Ông Nguyễn Ngọc Oai- Cục trưởng Cục Khai thác bảo vệ nguồn lợi thủy sản:
Kiên Cường
Ông Nguyễn Ngọc Oai |
>> Biển và làng nghề
>> Ngư dân miền Tây vươn khơi bảo vệ chủ quyền
>> Sức trẻ trên biển cả
>> Đội tàu “khủng” của một ngư dân
>> Phải hiện đại tàu cá
>> Đóng tàu lớn vươn khơi
>> Tiếp sức ngư dân
>> 'Trung Quốc đang xâm lược bằng tàu cá'
>> Giữ ngư trường cho con cháu
>> Ngư dân không đơn độc
>> Ngư dân không nao núng
>> Ngư dân miền Tây vươn khơi bảo vệ chủ quyền
>> Sức trẻ trên biển cả
>> Đội tàu “khủng” của một ngư dân
>> Phải hiện đại tàu cá
>> Đóng tàu lớn vươn khơi
>> Tiếp sức ngư dân
>> 'Trung Quốc đang xâm lược bằng tàu cá'
>> Giữ ngư trường cho con cháu
>> Ngư dân không đơn độc
>> Ngư dân không nao núng
Chính phủ đang khuyến khích ngư
dân bám biển, làm giàu từ biển tuy nhiên để có thể ra khơi xa đánh bắt
cá, ngư dân ở các tỉnh gặp rất nhiều khó khăn, vậy chúng ta có những
chính sách gì để giúp ngư dân ra khơi, thưa ông?
Để từng bước tháo gỡ những khó khăn
trong hoạt động khai thác hải sản, trong những năm qua Chính phủ đã ban
hành rất nhiều chính sách thiết thực và hiệu quả hỗ trợ ngư dân. Căn cứ
vào điều kiện thực tế tại các địa phương có thể thấy phần lớn tàu cá ở
nước ta đều là tàu loại nhỏ, vỏ gỗ, công suất dưới 90 CV và được đóng
theo kinh nghiệm dân gian, trang thiết bị còn thiếu và kém chất lượng.
Nhưng hầu hết những tàu này đều hoạt động vượt quá những điều kiện về an
toàn cho phép nên nhiều vụ tai nạn tàu cá xảy ra do bị hỏng máy, vỡ,
nứt vỏ tàu, gãy chân vịt… gây thiệt hại về người và tài sản của ngư dân.
Khắc phục tình trạng này, từ năm 1997
Chính phủ đã có gói chính sách 1.300 tỉ đồng nhằm hỗ trợ phát triển đội
tàu lớn, công suất từ 90 CV trở lên được trang bị các phương tiện khai
thác hải sản ở vùng biển xa bờ. Kết quả là sau 15 năm số lượng tàu lắp
máy có công suất trên 90 CV đã tăng lên gấp hơn 8 lần, từ số lượng 3.000
tàu vào năm 1997 nay ta đã có 24.500 tàu. Ngoài ra, tùy vào từng thời
điểm, hoàn cảnh cụ thể ngư dân ở các địa phương gặp khó khăn gì thì
Chính phủ sẽ có chính sách phù hợp để tháo gỡ. Như năm 2008, khủng hoảng
kinh tế thế giới khiến giá dầu tăng cao khiến ngư dân gặp khó khăn,
Chính phủ đã hỗ trợ 2.500 tỉ đồng để ngư dân bù giá nhiên liệu, mua,
đóng mới và thay máy tàu cá loại tiêu hao ít nhiên liệu hơn.
Nhiều ngư dân đầu tư cả tỷ đồng để đóng tàu mới công suất lớn
Hỗ trợ tài chính giúp ngư dân đóng
tàu ra khơi là cần thiết tuy nhiên để nâng cao hiệu quả đánh bắt có lẽ
Chính phủ cũng cần phải tăng cường phát triển hệ thống dịch vụ hậu cần
nghề cá?
Đúng vậy, song song với nhóm giải pháp
hỗ trợ phương tiện nghề cá cho ngư dân Chính phủ vẫn tiếp tục thực hiện
các chính sách hỗ trợ thông qua việc cung cấp dịch vụ công, quy hoạch
và đầu tư xây dựng mạng lưới cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão
cho tàu cá… nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất khi ngư dân hoạt động trên
biển cũng như vào bờ. Nhờ có những hoạt động dịch vụ ngoài khơi nên tàu
cá đánh bắt xa bờ, muốn ở lại lâu trên biển sẽ không phải lo ngại hết
dầu, hết nước ngọt và lương thực.
Theo số liệu thống kê số lượng tàu cá
neo đậu và sử dụng dịch vụ hậu cần nghề cá tại Đá Tây trong 6 tháng đầu
năm 2012 đã lên tới 886 lượt, tiêu thụ 11,5 tấn lương thực thực phẩm,
529 m3 nước ngọt và 158.000 lít dầu. So với cùng kì năm ngoái
chỉ có 257 lượt thì số liệu này cho thấy nhu cầu sử dụng dịch vụ hậu
cần nghề cá của chúng ta đang gia tăng và chất lượng phục vụ cũng đảm
bảo.
Bên cạnh đó việc triển khai liên tục
các dự án về đào tạo nguồn nhân lực: thuyền trưởng, máy trưởng, thuyền
viên; dự án giúp ngư dân nâng cao nhận thức, tiếp cận các công nghệ mới
trong khai thác thủy sản như du nhập công nghệ khai thác cá ngừ đại
dương, chụp mực, vây khơi, góp phần giúp ngư dân nâng cao hiệu quả khai
thác trên biển.
Hoạt động đánh bắt xa bờ thường
gặp phải trở ngại trong khâu bảo quản, tiêu thụ sản phẩm vậy phải làm
thế nào để sản phẩm đánh bắt của ngư dân luôn đảm bảo chất lượng?
Như đã nói, ngư dân của chúng ta hiện
nay chủ yếu sử dụng tàu vỏ gỗ, các trang thiết bị phục vụ cho bảo quản
sản phẩm chưa được chú trọng, hầm bảo quản chủ yếu là ốp xốp và phủ bạt.
Hải sản sau khi đánh bắt chỉ được bảo quản bằng đá cây xay nhỏ nên
trường hợp chất lượng nước đá còn non sẽ không đủ độ lạnh hoặc nếu nước
đá nhiễm phèn cũng ảnh hưởng trực tiếp lên bề mặt hải sản.
Tổng hợp các yếu tố: hầm bảo quản
không đảm bảo về cách nhiệt, vệ sinh an toàn thực phẩm; phương pháp bảo
quản không đúng kĩ thuật; chất lượng nước đá không đạt; thời gian bảo
quản dài ngày… thì rõ ràng chất lượng và giá bán của sản phẩm sẽ bị ảnh
hưởng. Để từng bước đưa các nghề khai thác hải sản xa bờ trở thành một
ngành công nghiệp phát triển ổn định và bền vững, Tổng cục Thủy sản đã
chọn nghề khai thác cá ngừ đại dương làm thí điểm việc quản lý theo
chuỗi từ khai thác, thu mua, chế biến và tiêu thụ.
Cần phải có những tiêu chuẩn, quy
chuẩn kĩ thuật đối với nghề đánh bắt cá ngừ như: Tiêu chuẩn về chất
lượng tàu câu cá ngừ, quy chuẩn về các ngư cụ khai thác, quy chuẩn về
kích cỡ đối tượng khai thác, quy chuẩn về quy trình kĩ thuật sơ chế bảo
quản cá ngừ trên tàu. Trước mắt, cú hích cho nghề câu cá ngừ đại dương
theo hướng công nghiệp, hiện đại sẽ là dự án đóng mới 30 tàu câu cá ngừ
bằng thép, công suất lớn và được trang bị đầy đủ máy móc, phương tiện
đánh bắt cũng như hệ thống bảo quản phù hợp tại 3 tỉnh Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hòa. Tiếp đến chúng ta sẽ thực hiện quản lý khai thác, thu
mua, chế biến và tiêu thụ cá ngừ theo tiêu chuẩn ISO, HACCP và GAP, dần
dần tiến tới xây dựng hình ảnh thương hiệu cá ngừ Việt Nam trên thị
trường thế giới.
Khi đánh bắt trên biển, ngư dân
phải đối mặt với thiên tai và rất nhiều rủi ro khác nữa. Chúng ta có
cách gì giảm thiểu rủi ro để ngư dân an tâm bám biển, thưa ông?
Ta đang xây dựng và hoàn thiện hệ
thống thông tin quản lý nghề cá trên biển, giai đoạn I đã lắp đặt 18 đài
bờ thuộc hệ thống thông tin hàng hải và đang tổ chức bàn giao 60 trạm
kiểm soát cho Bộ đội Biên phòng và Chi cục Khai thác Bảo vệ nguồn lợi
thủy sản các tỉnh. Tại các địa phương, nhiều nơi đã ứng tiền cho ngư dân
vay để mua máy thông tin liên lạc tầm xa có định vị vệ tinh GPS và đã
có 1.470 tàu lắp đặt máy này. Trung tâm Quan sát tàu cá thuộc Cục Khai
thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản cũng đã được thành lập, dự kiến bắt
đầu hoạt động vào năm 2013 để thực hiện giám sát cho 3.000 tàu các
loại hoạt động xa bờ.
Như vậy, trong tương lai không xa, khi
nhận được tín hiệu báo nguy hiểm thì lập tức chúng ta có thể xác định
vị trí của tàu cá để thực hiện giải cứu và ngư dân hoàn toàn có thể yên
tâm bám biển. Thêm vào đó, để nâng cao khả năng ứng cứu tàu cá gặp
nạn, thời gian qua Bộ NN-PTNT khuyến khích ngư dân phát triển mô hình tổ
hợp tác sản xuất trên biển gồm các chủ tàu hoạt động trên cùng ngư
trường, cùng nơi cư trú hợp tác khai thác hải sản; dịch vụ hậu cần trên
biển; cứu hộ cứu nạn và hỗ trợ nhân đạo giữa các gia đình thành viên
trong tổ. Tính đến hết tháng 7/2012 đã thành lập 3.466 tổ với khoảng
21.400 tàu cá. Các tàu cá tham gia tổ hợp tác đoàn kết sản xuất trên
biển vừa đảm bảo an ninh khi gặp biến cố mà hiệu quả khai thác cũng cao
hơn, có tàu sản lượng tăng 1,2-1,5 lần so với khi chưa vào tổ.
Xin cảm ơn ông!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét