (Mỹ) cho biết, trong hai vạn vụ ly hôn họ đã xử thì có tới quá nửa nguyên nhân chính là do vợ chồng không biết “nhẫn” suốt ngày chì chiết đay nghiến nhau.
Trong gia đình áp lực lớn nhất thường xảy ra khi hai loại quan hệ bất biến và khả biến xung đột. Muốn xử lý phải biết vận dụng một cách đúng đắn và khôn khéo chính hai loại quan hệ đó. Xin dẫn trường hợp sau đây: thượng tá Long đóng quân gần biên giới, vợ, hai con cùng mẹ già ở quê. Bất hoà xảy ra giữa mẹ và vợ anh. Nguyên do chẳng có gì quan trọng cả, chỉ là những hiểu lầm và ứng xử không khéo. Chẳng hạn vợ anh vội đi làm, ngâm khăn áo trong chậu. Bà cụ thương đem giặt. Phần do mắt kém, phần tiết kiệm xà phòng, tay lại yếu vò chưa được kỹ đã phơi trên dây. Khi về thấy chưa sạch con dâu liền đem giặt lại. Thế là cụ tủi thân ngồi khóc, rằng “chị khinh tôi quê mùa ở bẩn, hầu chị mà chị cũng không khiến...”. Lúc đầu đại khái chỉ như thế, rồi do cả hai đều không biết “nhẫn”, lời qua tiếng lại, việc nọ xọ sang việc kia, bé xé ra to, vài ba kẻ xấu “kích” vào, thế là bất hoà thành mâu thuẫn. Không khí gia đình nặng nề. Hai đứa con anh mặt lúc nào cũng âu sầu buồn bã. Mỗi khi về thăm nhà Long như bị tra tấn. Mẹ chồng chì chiết con dâu. Con dâu trách cứ mẹ chồng. Long ở giữa, nói đỡ vợ vài câu thế là mẹ bỏ cơm vào buồng nằm khóc. Nói đỡ mẹ vài câu, lập tức vợ bỏ về nhà mẹ đẻ. Đầu đau búa bổ, gia đình như có tang. Bế tắc, bất lực Long lấy rượu giải sầu, uống thật say cốt để ngủ cho quên hết. Nhưng không được. Anh tìm đến một người bạn chia sẻ. Bạn anh là người sâu sắc, nói với anh về bản chất, bản tính, bất biến, khả biến. Anh là chủ gia đình dù chỉ một chút nông nổi, thiếu kiềm chế, nghĩ suy và ứng xử thiếu chín chắn là có thể tan nát tất cả. Mẹ khổ, con khổ, vợ khổ và bản thân anh cũng khổ. Bởi thế tất cần phải biết “nhẫn” và khuyên nên... Như trong hầm tối thấy đựợc lối ra, Long về. Anh ngồi cạnh mẹ, nâng đôi bàn tay gầy guộc chai thô bởi lam lũ của mẹ và thấy thương mẹ vô hạn. Giọng xúc động anh nói về công lao trời biển của mẹ, về sự hy sinh của mẹ dành cho con cháu. Anh giải thích để mẹ hiểu rằng tình mẹ con thuộc quan hệ bất biến không bao giờ mất cũng không thể thay thế. Anh nói về những điểm tốt thuộc bản chất và những thiếu sót thuộc bản tính của vợ anh. Anh xin mẹ cho vợ chồng anh được cúi đầu nhận lỗi và thành tâm sửa chữa sai lầm...
Nước mắt chảy xuôi, cha mẹ bao giờ cũng thương con và độ lượng tha thứ. Mẹ im lặng vuốt nhẹ mái tóc như ngày Long còn thơ dại khiến anh nghẹn ngào. Long phóng xe sang thăm bên ngoại và gặp vợ. Bằng tình thương yêu sâu sắc anh đề cao những điểm tốt thuộc bản chất và những hạn chế thuộc bản tính chị cần khắc phục. Anh phân tích để chị hiểu rằng với anh mẹ là bất biến, với chị là khả biến và chị cũng thế, với bố mẹ là bất biến và với anh là khả biến. Tuy nhiên hai người lại có chung mối quan hệ bất biến thứ hai là các con. Bởi thế lâu nay anh kiên nhẫn khuyên giải, chờ đợi sự dung hoà cốt để cả hai loại quan hệ bất biến và khả biến cùng tồn tại và gắn bó tốt đẹp. Nhưng nếu xung đột không thể dung hoà, buộc phải chọn thì dù không muốn vẫn phải chọn quan hệ bất biến. Ở đời mọi sự bất hoà, dù nhiều, dù ít lỗi đều từ các phía. Biết mình có lỗi, lại là phận con cái chủ động nhận lỗi trước vừa đúng đạo lý, vừa khôn ngoan. Hơn nữa mẹ cả đời lam lũ vất vả, hết lòng thương con thương cháu. Tuổi già thường khó tính. Biết đâu sau này mình già còn khó tính hơn mẹ. Ứng xử của mình hôm nay sẽ là tấm gương cho các con... Kết quả thật bất ngờ. Những điều anh nói chị nhận thức được hết và ngay chiêù ấy hai vợ chồng Long cùng xin lỗi mẹ. Bà cụ khóc, cũng xin lỗi lại các con. Thế là mâu thuẫn được hoá giải. Ứng xử trong gia đình cũng như ngoài xã hội chỉ mấy từ “cám ơn”, “xin lỗi” thôi, nhưng nếu biết dùng sẽ là chìa khoá vạn năng có thể mở được những bế tắc rất phức tạp. Hàm ơn thì “cám ơn” nhớ ơn, đền ơn, có lỗi xin “nhận lỗi” và sửa lỗi, bất luận đối tượng là ai, kể cả con cháu mình. Trong khi chờ người khác cám ơn mình, thì mình hãy cám ơn họ trước và xin lỗi cũng vậy. Đó chính là biết sử dụng phương thức của “nhẫn”. Muốn làm được thế đòi hỏi phải có tâm thiện, lòng rộng, khiêm nhường, không coi thường người khác dù họ nhỏ bé yếu đuối. Biết bao thân phận mồ côi nghèo đói đã làm nên nghiệp lớn: Lý Bí (Lý Bôn), quê Long Hưng (Thái Bình), 5 tuổi bố chết, 7 tuổi mẹ chết phải ở với chú. Vị pháp tổ thiền sư thấy Lý Bí khôi ngô xin làm con nuôi đưa về chùa Linh Bảo dạy dỗ. Hơn mười năm đèn sách Lý Bí thông tuệ, văn võ song toàn, được nhiều người trong vùng biết tiếng. Bấy giờ dân ta vô cùng thống khổ, tháng 1 – 542 Lý Bí phất cờ khởi nghĩa được dân hưởng hứng rất đông, đánh Thứ sử Tiêu Tư khiếp sợ chạy về nước. Nhà Lương cho tướng sĩ sang phản công, lại bị Lý Bí đánh tan. Ông xưng đế đặt tên nước là Vạn Xuân. Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp (Từ Sơn-Bắc Ninh). Vừa ra đời đã mồ côi cả cha mẹ. Thiền sư Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh đưa về chùa nuôi dạy. Vốn thông minh, có chí lớn, Lý Công Uẩn nổi tiếng xuất chúng. Đời nhà Lê ông làm tới chức Điện tiền chỉ huy sứ, khi Lê Long Đĩnh chết, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên làm vua mở đầu kỷ nguyên nhà Lý cực kỳ rực rỡ. Lê Hoàn quê Thọ Xuân (Thanh Hoá). Bố mẹ chết sớm, Lê Hoàn đi làm con nuôi cho một vị quan nhỏ, lớn lên theo Việt Nam vương Đinh Liễn lập nhiều công lớn. Khi dẹp xong loạn 12 xứ quân ông được vua Đinh Tiên Hoàng phong làm Thập đạo tướng quân, lúc đó ông mới 30 tuổi. Khi Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị tên gian thần Đỗ Thích sát hại, vua Đinh Toàn mới 6 tuổi, trước họa giặc Tống, Thái hậu Dương Vân Nga quyết định nhường ngôi của con mình cho Lê Hoàn. Ông lên làm vua hiệu là Lê Đại Hành, vẫn lấy tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình). Nguyên phi Ỷ Lan, quê làng Thổ Lỗi (Thuận Thành-Bắc Ninh) mồ côi mẹ năm 12 tuổi, bố lấy vợ kế, khổ như cô Tấm. Năm ấy vua Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai nên đi Chùa Dâu cầu tự. Nhà vua gặp cô gái nghèo ấy vời lại hỏi. Thấy người xinh đẹp nết na, đối đáp lưu loát cảm mến đưa về cung phong làm Nguyên phi Ỷ Lan. Bà không lấy việc chau chuốt nhan sắc làm trọng, ngày đêm miệt mài đọc sách khổ công học hỏi. Thời gian ngắn triều thần đều kinh ngạc về sự hiểu biết uyên thâm của bà. Năm 1069 vua Lý Thánh Tông đi đánh giặc Chiêm Thành, Ỷ Lan được giao quyền nhiếp chính. Năm 1072 vua qua đời, Lý Nhân Tông mới 7 tuổi kế ngôi, Ỷ Lan trở thành Hoàng hậu nhiếp chính, dựa vào Tể tướng Lý Thường Kiệt, năm 1077 đánh tan giặc Tống xâm lược giữ trọn giang sơn đất nước. Trần Thủ Độ quê làng Lưu Xá (Hưng Hà - Thái Bình), mồ côi cha mẹ từ nhỏ ở với chú họ là Trần Lý. Ít học, nhưng ông là người mưu lược và quyết đoán. Cuối triều Lý vua ăn chơi sa đọa, thiên tai, mất mùa lương dân đói khổ. Giặc Nguyên Mông lăm le đe doạ biên ải. Trước tình hình ấy nếu cứ để đất nước trong tay triều Lý thì nhất định sẽ bị giặc phương Bắc xâm lược và như thế dân ta sẽ chìm trong bể khổ. Bằng mưu lược siêu phàm, Trần Thủ Độ đã thực hiện cuộc bàn giao lịch sử không đổ máu chuyển quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần. Để rồi nhà Trần, trong đó vai trò Trần Thủ Độ vô cùng quan trọng đã tổ chức chấn hưng đất nước và ba lần đánh tan giặc Nguyên - Mông. Còn rất nhiều những tên tuổi lớn trong lịch sử nước ta như Phạm Ngũ Lão, Trần Nguyên Hãn, Đinh Bộ Lĩnh, Mai Thúc Loan, Trịnh Kiểm... Hoặc lịch sử Trung Quốc như Y Doãn, Khổng Tử, Khương Tử Nha, Tư Mã Thiên, Trang Tử, Điền Đan, Đỗ Phủ, Hàn Tín, Lưu Bị, Trần Bình, Chu Bột, Công Tôn Hoằng, Chu Nguyên Chương, Lý Tự Thành... đều xuất thân nghèo khổ nhờ có chí lớn mà trở thành những bậc đại nhân đại sĩ, hoặc minh vương, hoàng đế. Bởi thế ở đời đừng bao giờ coi thường kẻ mọn. Một nguyên soái tả xung hữu đột tung hoành trận mạc, không may sa cơ, bị đối phương nhử đuổi rồi tung lưới bắt. Chúng để nguyên ông ta trong lưới ném vào hầm tối. Các chiến hữu bất lực. Một con chuột nhắt thương tình kiên trì cắn đứt mắt lưới cứu được. Một con voi chỉ sợ quản tượng bởi anh ta có búa sắt, móc sắt. Nào ngờ con kiến chui vào mũi làm cho đau đớn phát điên mà bất lực. Cho nên ở đời chớ coi thường người thấp kém, nhỏ bé, nghèo khó và cũng không nên sùng bái kẻ lớn xác, giàu có, chức cao quyền thế. Sức mạnh không phải ở đấy. Giá trị con người cũng không phải ở đấy, mà là ở cái “Tâm”, ở tấm lòng, ở ý chí, bản lĩnh, mưu lược.
Đặc biệt không bao giờ đề cao mình và xem thường người khác.
Trong “Kinh địa tạng” đức Phật dạy: hãy coi mình là đất và mong được như đất. Đất thấp nhất, chịu đựng sự đào bới, giày xéo, giẫm đạp. Đất hiền lành chấp nhận mọi nỗi đau và sự coi thường. Đất trải rộng bao la và sẵn lòng kết thân nhiều bầu bạn. Đất tự nguyện làm nền cho mọi vật có chỗ đứng. Đất luôn hết lòng vì sự sống muôn loài. Đất sẵn sàng làm bệ phóng cho bất kỳ ai muốn bay cao, bay xa. Đất hiền lành, bao dung, độ lượng. Đất tồn tại lâu bền. Đất không động, không nôn nóng, dễ đổi thay như nước, gió, lửa mà tĩnh lặng, chín chắn, sâu sắc, vững vàng. Đất “nhẫn” nhịn vị tha. Nhưng sự phẫn nộ của đất cũng vô cùng khủng khiếp nếu bị bị tàn phá - động đất. Động đất đồng nghĩa với huỷ diệt. Bởi thế muốn giữ đất phải trồng cây. Cũng như muốn có “tâm nhẫn” phải làm điều thiện. Bản năng con người nhiều ham muốn: sức khoẻ, giầu sang, nhục dục, thành đạt... Trong đó thích được đề cao và người khác coi mình là quan trọng đeo bám suốt đời. Những người như thế thường máu sĩ diện và giầu tự ái. Họ không phân biệt được sĩ diện thuộc bản tính, danh dự mới thuộc bản chất. Tự ái là bản tính, tự trọng mới thuộc bản chất. Sự nhầm lẫn ấy khiến họ không đủ “nhẫn”. Kết quả thường lợi ít, hại nhiều, vinh ít, nhục nhiều. Giống như hai con dê qua cầu. Do không biết “nhẫn” nhường nhau nên cả hai cùng lộn cổ xuống sông. Những người khiêm nhường coi danh dự là chính, sĩ diện là phụ, tự trọng là chính tự ái là phụ. Biết đặt mọi thứ vào cái gốc của nó là sự bình thường để xem xét nên rất tỉnh táo và thanh thản, nhờ thế “nhẫn” không còn là khó.
Có người hỏi Tôn Thúc Ngao: “Ba lần ông giữ chức Lệnh doãn (Tể tướng) mà không lấy làm vinh. Ba lần bị biếm chức mà không lấy làm buồn, là tại sao?” Thúc Ngao đáp: “Tôi cho việc được hay mất đều ở ngoài tôi nên không vui cũng chẳng buồn. Tôi cũng không biết cái chức ấy là của người hay của tôi? Nếu nó là của người thì không liên quan đến tôi. Nếu nó là của tôi thì không liên quan đến người. Có gì quan trọng đâu”. Danh tướng Trần Hưng Đạo dạy: “Hiểu được mình là anh. Thắng được mình là hùng”. Hãy bản lĩnh và trung thực với chính mình. Nhà thơ Phùng Quán viết:
“Cái vui muốn cười là cườì
Nỗi buồn muốn khóc là khóc
Ghét ai cứ nói là ghét
Yêu ai cứ bảo là yêu
Dù có được nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù có người cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu
Phải chăng nhờ thế mà ông biết nhẫn?
Mọi tổn thương do thiếu «nhẫn» bao giờ cũng để lại di chứng đau buồn, dù sau đó xót xa thì đã muộn. Có một người tính rất nóng nảy thường không giữ được nhẫn, rồi sau cơn thịnh nộ lại vô cùng ân hận. Anh cố khắc phục bằng cách mỗi khi giận không kìm được liền đóng một chiếc đinh vào ván. Những ngày đầu số đinh nhiều, sau giảm dần. Anh làm cách thứ hai là mỗi khi kìm nén được cơn giận lại nhổ một chiếc đinh đã đóng ra khỏi ván. Cuối cùng số đinh đã đóng vào ván được nhổ hết. Nhưng những vết đinh đã đóng thủng ván thì vẫn còn. Giống như những lời nói, những hành động của anh khi nóng nảy làm tổn thương, tổn hại người khác thì rất khó hàn gắn. Thành ngữ có câu: «Miếng ngon nhớ lâu. Lời đau nhớ đời». Dao nhọn, gươm sắc rút ra chưa đâm chưa chém có thể tra lại vào vỏ, nhưng lời nói ác đã rời khỏi miệng thì như mũi tên bay đi không thể thu về.
Nhẫn quan trọng là thế. Bởi vậy hãy coi nhẫn là đạo, dù khó khăn mấy cũng quyết chí tu rèn. Hãy coi nhẫn là văn hoá, dù phải đọc thiên kinh vạn quyển, phải suy ngẫm cả đời vẫn phải đọc, phải suy. Và, hãy coi nhẫn là phương châm sống:
Có khi nhẫn để yêu thương
Có khi nhẫn để liệu đường lo toan
Có khi nhẫn để vẹn toàn
Có khi nhẫn để tránh tàn sát nhau.
Hà Nội đêm 30 tháng 7 năm 2008
Tại số 10 Ngõ 73 Giang Văn Minh.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét