*
G.S. Bút Xuân TRẦN ÐÌNH NGỌC
Ăn
là động tác của người hay động vật đưa một số thức ăn thích hợp vào
cơ thể để nuôi các tế bào, duy trì sự sống. Ăn thường đi đôi với uống,
danh từ kép: ăn uống, vì uống cũng là hình thức đưa chất lỏng vào để nuôi cơ thể.
Y khoa khuyên ta nên ăn uống điều độ, chừng mực để giữ gìn sức khoẻ. Ăn uống vệ
sinh, bớt được bệnh tật.
Thường
người ta chia ra ba bữa trong ngày: ăn sáng hay còn gọi là ăn điểm tâm, ăn trưa
và ăn tối; cũng gọi bữa sáng, bữa trưa và bữa tối.
Ngày
ba bữa vỗ bụng rau bình bịch (Nguyễn công Trứ).
Ta
nói: bữa cơm, bữa tiệc, bữa tiệc cưới, bữa ăn chay, bữa ăn đoàn kết, bữa ăn
sinh nhật cu Tèo… (có dính líu đến ăn) trong khi buổi chỉ dùng cho buổi ra mắt,
buổi đàm luận, buổi hội thoại, buổi họp bạn, buổi thuyết giảng, buổi trình diễn,
buổi trình chiếu phim, buổi mai (mơi), buổi chiều, buổi tối, buổi hoàng hôn, buổi
bình minh…
“Ăn
bữa giỗ, lỗ buổi cày. Ăn một bát cháo chạy ba quãng đồng”: ngoài nghĩa đen, cả hai
câu ý nói kết quả công việc không xứng với sự vất vả.
Câu
tập nói đầu tiên từ một đứa trẻ ngoài hai từ: mẹ, bố, má, ba, thầy, u (bu)…thuờng
là cơm, ăn cơm. Khi trẻ lớn lên, thường cha mẹ có: ăn đầy tháng, ăn đầy năm, ăn
thôi nôi, ăn sinh nhật. Ăn đây là ăn mừng đứa trẻ đã lớn, tổ chức bữa ăn cho
gia đình và bạn bè.
Đứa
trẻ phải tập ăn, tập nói cho thành người.
Từ
ăn ít đứng một mình mà thường đi kèm với một từ hoặc danh từ kép khác làm thành
một câu có ý nghĩa:
Thí
dụ: ăn ở là cách cư xử đối với chính bản thân mình hoặc với kẻ khác. “Ông
ấy là người ăn ở có đạo đức, có luân lý, có tình người”. Ăn ở cũng có nghĩa là
sống chung với nhau: “Hai vợ chồng nhà này ăn ở với nhau cũng dăm năm rồi. Ăn ở
của một học sinh nơi thành phố rất tốn”: tiền trả cho những bữa ăn và chỗ ở. Ăn
làm: công ăn việc (chuyện) làm. “Anh ấy là người ăn làm”: anh ấy siêng năng,
không chơi bời lêu lổng. Làm ăn cũng có nghĩa tương tự. “Anh chị ấy bây giờ làm
ăn ở bên Ðức”. Ăn nhậu: uống rượu hay bia và ăn. “Người thành phố bây giờ ăn nhậu
(nhậu nhẹt) dữ lắm”. Ăn học: kẻ có công học hành. “Anh ấy là dân ăn học đàng
hoàng” tức anh ấy có học thức. Ăn diện: cách phục sức của một người “Cô ấy
không giầu nhưng ăn diện sang lắm.”
Ăn
vận, ăn bận cũng giống như ăn mặc. “Y ăn vận không giống ai.” có nghĩa y
ăn mặc khác ngườì.
Ăn
xài đồng nghĩa với tiêu xài. “Hắn ăn xài huy hoắc”; với người miền Nam: “Hắn ăn
xài lớn”.
Ta
cũng có: ăn nhỏ nhẻ như mèo, (nam thực như hổ, nữ thực như miêu); ăn tham hay
tham ăn, ăn như hùm đổ đó, ăn sống nuốt tươi, ăn sống uống sít, ăn luôn miệng,
ăn vặt, ăn không ra bữa, ăn không biết no, ăn không biết ngon, ăn đúng bữa, ăn
quà vặt, ăn hàng ăn chợ, ăn tạp, ăn quá nhiều, ăn không nghĩ đến ngày mai, ăn
báo thù, ăn cho cố, ăn cho bõ, ăn cho đã, ăn rán, ăn cố, ăn cho đáng đồng tiền
bát gạo. Nhiều người vào nhà hàng “buffet” (bao ăn) là để ăn cho đáng đồng tiền
bát gạo. Ăn quá ít, ăn khôn hay khôn ăn, ăn dại, ăn phí hay ăn hoang phí, ăn dè
sẻn, ăn hà tiện, ăn hổ lốn, ăn như heo, ăn như voi, ăn như cọp, ăn tượng trưng,
ăn lấy lệ, ăn lấy có.
Ðể
khuyên người ta không quá trọng miếng ăn, ta có câu: “Ăn để sống, không phải sống
để ăn.” Nhưng một số khác lại cho ăn uống là một trong bốn cái khoái (tứ
khoái), của con người mà ăn, ngủ đứng đầu. ”Sống để ăn (hay hưởng thụ), không
phải ăn để sống”.
Cha
mẹ thường khuyên con ăn hiền ở lành nhưng hầu như mọi người đều muốn ăn sung mặc
sướng.
Thai
phụ thèm ăn của chua chẳng hạn, gọi là ăn rở. Không ăn nhưng lấy thịt đè người
gọi là ăn hiếp. Vết thương sắp lành gọi là ăn da non.
Mua
ít bảo nhiều là ăn bớt, ăn xén. “Tiền viện trợ năm nay bị ăn bớt ăn xén hết
rồi” người ta gọi là ăn bẩn. Chi phí dọc đường hay thức ăn để ăn lúc đi xa gọi
là tiền ăn đường, thức ăn đi đường.
Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no. (Dịch từ
câu Hán văn: quân tử thực vô cầu bão).
Ðêm năm canh an giấc ngáy pho pho, thời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
Trên
đây là một cặp câu trong bài “Hàn nho phong vị phú” của Nguyễn công Trứ.
Đến
cửa nhà người ta chìa tay để được bố thí hay giúp đỡ gọi là ăn xin hay ăn mày.
Giả vờ túng thiếu đi ăn xin chứ thực sự khá giả: “Anh ta đóng cửa đi ăn mày”.
Có
những động tác không liên quan đến việc bỏ thức ăn vào miệng nhưng cũng gọi là
ăn:
“Cái
nhà này mối mọt ăn ruỗng ra rồi!”
“Vi
trùng lao đã ăn vào đến phổi hắn!”
“Ham
hố chơi bời nên vi trùng Aids (Siđà) ăn vào đến tủy rồi!”
“Bọn
cướp “Ba Dao” ăn hàng tối qua ở Long Biên.”
Ăn
hàng đây là đánh cướp.
“Tao
bắt được mày thì cứ gọi là ăn đòn (bị đánh).”
“Thằng
chôm đồ trên xe buýt bị cụ già cho ăn mấy cái tát.”
“Ừ,
anh ăn thịt được tôi không?”
“Quả
báo đấy! Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.”
“Bọn
ba thằng này ăn chịu với nhau”: ba thằng đồng cam cộng khổ, được cùng chia, tù
cùng chịu.
Ăn
trông nồi, ngồi trông hướng: cách xử thế.
Ăn
quả nhớ kẻ trồng cây: lòng nhớ ơn.
Ăn
trên ngồi trốc: thứ bậc cao trong gia đình, xã hội.
Ăn
trên đầu trên cổ: bóc lột nhờ quyền hành.
Ăn
gian ăn lận: sổ sách chi tiêu không phân minh.
Ăn
ít no lâu, ăn nhiều chóng đói: Lời khuyên giữ sự thành thật và ăn lời ít trong
việc làm ăn, buôn bán.
Ăn
đi trả lại: sự giao thiệp, đối xử trong xã hội, cũng tương tự: bánh ít đi, bánh
qui lại.
Chụp
ảnh, lên hình đẹp gọi là ăn ảnh “Cô ấy vừa đẹp vừa ăn ảnh”. Ăn cá có nghĩa dùng
thức ăn bằng cá mà ở trường hợp khác có nghĩa cá độ một cuộc thi đấu gì đó.
“Ông ta chuyên ăn cá, mới thắng cá độ lớn lắm vì đội tuyển B thắng đội tuyển
A.”
Rình
mò lúc người ta không để ý, hay đang ngủ, vào nhà lấy đồ vật hay tiền bạc
đem đi, gọi là ăn trộm. Cũng hành động trên với những đồ lặt vặt gọi là ăn cắp
ăn nảy hay ăn cắp vặt. Không rình mó mà ra mặt đàn áp người ta, có khi với vũ
khí để lấy đồ là ăn cướp. Có chức có quyền hạch xách người ta phải đưa tiền
cho mình, mình mới thỏa mãn điều người ta muốn, gọi là ăn hối lộ, ăn của đút,
thường đi đôi với tham nhũng. Hành động này lộ liễu ra, người dân gọi là ăn bẩn.
Ăn bẩn cũng để chỉ hành động ăn chận của người khác. “Ông này đã ăn bẩn hai
trăm ngàn tiền yểm trợ nạn nhân bão lụt.” Dùng từ mạnh hơn gọi là ăn
cướp cơm chim. Sổ sách chi tiêu không minh bạch bị nghi ngờ là ăn gian, ăn lận.
Con
ơi nhớ lấy lời này
Cướp
đêm ăn trộm, cướp ngày là quan.
(Ca
dao)
Ăn
thực nhưng ăn bừa cả những thứ không nên ăn là ăn bậy, ăn bạ. “Con heo này ăn tạp,
ăn bậy ăn bạ hết mọi thứ.” trong khi ăn chạy không phải là vừa chạy vừa
ăn nhưng là vào tiệm ăn rồi đứng lên đi không trả tiền, cũng có nghĩa là dân
chơi cờ bạc, hụi hè được tiền rồi lủi mất. “Ðừng chơi hụi với chị ta, chị
ta là dân chuyên ăn chạy.” Ăn chạy cũng có nghĩa như ăn quịt, thường đi đôi với
chơi lường, chơi mà không trả tiền. Thành ngữ: ăn quịt, chơi lường. (Cao lâu
thường ăn quịt, Thổ đĩ lại chơi lường - Tú Xương)
Ðã
được tiền rồi hay đặc ân rồi lại tiếp tục được, gọi là ăn theo. “Chị ấy là nhà
cái, mỗi kì được ăn theo mười lăm đồng” Chồng có tiền hưu trí, vợ không đi làm
nhưng được ăn với chồng, cũng gọi là ăn theo. “Bà đó được ăn theo lương hưu trí
với chồng.” Làm được việc gì thành công được người khác khen ngợi là ăn tiền.
“Cứ cái xe cà rịch cà tàng đó đi bỏ báo mà ăn tiền.” “Anh ta ăn tiền nhờ viết
thời sự thể thao.” Từ kép ăn tiền cũng dùng để bảo đảm tính chất tuyệt vời của
một sự việc mặc dù không có tiền bạc dính trong đó: “Ảo thuật bảo đảm tuyệt,
coi đi, không hay không ăn tiền!”
Khách
hàng hỏi người thợ làm đồ trang sức: “Chị ăn bao nhiêu?” có nghĩa chị đòi trả
công bao nhiêu. Không làm gì để sống nhưng lại nhờ vào người khác gọi là ăn
bám. “Anh ta phải ăn bám gia đình nhà vợ.” “Những tên đó ăn bám chính phủ” Riết
rồi chị ta, anh ta thành một thứ ăn báo cô: ăn trường kỳ. Một chữ khác có nghĩa
như ăn bám: ăn nhờ, ăn chực, ăn nhờ ở vả: Trẻ con nhà quê mẹ đi vắng đói quá phải
đi bú rình, bú chực hoặc ăn chực cơm mớm..
Có
đồ vật không biết ăn vẫn gọi là ăn, ăn ở đây có nghĩa là tốn. “Xe này ăn
xăng quá” “Cái máy ấy ăn dầu rồi.””Bàn ủi này ăn điện””Bánh xe này ăn sang phải,
bánh xe kia ăn sang trái”.”Cưa thứ song sắt đó ăn lưỡi cưa lắm.”
Ăn
thật làm dối để chỉ người lười biếng.
Ăn thì mắt sáng như sao
Làm thì con mắt trông vào tối lu (TÐN)
Ăn
chực nằm chờ: Thời gian chờ đợi cho một công việc khá lâu: Vé đi ngoại quốc quá
đông, phải ăn chực nằm chờ mới mua được!
Tết nhất là những ngày ăn uống, thù tiếp, đãi đằng:
Làm như ngày dưng ăn sao cho hết
Ăn như ngày Tết lấy gì mà ăn.
Ca dao mô tả những chuyện không bao giờ xẩy ra hay lời từ chối khéo:
Bao giờ rau diếp làm đình
Gỗ lim ăn ghém thì mình lấy ta
Bao giờ chạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình.
Vợ
chồng khi không còn thương nhau thì có nhiều cặp ông ăn chả, bà ăn nem. (Con ở
có thèm mua thịt mà ăn) tức là đi vụng trộm ái tình.
Thường
bao giờ cũng có ăn uống đi kèm trong các vụ: ăn mừng, ăn hỏi, ăn cưới, ăn khao
ăn vọng, ăn tết, ăn sinh nhật, ăn thôi nôi, ăn đầy năm, ăn mừng thượng thọ, ăn
mừng lễ tôn giáo, ăn mừng kỉ niệm hôn nhân, ăn mừng đoàn tụ v.v…
Ăn
sung mặc sướng để chỉ những người may mắn, giầu có, tiền nhiều, gần đồng nghĩa
với ăn trắng mặc trơn. “Cô ấy trước kia chỉ là người giúp việc nay một bước lên
bà lớn ăn trắng mặc trơn.”
Ăn
cỗ đi trước, lội nước đi sau để chỉ những kẻ khôn vặt, làm cái gì cũng muốn hơn
người.
“Phen
này nhất định ta phải ăn mi” không phải là ta giết mi ăn thịt nhưng là ta sẽ thắng
mi, được mi.
Người
to béo dềnh dàng làm người ta cho là ăn nhiều như mụ tú bà trong truyện Kiều:
Thoắt trông lờn lợt mầu da
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao!
Ăn
chay là chỉ ăn thức ăn được phép của những nhà tu bên Phật giáo như tương,
chao, đậu hũ, rau, quả, trái với ăn mặn là ăn đủ thứ thịt thà cá mú.
Ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối.
Đi
tu, với đạo nào cũng rất khó. Với đạo Phật thì kẻ tu phải nằm lòng:
Đi
tu Phật đã dạy rằng:
Chớ
ăn thịt chó, chớ năng liếc đào (TĐN)
Con
chó ăn phải bả là con chó ăn phải độc dược người ta muốn giết nó. Chó, heo khi
ăn người ta không gọi là ăn mà gọi là xốc. “Chậu cám này, nó chỉ xốc mấy cái!”
Những
người sống bằng tiền của chính phủ gọi là ăn trợ cấp, ăn tiền thất nghiệp, ăn
tiền bệnh, ăn tiền già, ăn tiền hưu (dưỡng), ăn tiền phế binh, cô nhi tử sĩ, ăn
tiền tàn tật. Ði làm lãnh lương chính phủ hay của công ti gọi là ăn lương. “Chị
ấy ăn lương bậc hai.”
Chó không ăn thịt chó nhưng người ăn thịt người
để
chỉ hạng người độc ác tàn nhẫn với đồng loại.
“Ði nước Lào phải ăn mắm ngoé” tương tự: Ðáo giang tùy khúc, Nhập gia tùy
tục” và “Ăn tùy chủ, ngủ tùy con.”
Từ
ăn khi nói về những bệnh nan y như ung thư, lao phổi có nghĩa là lan ra:
“Vết đen trong phổi ông ấy đã ăn lên tới khí quản. Bệnh ung thư gan của
anh ấy đã ăn lan sang bao tử.”
Nơi heo hút khỉ ho cò gáy cũng có khi gọi là nơi chó ăn đá, gà ăn muối. Không
ăn gì cả mà vẫn gọi là ăn: ăn năn sám hối, ăn năn hối hận những lỗi lầm. “Nó
làm điều sai, bây giờ ăn năn lắm.”
“Anh
đó một cây ăn tục nói phét”, anh đó không biết giữ gìn lúc ăn và lời nói,
ăn bừa bãi, nói khoe khoang khoác lác gần giống như “Ăn càn nói bậy” “Ăn phàm
nói tục”.
Ăn nằm không phải là vừa ăn vừa nằm mà là trai gái đi lại, ân ái với nhau. “Trước
khi cưới, hai cô cậu đã ăn nằm với nhau mãi rồi.”
Những
thành ngữ có tiếng ăn:
Ăn
khách: Món hàng được nhiều người chiếu cố. (Phim đó ăn khách lắm).
Ăn chầy, uống bửa: Ăn không chịu trả tiền.
Ăn như tằm ăn dâu: có nghĩa ăn từ từ nhưng không mấy chốc hết một số lượng lớn
(tàm thực).
Ăn to nói lớn.
Ăn
mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối.
Ăn nói nhỏ nhè
Ăn gian, nói dối.
Ăn nói điêu ngoa.
Ăn nói trắng trợn.
Ăn không, ngồi rồi.
Ăn dơ ở bẩn.
Ăn như hạm.
Ăn khoẻ như voi.
Ăn
như cọp đói.
Ăn
như mèo: ăn nhò nhẻ, ăn ít.
Tập
ăn tập nói, tập gói tập mở.
Ăn đong: ăn bữa nào đi mua gạo bữa ấy, nghèo nàn.. “Gạo cứ lệ ăn đong bữa một Vợ
quen dạ đẻ cách năm đôi - Tú Xương”. Anh ấy tiếng Anh ăn đong (tiếng Anh nghèo
nàn).
Ăn không, ăn hỏng (lừa lấy của người ta).
Ăn thừa, làm thiếu.
Ăn nên làm ra.
Ăn trông nồi, ngồi trông hướng, có nghĩa phải có ý tứ trong cách giao tiếp.
Ăn trên ngồi trốc.
Ăn vóc học hay:
Ăn để có thể lực tốt và học để có kiến thức rộng.
Ăn chẳng nên đọi, nói chẳng nên lời chỉ người vụng về.
Ăn ốc nói mò: Nói không chứng cớ.
Ăn cây nào, rào cây ấy.
Ăn phải nhai, nói phải nghĩ.
Ăn cây táo, rào cây sung.
Ăn ruỗng ra: Ăn lỗ chỗ rỗng hết bên trong. Cây cột này bị mối mọt ăn ruỗng ra rồi.
Vi trùng lao ăn ruỗng phổi anh ta ra.
Con đường này ăn ra ngã tư Bà Quẹo.
Khúc sông này ăn vào một nhánh của sông Ðuống. Ăn đây có nghĩa là nối tiếp.
Ăn có mời, làm có khiến.
Ăn đi trả lại cũng tương tự Bánh ít đi, bánh qui lại.
Ăn trước trả sau.
Ăn một đồng, trả một nén: Ăn ít trả nhiều.
Tương
tự: Ăn khế trả vàng. (chuyện cổ nước Nam)
Ăn
một nén trả một đồng: Ăn nhiều trả ít.
Có ăn, có trả (Có vay, có trả)
Ăn giắt để dành: tiết kiệm.
Ăn chịu:Ăn chưa có tiền trả, phải kí nợ.
Có ăn, có chịu:Làm rồi phải lãnh hậu quả.
Cũng tương tự: Có gan ăn cướp, có gan chịu đòn.
Ăn lắm, uống nhiều.
Ăn không biết no.
Khôn ăn người. Dại người ăn.
Kẻ ăn, người ở trong nhà (tương tự quân hầu, đầy tớ)
Ăn tiêu như phá. Ăn hại, đái nát.
Ăn cháo đá bát (nói kẻ phụ ơn)
Ăn mắm mút dòi (quá hà tiện)
Ăn xài huy hoắc (hoang phí).
Ăn miếng, trả miếng. (Như câu: Oeil pour oeil, dent pour dent, tục ngữ Pháp. Mắt
trả mắt, răng đền răng ).
Ăn
gì bổ nấy. Ăn tim bổ tim. (tim loài vật).
Ăn không nói có (chỉ người dối trá)
Ăn
quả nhớ kẻ trồng cây: lòng biết ơn đối với kẻ thi ân.
Kẻ
ăn ốc, người đổ vỏ. Thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào.
(Người
ta làm thì thành công đến lượt mình thì thất bại).
Ăn ốc nói mò: nói thiếu dẫn chứng, thiếu cơ sở luận lí.
Ăn
gỏi có nghĩa là ăn thức ăn còn sống: ăn gỏi cá, ăn gỏi tôm …Ở câu khác lại có
nghĩa dễ thắng: “Mi vật với ta, mi đánh cờ với ta thì ta ăn gỏi mi đi.”
Sau đây là một số động tự ăn có thêm trạng tự đi kèm cho những nghĩa khác nhau:
Ăn cánh (đồng lõa với nhau. Chúng ăn cánh với nhau, chúng ăn jơ (jeu) với nhau
để làm một việc gì) Ăn banh (en panne) xe bị hư, nay ít còn dùng. Ăn chắc (thế
nào cũng thành công) Ăn cho đã, ăn thỏa mãn. Ăn chơi (món ăn chơi, ăn dạo đầu bữa
tiệc, appetizer), ăn chung đổ lộn, ăn dè ăn sẻn (hà tiện), ăn đất (từ trần), ăn
đám (dự đám), ăn đêm (chim ăn đêm), ăn đứt (thắng hoàn toàn), ăn được (tốt để
làm thực phẩm.) Thứ rau rừng đó ăn được. Ăn được còn có nghĩa là trung bình,
không tốt cũng không xấu: “Phở đó khá không? Ăn được!” Ăn đòn: Bị đòn.
Ăn
ghém hay ăn xổi (ăn lúc còn xanh, chưa chín), ăn ý (hợp ý), ăn xổi ở thì: tạm bợ.
Ăn vạ (cào đầu ăn vạ), ăn vặt, ăn tạp: ăn đủ thứ, ăn vay (sống bằng vay mượn),
ăn vã (ăn thức ăn không có cơm), ăn trớt (thua, thất bại), ăn thừa (ăn đồ dư
người ta để lại), ăn thua (thắng, bại. Hắn quyết ăn thua đủ). Ăn đói: ăn thiếu,
không đủ no. “Từ hồi mẹ mất, hắn phải ăn đói.” Người ăn ốc, người đổ vỏ: người
thành công: người thất bại.
Ăn
thề (thề thốt) thời xưa có cắt máu ăn thề. Ăn riêng: đi ở một nơi khác. (Hai vợ
chồng anh ta đã ra ăn riêng không ở chung với cha mẹ nữa), ăn rẽ (cấy ăn rẽ,
làm ăn rẽ: chủ một phần, người lao động một phần), ăn rễ: ăn sâu vào việc gì, Hắn
đến vùng này ăn rễ ở đây, nghĩa khác: cây trồng đã bén rễ. Ăn ngốn hay ngốn (ăn
nhanh, miếng lớn, nuốt vội) Bà bảo cháu: thong thả nhai, đừng ngốn! Ăn nhín, ăn
nhắt: (dè sẻn) cũng giống ăn tằn ăn tiện. Ăn nhịp: đúng nhịp điệu. Ban song ca
này hát rất ăn nhịp. Ăn non (bỏ giữa chừng, không tiếp tục mặc dù đang thắng
như buôn bán, đánh bài), ăn nóng (ăn ngay sau khi nấu), ăn lạnh: thức ăn để lạnh
mà ăn. Ăn mồi (đớp mồi như cá), ăn mòn (bánh xe này đã bị ăn mòn), ăn liền: ăn
được ngay: (mì ăn liền). Ăn lãi: ăn lời. Ở một câu khác có nghĩa không
vâng lời: “Thằng bé này nói không ăn lời.”
Ăn
lạt, ăn nhạt (ăn chay, không thịt cá) trái với ăn mặn, ăn không kiêng cữ thịt
cá. Ăn lạt cũng có nghĩa là ăn ít muối. Ăn khớp (bánh xe ăn khớp, mộng ăn khớp).
Ăn trùm ăn lớp: tài ba hơn những người khác. “Ðua xe đạp đường trường thì anh
ta ăn trùm rồi.” Ăn thừa làm thiếu: buôn bán không thật thà. Ăn no rửng mỡ hay
no ăn rửng mỡ: bụng no lo ăn chơi. Ăn của đút cũng như ăn hối lộ, tham nhũng.
“Lụng bụng như chó ăn vụng bột”: Nói không ra lời. Ăn hổ lốn: ăn nhiều thứ thức
ăn chung vào một tô. Loài ăn thịt như cọp, beo, cá mập, cá sấu. Loài ăn cỏ như
trâu bò, dê ngựa, thỏ cừu. Loài ăn ngũ cốc như bồ câu, gà, vịt, ngỗng v.v...
Trong
lúc chơi cờ bạc, ăn có nghĩa là thắng. “Ðánh bốn ván bài, hắn ăn ba”. Ăn
vụng, ăn cợi: ăn sau lưng chủ, giống như loài mèo (Vắng chúa nhà, gà vọc niêu
tôm). Ăn lắm, thải... nhiều. Ăn quen: trong câu vẫn mửng cũ ăn quen. “Y ăn quen
lại đến làm chuyến nữa”, cũng tương tự: “Quen mui thấy mùi làm mãi”: Làm điều
sai trái, ngựa quen đường cũ.
Nhà
nông bảo nhau:
Ðói thì ăn ráy, ăn khoai
Chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng.
Lúa trổ sớm chưa phải là điềm được mùa.
Gấu
ăn trăng (nguyệt thực).
Gấu
ăn mặt trời (nhật thực).
Cha
mẹ khuyên con:
Con hãy
ráng làm điều nhân nghĩa
Ăn
không ăn phàm, nói không nói tục.
Những
động tự có nghĩa như ăn:
xơi,
dùng, mời, thưởng thức, cắn (Cho cắn thử này: cho ăn thử này.) nếm, cạp, đớp (vật),
ngốn, ngoạm, ngậm, nút, liếm láp, hút, mút, nuốt, ực, tợp, thời (Ở Đà lạt: mời
ông thời tức mời ông xơi), nhấm nháp, đưa cay, phá mồi, nhâm nhi, nhai (nhơi),
nhồi, nghiến, nghiền, hốc (tiếng cổ không còn dùng), xực, (Hoa ngữ) do tiếng
Hán- Việt: thực( Có thực mới vực được đạo).
Tay
làm hàm nhai, tay quai miệng trễ.
Từ
ăn có thêm một động tự nữa phía trước, cho nghĩa phản lại: bỏ ăn: con lợn này
muốn bệnh, nó bỏ ăn hai hôm nay. Siêng ăn, lười ăn, mê ăn, mất ăn, hụt ăn, để
cho ăn, không cho ăn, phàm ăn: con lợn này phàm ăn. Con lợn kia kén ăn. Bao ăn
(bao bụng): tha hồ ăn. Các lực sĩ về đến mức ăn thua: điểm chót (final). Ăn
tay: xà-bông quá mạnh ăn tay. Nước ăn chân: nước lụt. Ăn nắng: da đen ra. Đi tu
là ép xác, phải chịu ăn khổ, không được ăn sướng: “Ăn như thầy tu”. Trái lại:
“Ăn sướng như bà hoàng”.
Một
bài ca dao ru em:
Em tôi buồn
ngủ buồn nghêBuồn ăn cơm tấm, cháo kê, thịt gà
Buồn
ăn đỗ phụ, tương tầu
Mài
dao đánh kéo gọt đầu đi tu
Có
tu thì tu chùa này
Ðừng
tu chùa khác kẻo anh tôi buồn
Anh
buồn cất gánh đi buôn
Anh
buôn được lãi anh buồn làm chi
Tôi
là phận gái nữ nhi
Cha
mẹ thách cưới làm chi vội vàng?
Cháo
kê: không phải là cháo gà. Kê là một thứ hạt nhỏ như hạt vừng (mè), mầu vàng, nấu
cháo thật đặc, cho thêm đường, quệt vào bánh đa nướng cùng với bột đậu xanh, một
món quà nhà quê rất ngon. Tương tầu là tương bần, xuất xứ từ làng Bần yên
Nhân gần Hà Nội, thứ tương thường để chấm bê thui (tương gừng), chấm rau muống
sống hoặc chín.
Gọt
đầu: dùng dao thật sắc cạo đầu nhẵn thín.
Có
những anh chồng vì ham mê ăn uống quên cả những gì vợ dặn trước khi đi làm ăn
xa:
Ðồng đăng
có phố Kỳ lừa
Có
nàng Tô thị, có chùa Tam thanh
Ai
lên xứ Lạng cùng anh
Tiếc
công bác mẹ sinh thành ra em
Tay
cầm bầu rượu, nắm nem
Mảng
vui quên hết lời em dặn dò.
(Ca dao)
Hình
ảnh sảng khoái, vui tươi sau khi đã thỏa mãn cái bao tử:
Một đàn cò trắng phau phau
Ăn no, tắm mát rủ nhau đi nằm
Muốn tắm mát lên ngọn con sông Ðào
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh (Ca dao)
Con cò cũng có tiết tháo, một thứ tiết trực tâm hư, triết lí sống trong sạch,
dù thất thế không chịu uốn mình trong đống bùn nhơ như trong bài Con
cò:
Con cò mà đi ăn đêm
Ðậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông rước tôi vào
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Ðừng xáo nước đục đau lòng cò con!
G.S
Bút Xuân TRẦN ÐÌNH NGỌC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét