Tác giả /Nguồn: Blog Trần Vinh Dự
Xét về mặt vĩ mô, Việt Nam đã tạm thời vượt qua giai đoạn nguy cấp nhất, khi hệ thống ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ hàng loạt.
Lãi suất liên ngân hàng là một chỉ dấu quan trọng của hệ thống. Tại
thời điểm cuối quý 3, đầu quý 4 năm ngoái, lãi suất liên ngân hàng lên
rất cao, có thời điểm tới hơn 40%. Đó là dấu hiệu của tình trạng mất
thanh khoản nghiêm trọng tới mức có thể phá sản bất kỳ lúc nào của nhiều
ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ.
Từ đầu năm trở lại đây, lãi suất liên ngân hàng đã giảm nhiều, hiện
nay đã nằm ở mức một con số. Điều đó cho thấy mặc dù còn một số ngân
hàng nhỏ vẫn trong vùng nguy hiểm, nhưng câu chuyện đổ vỡ hàng loạt có
vẻ như đã được tạm thời loại bỏ.
Từ chỗ chênh vênh bên miệng núi lửa của khủng hoảng tài chính hồi nửa
cuối năm ngoái, kinh tế Việt Nam đang đi dần vào một mùa đông lạnh giá
của suy thoái toàn diện.
Mùa đông của suy thoái
Lạm phát đã hạ nhiệt, tốc độ tăng giá tiêu dùng trong 6 tháng qua chỉ
có 2.52% so với mức tăng 13.33% của 6 tháng đầu năm 2011 và 3.37% của 6
tháng đầu năm 2010. Điều này không lạ vì giữa tăng trưởng tín dụng và
lạm phát có quan hệ nhân quả rất chặt chẽ với độ trễ khoảng 6 tới 8
tháng. Việc lạm phát thấp tại thời điểm này là kết quả của việc thắt
chặt tiền tệ – tín dụng từ khoảng tháng 4 tới tháng 12 năm ngoái.
Lãi suất ngân hàng nhờ các quyết định hành chính liên tục kế tiếp
nhau của Ngân hàng Nhà nước đã giảm về mức thấp đáng kể so với năm
ngoái. Lãi suất huy động không kỳ hạn về còn 9% trong khi lãi suất huy
động có kỳ hạn nằm ở mức 12% – 13% và lãi suất cho vay chính thức giảm còn khoảng 15% – 17%.
Do lãi suất tiền Đồng trong suốt năm 2011 và 6 tháng đầu năm 2012 rất
cao so với tốc độ trượt giá đồng tiền và việc nhà nước siết chặt quản
lý kinh doanh ngoại hối ngoài luồng, sức ép về tỷ giá lên VND trong giai
đoạn vừa qua không lớn. Tiền Đồng cơ bản giữ được giá trị sau đợt phá
giá mạnh hồi tháng 2 năm ngoái.
Sự ổn định này phần nhiều mang tính tình huống và giả tạo. Lạm phát
sẽ lại bùng phát trở lại một khi tín dụng tăng trở lại giống như kịch
bản hồi năm 2010: Năm 2008 gặp lạm phát cao tương tự năm 2011. Năm 2009
lạm phát giảm do hiệu ứng độ trễ của chính sách thắt chặt vào cuối năm
2008, giống như những gì đang diễn ra hiện nay. Năm 2010 lạm phát vụt
lên trở lại ở mức hai con số sau khi chính sách tiền tệ – tín dụng được
nới lỏng một phần.
Lãi suất giảm trong thời gian qua phần nhiều là do các biện pháp hành
chính. Trên thực tế, lạm phát đã giảm rất mạnh và Ngân hàng Nhà nước đã
bơm khá nhiều tiền vào hệ thống ngân hàng thương mại và dư địa tín dụng
được mở toang từ đầu năm nhưng hệ thống ngân hàng thương mại (mất thanh
khỏa mạnh và nợ xấu trên 10%) vẫn phải cạnh tranh quyết liệt để dành
dật nguồn tiền gửi. Vì thế lãi suất huy động vẫn cao hơn rất nhiều so
với lạm phát.
Câu chuyện tranh cãi về lãi suất thực dương hay âm, sau hơn 1 năm,
vẫn đối mặt với câu trả lời từ thực tế là lãi suất thực vẫn còn dương,
và dương rất nhiều. CPI tháng 5 và tháng 6 vừa qua so với cùng kỳ năm
ngoái lần lượt là 8.34% và 6.9% trong khi lãi suất huy động trung bình
vẫn còn ở mức hai con số. Điều này dẫn tới chuyện lãi suất cho vay có
giảm nhưng còn xa mới nằm trong sức chịu đựng hợp lý của hệ thống doanh
nghiệp.
Tương tự như thế, áp lực về tỷ giá hiện nay ở mức thấp là do trênh
lệch về lãi suất gửi VND và USD quá cao. Ngay cả khi điều chỉnh yếu tố
trượt giá, thì lãi suất thực – tức là lãi suất tiền Đồng trừ đi
lạm phát của tiền Đồng – vẫn cao hơn nhiều so với USD. Tuy nhiên vì tỷ
giá được giữ cố định cho nên người dân chỉ quan tâm đến lãi suất danh
nghĩa: tiền Đồng không mất giá với USD, lãi suất tiền Đồng cao hơn từ 3
lần (hiện nay) tới 5 lần (như hồi năm 2011) so với lãi suất USD, vì thế
không có lý do gì phải giữ USD. Mức trênh lệch quá lớn này đủ để bảo vệ
người giữ tiền Đồng ngay cả khi tiền Đồng bị phá từ 5% (năm nay) tới 15%
(năm ngoái). Đó là lý do lớn để đồng VND ổn định trong thời gian qua.
Tuy nhiên, lòng tin này của người giữ tiền Đồng sẽ bị phá vỡ ngay khi
lãi suất tiền Đồng giảm tới mức mà chênh lệch lãi suất VND và USD không
còn đủ lớn để cho họ cảm giác an toàn nữa.
Tăng trưởng kinh tế, theo con số chính thức của Tổng cục Thống kê,
cũng giảm trở về mức thấp nhất trong khoảng 10 năm trở lại đây. GDP của 6
tháng đầu năm nay tăng 4.38% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức
thấp nhất trước đó là 4.46% vào Q2, 2009. Và điều này hợp lý bởi vì cuộc
củng hoảng năm 2008-2009 diễn ra khi sức chịu của hệ thống doanh nghiệp
còn tương đối tốt do có một thời gian dài tăng trưởng đều đặn và nhiều
doanh nghiệp huy động được tài chính do phát hành cổ phiếu cho các nhà
đầu tư để tạo thành cái đệm tiền mặt (cash cushion) cho doanh nghiệp khi tín dụng bị thắt chặt.
Trong giai đoạn hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp không còn được
lợi thế này nữa và vì thế sức chịu đựng của họ kém hơn rất nhiều so với
hồi 3 năm trước.
Chưa phải đáy?
Sự ổn định tạm thời trên bề mặt do lạm phát hạ nhiệt không phải là
chỉ dấu của sự an toàn. Khối thuốc nổ lớn đang nằm trong hệ thống ngân
hàng hiện nay là các khoản nợ xấu, và không ai biết quy mô (đi kèm với
sức tàn phá) của nó đến đâu.
Ngay cả số liệu chính thức từ Ngân hàng Nhà nước cũng không rõ ràng:
chiều 7/6/2012, giải trình trước Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Nguyễn Văn Bình đưa ra con số nợ xấu tới 10%. Tuy
nhiên tại hội nghị sơ kết sáu tháng của ngành ngân hàng ngày 7/7/2012
tại Hà Nội, lại thông báo rằng tính đến cuối tháng 5, tổng nợ xấu của
toàn hệ thống chiếm 4,47% (tương đương 100.000 tỉ đồng) tổng dư nợ tín
dụng của nền kinh tế. Mức chênh lệch giữa 4.47% và 10% là mức chênh lệch
vô cùng lớn, tương đương 241 nghìn tỷ đồng, hoặc khoảng 11,5 tỷ USD.
Mặc dù có nhiều giải pháp được bàn đến để giải quyết khối tài sản
“xấu” này, nhưng chưa có bất kỳ động tác kiên quyết nào được thực hiện.
Lý do cũng dễ hiểu: Việt Nam đang ở trong tình trạng có rất nhiều ràng
buộc và vì thế không dễ gì giải được bài toán nợ xấu một cách nhanh
chóng.
Với mối lo khá mơ hồ và cảm tính về việc “đổ vỡ dây chuyền”, Việt Nam
không muốn cho bất kỳ ngân hàng nào phá sản, không muốn bất kỳ người
gửi tiền nào bị mất tiền, không quốc hữu hóa, và cũng không đủ nguồn lực
để bail-out toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như các doanh nghiệp too-big-to-fail, Việt Nam rất dễ, và nhiều khả năng sẽ, rơi vào tình trạng hệ thống ngân hàng dày đặc các zombie banks giống như ở Nhật hồi thập kỷ 90 trước đây (mặc dù lý do Nhật Bản có các zombie banks
khác với Việt Nam). Đặc điểm của zombie banks là chúng tồn tại nhưng
không còn khả năng cung cấp các chức năng bình thường của ngân hàng, tức
là huy động rồi cho vay. Việc này dường như đã bắt đầu từ đầu năm nay
khi mà dư địa tín dụng được mở toang nhưng tính đến ngày 30/6/2012, tín
dụng tăng trưởng chỉ ở mức 0,76% so với cuối năm 2011.
Hậu quả mà Nhật Bản phải đối phó hồi thập kỷ 90 thường được nhắc đến là một thập kỷ bị đánh mất – tức là một thập kỷ hầu như không có tăng trưởng. Và một tương lai tương tự không phải là không thể xảy ra đối với Việt Nam.
Hậu quả mà Nhật Bản phải đối phó hồi thập kỷ 90 thường được nhắc đến là một thập kỷ bị đánh mất – tức là một thập kỷ hầu như không có tăng trưởng. Và một tương lai tương tự không phải là không thể xảy ra đối với Việt Nam.
Loay hoay chưa tìm được đường ra
Đã có thời thành tích tăng trưởng liên tục kéo dài vài thập kỷ khiến
nhiều người Việt Nam tự tin vào tiềm lực của nền kinh tế, sức mạnh và
tài năng của các doanh nhân bản địa, và khả năng điều hành của nhà nước.
Giấc mơ hóa rồng là một giấc mơ gây nghiện và có sức lan tỏa cao. Tuy
nhiên, sau 5 năm lặn ngụp trong lạm phát, khó khăn và đình đốn, với
nhiều người thì giấc mơ này đã tan thành mây khói.
Thực tế đã cho nhiều người Việt thấy không có một nền kinh tế nào
không thể rơi vào khủng hoảng, kể cả Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam
cũng không phải quá suất sắc, đặc biệt trong chuyện điều hành và quản
trị rủi ro, thậm chí nhiều khi tương đối mù quáng và tham lam. Chính phủ
Việt Nam cũng không giỏi về mặt điều hành nền kinh tế, nếu không muốn
nói là trong nhiều mặt còn yếu kém. Các chuyên gia của Việt Nam cũng
không giỏi về việc phân tích, dự đoán, và tư vấn chính sách cho nhà
nước.
Đó là chưa kể Việt Nam còn gánh trên vai gánh nặng di sản của chính
sách kinh tế cũ, đó là khối doanh nghiệp nhà nước. Đây là khối khổng lồ
các doanh nghiệp tiêu dùng rất nhiều nguồn lực của nền kinh tế nhưng
hoạt động rất kém hiệu quả, và là một trong những nguyên nhân quan trọng
nhất gây ra tình trạng khủng hoảng toàn diện hiện nay. Chìa khóa để
giải bài toán doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa có. Không phải vì không thể
nghĩ ra, mà vì có nghĩ ra cũng không thực hiện được do sự đan chéo của
rất nhiều nhóm lợi ích.
Câu chuyện đầu tư công cũng vậy, ai cũng biết đầu tư công ở Việt Nam
không có hiệu quả cao. Nói cho công bằng, điều này không riêng ở Việt
Nam, mà ở phần lớn các nước đang phát triển đều là vậy. Thế nhưng câu
chuyện ở Việt Nam khác một chút, đó là việc phải dựa vào đầu tư công để
tăng trưởng, ít ra là trong khoảng gần mười năm trở lại đây. Chính vì
thế, nó tạo thành một thứ tiến thoái lưỡng nan rất khó chịu cho nhà
nước: nếu không giảm đầu tư công, thì tình trạng kém hiệu quả còn tiếp
diễn, tất dẫn tới tiềm năng tăng trưởng dài hạn bị mai một. Nhưng nếu
giảm đầu tư công thì tăng trưởng ngắn hạn lại bị ảnh hưởng nặng, và điều
này làm tổn hại uy tín chính trị của Chính phủ. Đó là chưa kể việc giảm
đầu tư công, cũng như việc cải cách doanh nghiệp nhà nước, gặp rất
nhiều rắc rối không giải quyết được do sự đan chéo của các nhóm lợi ích.
Câu chuyện cải cách ngân hàng và giải quyết nợ xấu tưởng chừng đơn
giản hơn nhưng thực ra lại không phải vậy. Con số nợ xấu trong hệ thống
ngân hàng hiện nay quá lớn, và nhà nước thực tế không có đủ lực để gánh
cục nợ này. Đối với các ngân hàng tư nhân, việc giải quyết nợ xấu không
phải quá khó. Khu vực tư nhân có thể tự mua bán nợ xấu của nhau, và thị
trường sẽ giúp định giá giá trị của các tài sản nợ này như thế nào. Thế
nhưng một phần rất lớn nợ xấu là nằm trong balance sheet của các ngân
hàng quốc doanh, hoặc do nhà nước nắm sở hữu chi phối. Sẽ không thể ép
các ngân hàng này phải đánh tụt giá trị của các khoản cho vay và thanh
lý các khoản nợ xấu. Lý do là khi đi sâu vào các câu chuyện này sẽ dẫn
tới vấn đề trách nhiệm thuộc về ai, và nhiều người sẽ bị liên đới. Hệ
thống các quan hệ lợi ích chằng chịt sẽ không thể cho phép các vấn đề
này được phanh phui.
Và như thế một câu chuyện khác là dùng tiền nhà nước để mua nợ xấu.
Đi kèm với nó sẽ là định giá hời để không ai (hoặc ít người) bị mất mặt
hoặc phải chịu trách nhiệm về các tổn thất hoặc thất thoát. Thế nhưng
giải pháp này cũng bế tắc nốt, vì một lý do đơn giản là tiền ở đâu ra?
Đấu tranh để tồn tại
Dưới góc độ vi mô, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước một bài
toán khó, có lẽ là khó nhất từ kể trong lịch sử khiêm tốn về kinh tế thị
trường của Việt Nam hiện đại. Trong khi thị trường đầu ra bị thu hẹp
nghiêm trọng, lãi suất các khoản vay vẫn còn rất cao và khả năng vay
mượn thêm khá bi đát, câu chuyện xoay đủ vốn để cầm cự tiếp trở thành
câu chuyện tồn tại hay không tồn tại.
Có một khe cửa hẹp để giúp các doanh nghiệp này, đó là dòng vốn tìm
đến mục tiêu mua bán và sáp nhập (M&As). Về triển vọng dài hạn, Việt
Nam vẫn là một nền kinh tế đang phát triển còn nhiều tiềm năng để tiếp
tục bứt phá. Điều này khiến cho nhiều nhà đầu tư quốc tế đang hướng sự
chú ý tới các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các nhà đầu tư đến từ
các quốc gia mà khả năng phát triển hầu như đã bị bão hòa. Nhật Bản là
một trong các quốc gia có sự quan tâm mạnh mẽ nhất đến việc tìm mua hoặc
đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, cánh cửa này chỉ là một cánh cửa hẹp. Nó không phải là một
thứ thuốc an thần mà ai cũng có thể mua được ngoài chợ. Dòng vốn này
chỉ tìm đến với một số doanh nghiệp tốt nhất, có nhiều tiềm năng nhất,
được quản trị bài bản nhất trong các ngành có sức hấp dẫn nhất ở Việt
Nam trong trung hạn. Nó cũng chỉ đến được với các doanh nghiệp biết cách
săn lùng và tiếp cận với nó.
Dẫu là một cánh cửa hẹp, nhưng có còn hơn không.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét