Vương Trí Nhàn
Một cách nhìn nhận về người nước ngoài --
trường hợp truyện ngắn Người đầm của Thạch Lam
Không phải
chỉ có ân cần niềm nở mến khách. Thái độ của người dân mình với người
nước ngoài đến làm việc và du lịch được báo chí miêu tả gần đây cho thấy
một thực tế khác. Trong cơn khủng hoảng xã hội, nhiều người Việt đang
tìm cách đổ vạ cho bất cứ người nào chúng ta ngẫu nhiên gặp trên bước
đường kiếm sống của mình. Đám khách phương xa vô tội kia tự nhiên trở
thành đối tượng để người dân ở các đô thị xoay sở kiếm chác kể cả chặt
chém lừa lọc, thậm chí có cả cướp giật.
Tại sao lại có tình trạng ấy? Hàng ngày người mình đối xử với nhau đã không ra gì. Cái đó có. Nhưng đằng sau đó còn cái quan niệm hẹp hòi của mình về người nước ngoài, đại khái cho rằng họ là hậu duệ của những kẻ đến đây theo chân quân xâm lược. Và điều quan trọng là họ thì quá sướng trong khi chúng ta quá khổ, thành thử trong nỗi đau khổ của chúng ta, họ có lỗi.
Chúng tôi sẽ có dịp phân tích cái tâm thế này trong một dịp khác.
Trước mắt, xin bạn đọc trở lại với một truyện ngắn của Thạch Lam để thấy rõ cái tâm thế nói trên đã từng là một nếp nghĩ chi phối người Việt một thời gian dài trong lịch sử (và do chúng ta không đặt vấn đề một cách nghiêm túc nó cứ hồn nhiên phát triển).
Với tư cách một ngòi bút trí thức, nhà văn Thạch Lam không chỉ dừng ở việc ghi lại quan niệm của người đương thời mà còn tìm cách vượt lên để đề nghị một cách nhìn một cách nghĩ về người nước ngoài mà ông cho là thích hợp. Điều đáng kể là ngay trong bản thân ông cũng có một quá trình chuyển biến và cái quan niệm mà ngày nay với chúng ta cũng còn là mới mẻ, quan niệm ấy chỉ đến với tác giả trong quá trình sửa chữa lại tác phẩm sau khi đăng báo để đưa vào sách.
Mối thiện cảm kín đáo
Truyện ngắn Người đầm đã
được Thạch Lam hoàn thiện như thế nào để diễn tả một cách tinh tế nhất
mối liên hệ tinh thần của chúng ta với những người vừa xa lạ vừa gần
gũi: người Pháp?
Người đầm là một truyện ngắn của Thạch Lam, vốn in lần đầu trên báo Ngày nay (1937), sau in lại ở tập Nắng trong vườn (1938).
Nội dung Người đầm có thể tóm tắt như sau:
Một
lần, tác giả tới xem chiếu bóng ở rạp Pathé (trông ra Hồ Gươm; sau đổi
là rạp Hòa Bình, nay thành Nhà hát múa rối), ở đó, ông gặp một người
đầm, cùng đi xem với con gái. Có cái lạ là hai mẹ con người này chỉ ngồi
ở ghế hạng nhì, chỗ vẫn thường dành cho người bản xứ. Chẳng những thế, ở
bà toát ra vẻ khiêm nhường nhũn nhặn,“cái nhìn của bà rụt rè e lệ quá, khiến tôi ái ngại và cảm động”. Giờ
nghỉ, ra ngoài, bà mua kẹo cho con, vẻ rất thân thiện với chú bé bán
kẹo, nhất là khi thấy chú chạy vội đi vì sợ cảnh sát thì bà buồn hẳn.
Cũng như nhiều truyện ngắn khác của Thạch Lam, Người đầm kết
thúc bằng cái cảnh ngoài trời “mưa bụi và gió lạnh”, còn hai mẹ con
người đàn bà “lủi thủi đi trên con đường vắng” ra về. Từ đó, tác giả -
nhân vật xưng tôi trong truyện – không gặp lại bà nữa.
Người chủ hiểu biết, độ lượng và cái nhìn hợp lý về kẻ xa lạ
Mấy
thế kỷ đã qua, kể từ khi hai dân tộc Pháp-Việt có dịp tiếp xúc với
nhau. Trong tâm thức người Pháp, người Việt thường hiện lên với những
đường nét thế nào? Những hình ảnh này đã thay đổi ra sao theo thời gian?
Bấy nhiêu câu hỏi lẽ ra phải sớm được đặt ra, và tìm lời giải đáp, qua
các tác phẩm văn chương (cố nhiên là loại viết bằng tiếng Pháp), bởi gạt
sang một bên những cái nhìn thực dân, có thể tin chắc là trong chừng ấy
thời gian tiếp xúc, tâm hồn Pháp đã là một tấm gương tốt để người Việt
tới soi mà nhận ra bóng dáng bản thân.
Tiếc thay, vì quá bận bịu, ở ta chưa ai ngó ngàng tới chuyện ngày cả.
Tình
hình cũng chả khả quan gì hơn khi nhìn vào phần viết ngược lại, tức câu
chuyện “bóng dáng người Pháp trong tâm thức người Việt”.
Đại
khái, chỉ biết rằng trong phần lớn trường hợp, người Pháp thường được
phác họa như những kẻ lố lắng, thô lỗ, kỳ cục. Thơ Tú Xương tả cảnh thi
cử: Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt – Dưới dân ông cử ngẩng đầu rồng; bài văn tế Francis Garnier, tương truyền là của Nguyễn Khuyến: Mắt
ông xanh lè – Mũi ông thò lõ – Tay ông cầm cờ – Miệng ông huýt chó –
Nhà ông bày toàn những chai--, Vườn ông trồng toàn những cỏ.
Cho
đến giai đoạn xã hội Việt Nam trở nên ổn định và có phần thịnh trị, như
từ sau 1932 trở đi, thì trong một đôi phen xuất hiện, hình ảnh này cũng
chưa phải đã được cải thiện khá hơn.
Nhân vật công sứ trong Giông tố của Vũ Trọng Phụng chỉ là một sơ đồ thiếu sức thuyết phục.
Trong khi đó, ở những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan như Tôi cũng không hiểu tại làm sao, Lại chuyện con mèo, mấy
ông Tây “sơ-vin” lại hiện ra chẳng có gì là gây được thiện cảm, người
này tàn nhẫn lạ lùng, người kia ngẩn ngơ máy móc trong cách nghĩ, cách
sống.
Đặt trong khung cảnh này mà xét, thì với Người đầm, Thạch Lam đã bộc lộ một cái nhìn và thái độ khác hẳn.
Tư thế của nhân vật xưng tôi ở đây, là tư thế một người chủ lịch lãm, đại lượng.
Ông không giấu rằng, ông có những tình cảm tốt đẹp với dân tộc Pháp, vừa muốn thân thiện với họ, vừa muốn hiểu biết họ.
Và
sự thực là ông đã có một hiểu biết đến nơi đến chốn về dân tộc ấy, đến
mức, chỉ hình ảnh một người đàn bà thôi cũng đủ gợi nên trong ông hàng
loạt liên tưởng “Tôi hiểu cái buồn và cái lạnh lẽo của bà, lúc này có lẽ
đang mơ màng nghĩ đến quê hương ở tận bên kia, cái làng nhỏ ở sườn đồi,
cái chuông nhà thờ cao trên bụi cây, cánh đồng cỏ, mấy con bò đủng
đỉnh, bên cái suối trong mà bọn chị em bạn cùng làng đang quỳ đập quần
áo trên bàn giặt. Tôi đã đọc nhiều tiểu thuyết của người Pháp quá, nên
có thể tưởng tượng được rõ rệt cái đời của người bên ấy”.
Quay
trở lại với hình ảnh của người đàn bà trước mặt, lúc này ở tác giả
không còn có sự phân biệt đây là người ta, kia là người Pháp nữa, mà chỉ
còn duy nhất một nhân vật phụ nữ yếu đuối cần được che chở. Thạch Lam
nhìn bà chẳng khác bao nhiêu so với cách ông vẫn nhìn những bà mẹ Lê, cô
Tâm trong Cô hàng xén, cô Liên trong Hai đứa trẻ. “Tôi tự nhiên đem lòng thương mến người đàn bà Pháp ấy. Cái vẻ buồn rầu âm thầm của bà làm cho tôi cũng buồn lây”.
Do
chỗ được soi sáng từ một cái nhìn như thế, người đầm ở đây trở nên sinh
động, trước tiên là có một đời sống nội tâm phong phú: nhạy cảm và biết
điều; đơn độc song vẫn tế nhị; khiêm nhường cố thu mình lại, như bất cứ
ai phải sống ở một nơi xa lạ, trong khi vẫn tìm cách khẳng định bản
thân trước cái hoàn cảnh éo le và không có gì là dễ chịu ấy.
Về
mặt nhận thức mà xét, giờ đây, người đàn bà trong văn Thạch Lam không
còn là hiện tượng ngoại nhập lạ lùng kỳ quái, như vẫn thấy ở nhiều tác
phẩm văn chương mà đã trở thành một con người bình thường, thành viên
của một nhân loại thống nhất; kẻ khác đã trở thành chính ta, có nhiều
cái ta trong hình ảnh kẻ khác ấy.
Vượt lên lối nhìn nhận thông thường
Với
bút pháp hiện thực khá nghiêm ngặt, nói đơn giản với một sự tỉnh táo
vốn có, khi tả người đàn bà Pháp ngồi trong rạp chiếu bóng, Thạch Lam
không quên lưu ý “Tôi nhận thấy, cũng như tôi, những người khác ngồi
chung quanh tò mò nhìn vào người đầm. Nhưng họ nhìn một cách sống sượng
và chăm chú quá; trong những con mắt đó, đôi khi lại còn thoáng qua một
tia lãnh đạm và ác cảm nữa”.
Ở
một đoạn sau, tác giả láy lại:“Một vẻ buồn lặng lẽ và trầm mặc phảng
phất trên nét mặt người đàn bà đó. Thỉnh thoảng bà ôm lấy con ghì chặt
vào lòng, như se lại, trước cái ác cảm bà đoán thấy ở xung quanh”.
Hóa
ra, không phải cái nhìn của Thạch Lam là cái nhìn chung của mọi người
về người đầm. Mà ngược lại, bởi biết rằng cái cách nhìn nhận của mình
còn đang là xa lạ, nói đúng ra, vượt lên cao hơn hẳn với đám người quanh
mình, nhà văn cảm thấy như được một sự kích thích thú vị và càng hào
hứng theo đuổi những suy nghĩ riêng tư.
Rút
cục, chúng ta có một thiên truyện nó như chứng tích cho sự trưởng thành
của ý thức cộng đồng: sau giai đoạn thù hận, đến giai đoạn chấp nhận
người Pháp, bởi biết rằng, trong khi mang tới nhiều đau đớn và bất hạnh
thì đồng thời họ cũng là cái cầu nối để chúng ta đến với thế giới hiện
đại, và nhiều người trong họ vẫn là những người đáng mến.
Cần nói thêm rằng: không phải ngay từ đầu nhà văn đã dám đi đến cùng trên con đường được ông lựa chọn.
Trong bản in trên báo Ngày nay 1937, thiên truyện có một kết cục hơi khác với văn bản ngày nay chúng ta vẫn đọc. Đoạn ấy thế này:
Mấy
tháng sau buổi xem chiếu bóng ở rạp Pathé, tác giả có dịp gặp lại người
đàn bà kia, thì bà đã thực sự bị hoàn cảnh làm cho xấu đi.
Trong
cung cách của một người Pháp nói tiếng Việt đã hơi sõi, bà quát mắng
một người ăn mày “Xin cái gì nữa, đồ bú dù”, còn cô bé con cũng “níu lấy
áo mẹ, giơ chân đá về phía những đứa trẻ khốn nạn kia, mồm mắng câu mà
cô đã học được của anh bồi: “Cút, con khỉ”.
Tóm lại người đầm hôm nào đã có đủ những thói xấu của đám người Pháp sống lâu ở Đông Dương.
Có
lẽ là do căn cứ vào bản in báo này, mà Nguyễn Tuân, trong bài viết nổi
tiếng dùng làm lời giới thiệu cho tập truyện ngắn Thạch Lam in ra năm
1957, đã hạ những câu bình phẩm “Trong cái tấm lòng quê hương mát mẻ
của Thạch Lam, đôi lúc vẩn lên cái bóng dáng một vài con người thực dân
Pháp, cái bóng dáng của một Người đầm (…). Qua cái hơi văn càng
bình thản bề ngoài ấy, ta thấy thực dân cái (cũng như thực dân đực) càng
trở nên kệch cỡm, nó dị dạng tới cái mức phải cho nó cút đi khỏi cái
chân trời chung của cả tác giả lẫn độc giả”.
Nghĩa là, theo Nguyễn Tuân người đầm nói ở đây là đồng nhất ngay từ đầu, đồng nhất hoàn toàn, với hình ảnh một kẻ thực dân.
Ở
chỗ này, người đọc hậu thế lại có dịp chứng kiến ngòi bút Thạch Lam
tinh tế và tác giả đã cẩn trọng với trang sách của mình đến là ngần nào.
Nếu
chỉ giữ lại như văn bản đã in báo thì suy cho cùng, cái nhìn của Thạch
Lam về mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh vẫn có nét gì đó hao hao
như cái nhìn của những Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan và nhiều người
đương thời.
Có lẽ vì sớm cảm thấy điều đó, nên một năm sau, khi đưa Người đầm vào tập Nắng trong vườn, Thạch Lam đã làm một cuộc thay đổi căn bản.
Đoạn văn diễn tả cái cảnh gặp lại lần sau bị tước bỏ hẳn.
Thay vào đó, chỉ là mấy câu buông lửng, “Từ đó, tôi không bao giờ được gặp bà ta nữa”.
Nghĩa là nhà văn không muốn nhìn nhận cái việc người đầm bị “làm hỏng”.
Vẫn
trân trọng lưu giữ “hình ảnh dịu dàng của người đàn bà đó”, tác giả kết
thúc truyện ngắn bằng một ý nghĩ giản dị và đôn hậu. “Bây giờ chắc bà
ta có công việc làm rồi”.
So
với bản in báo, thì bản in sách có mất đi một chút sắc sảo trong cách
nhìn nhận nhân tình thế thái, song nghĩ kỹ, nó lại trung thành với chính
Thạch Lam hơn, nó trở nên nhất quán trong cái ấn tượng mà nhà văn này
khác với tất cả những người khác, muốn để lại trong tâm hồn bạn đọc.
Với
văn bản hiện nay, người đọc cảm thấy càng âm vang lên niềm ao ước của
Thạch Lam, có lẽ nó đã là lý do chính thôi thúc ông viết Người đầm:
“Tôi
mơ màng ao ước người Pháp nào cũng tốt như bà; chúng ta sẽ yêu mến nước
Pháp đẹp đẽ và rộng lượng kia bao nhiêu, và hai giống người khác nhau
trên mảnh đất này sẽ hiểu biết nhau, coi nhau thân như anh em một nhà”.
Người đầm
cũng như nhiều thiên truyện khác của Thạch Lam, được viết bằng một bút
pháp cổ điển, nhưng ý nghĩa của mỗi dòng chữ, lời đề nghị toát ra qua
tác phẩm thì với con người hôm nay vẫn còn là một cái gì mà chúng ta
không dễ với tới.
In lần đầu trong Cánh bướm và đóa hướng dương 1999
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét