GS.TS. Song Jung Nam, Hàn Quốc, viết về lịch sử VN:
Việt Nam năm 1650
III. THỜI KỲ SAU PHÂN CHIA NAM BẮC
Việc mở rộng lãnh thổ trong lịch sử Việt Nam được thực hiện sôi động, nhanh và trong phạm vi rộng lớn nhất là vào thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh. Việc mở rộng lãnh thổ trong thời kỳ này hay được triển khai với mục đích cơ bản vốn có nhưng có thể thấy được sự khác nhau với thời kỳ trước ở chỗ được tiến hành trong sự chia rẽ và đối lập sâu sắc về quyền lực. Việc mở rộng lãnh thổ trong thời gian này không được triển khai qua thời gian lâu dài như thời kỳ trước mà được thực hiện trong thời gian ngắn khoảng 250 năm. Dĩ nhiên có khả năng là vì đã chuẩn bị bàn đạp trong thời kỳ trước. Giống như khi xem xét thời gian tồn tại dài hay ngắn của một vương quốc, thông qua việc mở rộng lãnh thổ cũng có thể nhìn thấy được sức mạnh của quốc gia và tổn thất của Chiêm Thành.
Việc mở rộng lãnh thổ trong lịch sử Việt Nam được thực hiện sôi động, nhanh và trong phạm vi rộng lớn nhất là vào thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh. Việc mở rộng lãnh thổ trong thời kỳ này hay được triển khai với mục đích cơ bản vốn có nhưng có thể thấy được sự khác nhau với thời kỳ trước ở chỗ được tiến hành trong sự chia rẽ và đối lập sâu sắc về quyền lực. Việc mở rộng lãnh thổ trong thời gian này không được triển khai qua thời gian lâu dài như thời kỳ trước mà được thực hiện trong thời gian ngắn khoảng 250 năm. Dĩ nhiên có khả năng là vì đã chuẩn bị bàn đạp trong thời kỳ trước. Giống như khi xem xét thời gian tồn tại dài hay ngắn của một vương quốc, thông qua việc mở rộng lãnh thổ cũng có thể nhìn thấy được sức mạnh của quốc gia và tổn thất của Chiêm Thành.
Một mặt, việc mở rộng lãnh thổ ở thời kỳ sau phân chia Nam Bắc được
thực hiện thông qua việc hợp nhất hoàn toàn Chiêm Thành và sự mở rộng về
phía Campuchia đã kéo theo sự căng thẳng sâu sắc trong quan hệ giữa
Việt Nam và Campuchia và dĩ nhiên ảnh hưởng tới cả quan hệ Campuchia và
Thái Lan. Kết quả là ngày nay, đối ngoại giữa 3 nước, đặc biệt Việt Nam –
Campuchia hay Thái Lan – Campuchia vẫn còn chịu ảnh hưởng không nhỏ
(26).
Để thoát khỏi sự uy hiếp của chúa Trịnh, chúa Nguyễn đi xuống phía
Nam thúc đẩy chính sách một cách năng động như chính sách đối ngoại
thông thương, chính sách mở rộng lãnh thổ để xây dựng sức mạnh nhằm khôi
phục quyền lực đã mất(27).
Do đó, việc mở rộng lãnh thổ của chúa Nguyễn tiếp tục được thúc đẩy
không quan tâm đến thời gian 7 lần phân tranh với chúa Trịnh như trích
đoạn dưới đây.
“Năm 1611, quân Chiêm Thành xâm lấn biên giới. Chúa sai chủ sự là
Văn Phong (không rõ họ) đem quân đi đánh lấy được đất ấy, bèn đặt làm
một phủ, cho hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa lệ thuộc vào. Nhân sai Văn
Phong làm lưu thủ đất ấy (28).
Sự kiện năm 1611 đã chứng minh rằng khác với thời kỳ đầu, đặc trưng
của thời kỳ sau là chiếm lĩnh đồng thời sát nhập và hợp nhất lãnh thổ.
Đặc trưng này cũng có thể thấy được qua sự kiện xảy ra vào năm 1653. “Vua
nước Chiêm Thành là Bà Tấm quấy rối đất Phú Yên. Sai cai cơ Hùng Lộc
hầu làm tổng binh và xá sai Minh võ làm tham mưu đem 3000 quân đi đánh.
Đến phủ Phú Yên, ngày 3 tháng 4, nhân đêm qua đèo Hổ Dương núi Thạch Bi,
ruổi thẳng đến trại của Bà Tấm, phóng lửa đánh gấp, phá tan, đuổi dài
đến sông Phan Lang. Bà Tấm sai con là Xác Bà Ân nộp lễ xin hàng. Phúc
Tần cho, bắt chia đại giới, lấy đất tự phía đông sông ấy đến Phú Yên đặt
làm hai phủ Thái Khang và Diên Ninh, đặt dinh trấn thủ Thái Khang, phía
Tây sông vẫn là nước Chiêm Thành, khiến giữ bờ cõi mà nộp cống”. (29) Thái Khang và Diên Ninh bây giờ là Ninh Hòa và Diên Khánh, lúc này lãnh thổ của Việt Nam được mở rộng đến Khánh Hòa.
Tháng 8 năm 1692, chúa Nguyễn chiếm Chiêm Thành và nhân cơ hội chiếm
Diên Ninh của Chiêm Thành và tháng 3 năm sau đã bắt được vua Chiêm Thành
là Bà Tranh. Lúc này, chúa Nguyễn đã đổi tên Chiêm Thành là Thuận
Thành. Chúa Nguyễn đã sai cai đội Nguyễn Trí Thắng, cai cơ Nguyễn Tân
Lễ, cai đội Chu Kiêm Thắng đến Phố Hài, Phan Rí, Phan Rang thuộc Bình
Thuận ngày này để phòng ngự tàn đảng của Thuận Thành (30).
Đất nước Chiêm Thành đến bây giờ đã hoàn toàn bị biến mất trên bản
đồ. Chiêm Thành đã bị hợp nhất hoàn toàn vào Việt Nam năm 1697 nhưng
trên thực tế, với tư cách là một quốc gia thì đã bị xóa bỏ vào năm 1693.
“Tháng 8 năm 1693, đổi trấn Thuận Thành làm phủ Bình Thuận, lấy
tả trà viên Kế Bà Tử làm khám lý, ba người con Bà Ân làm đề đốc, đề lãnh
và cai phủ, bắt mặc quần áo theo lối người kinh và sai về để vỗ yên
lòng dân” (31) Việc lấy người Chiêm Thành cai trị người Chiêm Thành
thế này là hình thức mà lịch sử Việt Nam đã đối xử với tất cả các dân
tộc thiểu số từ trước đến nay. Công nhận sự tự trị nhưng có nghĩa là tự
trị dưới cơ cấu cai trị dạng piramid trong quốc gia. Do đó, kể từ bây
giờ Chiêm Thành đã trở thành một dân tộc thiểu số của Việt Nam.
Nhưng việc loại trừ hoàn toàn Chiêm Thành làm chúa Nguyễn gặp nhiều
khó khăn và trở thành gánh nặng. Từ tháng 12 năm 1693 đến tháng 2 năm
sau, người Thanh A Ban và người Chiêm Thành Oc Nha That liên kết với
nhau gây ra phản loạn ở Thuận Thành; Tháng 9 năm 1695 người lái buôn
Lính đã liên kết Quy Ninh và Quảng Phú ở Quảng Ngãi gây phản loạn; tháng
3 năm 1697, 5 sách huyện Phú Vang nổi dậy… là những ví dụ có thật gây
khó khăn cho chúa Nguyễn (32).
Sau khi chiếm Chiêm Thành vào năm 1693, chúa Nguyễn đã thi hành một
số chính sách để giảm thiểu gánh nặng và những mối lo lắng đó. Thứ nhất,
hợp nhất hoàn toàn đất chiếm lĩnh Thuận Thành vào lãnh thổ của mình,
đặt theo hình thức trấn hơn là đơn vị hành chính. Cho dù đã đặt lãnh,
phủ, huyện, tổng, tư là đơn vị hành chính địa phương đối với khu vực
đồng bằng của chúa Nguyễn lúc đó nhưng chúa Nguyễn đã không áp đặt mà
đặt Thuận Thành là trấn. Đây cũng là hình thức cai trị dân tộc thiểu số
trong quá khứ. Do đó, ngoài việc dùng phương pháp cực đoan là đàn áp
phản loạn, vào tháng 8 năm 1693, chúa Nguyễn đã đổi trấn Thuận Thành
thành phủ Bình Thuận rồi tháng năm năm sau lại đổi thành trấn Thuận
Thành (33).
Thứ hai, như đã viết ở trên, chúa Nguyễn đã thi hành chính sách đồng
hóa hay lấy người Chiêm Thành cai trị người Chiêm Thành. Với phương pháp
cụ thể hơn đối với điều này chúa Nguyễn đã dùng Kế Ba Tư làm tả đô đốc
của phủ Thuận Thành và tiếp tục cai trị nơi này, đã nộp cống ông ta bởi
phiên vương của trấn Thuận Thành và thu thập quân dân nộp cống hằng năm,
và đã trả lại những vật lấy được trong cuộc chiến như ấn, gươm, yên,
ngựa và những người bị bắt trước đây. Lúc này chúa Nguyễn đã chỉ định
những danh sách nộp cống cho Việt Nam là voi đức 2 thớt, bò vàng 20 con,
ngà voi 6 cái, sừng tê 10 tòa, khăn vải trắng 500 bức, sáp ong 50 cân,
da cá 20 tấm, cát sủi 400 thúng, chiếu tre trắng 500 lá, gỗ mun 200 cây,
thuyền dài 1 chiếc (34).
Việc quy định đối với các vật nộp cống và dâng phiên vương có thể nói
là một điển hình trong việc nâng cao vị thế so với các nước nhỏ xung
quanh của Việt Nam. Cho đến bây giờ khi xem xét đến thông lệ ban sắc
phong cho các tù trưởng các dân tộc thiểu số thì có thể thấy đó là mắt
xích trong chính sách hợp nhất Chiêm Thành như đã nêu. Khi so sánh thời
gian tồn tại hay diện tích lãnh thổ, chính sách thôn tính một quốc gia
có thế lực không thua kém mình là một sách lược chính trị khổ nhục.
Nhưng vào năm 1697, Việt Nam đổi trấn Thuận Thành thành Bình Thuận và
sát nhập vào một đơn vị hành chính của Việt Nam đồng thời hợp nhất lãnh
thổ còn lại của Chiêm Thành từ Phan Rang đến Phan Rí đổi thành 2 huyện
An Phuc và Hoa Da rồi sát nhập vào Bình Thuận nên dấu tích của Chiêm
Thành hoàn toàn đã bị xóa bỏ trên bản đồ (35).
Việc hợp nhất hoàn toàn Chiêm Thành thể hiện sự vững vàng của một
quốc gia thống trị nhưng cũng cho thấy đây là một mắt xích trong việc
thực hiện ý định hợp nhất Campuchia có chung đường biên giới. Kể từ
trước đó rất lâu, khi trấn Thuận Thành và Phan Rang, Phan Rí vẫn còn là
khu vực tự trị của Chiêm Thành, sự tiến vào Campuchia của Việt Nam đã
được thúc đẩy qua việc lợi dụng những người di cư của nước Minh để phát
triển lãnh thổ Campuchia nhưng lúc này thì Việt Nam không còn lý do gì
để tiếp tục giữ chế độ tự trị ở khu vực này. Việc chia rẽ mục đích chính
sách này mất cân bằng đối với nhiều dân tộc thiểu số và dân tộc Khơme
của Campuchia.
Tham vọng mở rộng lãnh thổ của Chúa Nguyễn không dừng lại ở Chiêm
Thành. Điều đó có thể nhìn thấy được vào năm 1621, chúa Nguyễn đã có
quan hệ hôn thú với đời thứ 2 Chey Chettha của Campuchia (36). Lúc đó,
chúa Nguyễn đã yêu cầu vua Campuchia cho người Việt Nam di trú tự nhiên,
di trú Thủy Chấn Lạp với những hình thức miễn thuế, thương mại, phát
triển. Kết quả là việc di trú đến Campuchia của người Việt Nam được bắt
đầu từ tỉnh Đồng Nai và Mỗi Xoài thuộc Bà Rịa, Vũng Tàu bây giờ (37).
Lúc đó Campuchia lệ thuộc vào vương quốc Ayuthaya của Thái Lan đã
mượn sức mạnh của Việt Nam để thoát khỏi sự cai trị của Thái, Việt Nam
đã có được cơ hội tiến vào Campuchia một cách hợp pháp và đồng thời trên
cơ sở đó, đã có được cơ hội tuyệt vời để có thể cản trở sự tiến vào
Campuchia của Thái và xâm chiếm lãnh thổ Campuchia (38). Sau đó, dưới
chính sách ngoại giao cận Việt viễn Thái của Campuchia (chữ Hán), năm
1658, lần đầu tiên Việt Nam có cơ hội gửi quân đội theo yêu cầu của
Campuchia để giải quyết phân tranh vương vị và kết quả là nhận được sự
cư trú hợp pháp ở Mỗi Xoài, Đồng Nai và nộp cống, thần phục từ Campuchia
(39).
Vào năm 1674, Việt Nam đã gửi quân đội đến Campuchia lần thứ hai để
giải quyết tranh chấp vương vị và có thể bước một bước sâu hơn vào việc
hợp nhất lãnh thổ Campuchia bằng cách đặt ra chế độ chính vương và phó
vương (chữ Hán). Lúc này, phó vương sống ở Sài Gòn. Trên cơ sở này, vào
tháng 1 năm 1679 Việt Nam đã đem 50 chiến thuyền với hơn 3 nghìn quân,
lợi dụng những người quản lý của nước Minh Trung Quốc đầu hàng như Dương
Ngan Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình … tiến hành thực
hiện việc phát triển Mỹ Tho và Biên Hòa (40). Những khu vực này là kết
quả chiến thắng trong cuộc phân tranh vũ lực với Thái trên lãnh thổ
Campuchia của Việt Nam, vì một phần thuộc khu vực mà Nạc Ông Nộn được bổ
nhiệm cai trị, nên Việt Nam có thể định cư ở đó. Năm 1679, do chính
vương và phó vương của Campuchia xung đột, Việt Nam và Thái đều gửi quân
đội can thiệp nên chiến tranh đã xảy ra, Việt Nam đã hoàn toàn không
thể đưa ra các giải quyết vấn đề này.
Những người có thế lực khai phá đất, xây dựng thành Đông Phố và biến
nơi đây thành nơi thương mại quốc tế đông đúc với những chiếc thuyền của
nhà Thanh – phương Tây – Nhật – Java. Thời điểm này, có thể nói ngoài
người Việt Nam ra, người Trung Quốc cũng phát triển Thủy Chân Lạp. Vào
năm 1680, việc phát triển Thủy Chân Lạp dựa vào Mạc Cửu người Quảng Đông
Trung Quốc. Ông ta được bổ nhiệm làm quản lý của Campuchia và đã phát
triển Phú Quốc, Cần Bọt, Gia Khê, Luỗng Cây, Hương Úc, Cà Mau (41). Ở
đây, vào năm 1810 đã đổi thành trấn Hà Tiên rồi năm 1831 đổi thành tỉnh
Hà Tiên.
Năm 1688, với cuộc phản loạn của Hoàng Tiến đã trở thành cơ hội cho
Việt Nam thực hiện hợp nhất lãnh thổ Campuchia. Hoàng Tiến gây ra phản
loạn, quốc vương của Campuchia Nặc Ông Thu đã từ chối thần phục và nộp
cống cho Việt Nam và dương ngọn cờ phản loạn. Việt Nam đã gửi quân vào
Sài Gòn để bình định việc này nhưng không thành công. Tuy nhiên, trong
trong một thời gian dài nắm giữ, Việt Nam thực sự đã có ảnh hưởng ở khu
vực này. Tiếp đó, năm 1691, người có thực quyền ở đây là phó vương Nặc
Ông Nộn tử vong đã tạo ra một khoảng trống quyền lực đã xúc tiến quá
trình hợp nhất của Việt Nam ở khu vực này. Trên cơ sở đó, từ năm 1698,
bắt đầu hợp nhất khu vực Gia Định khai thác được dựa vào người Trung
Quốc và người bản xứ trước đây.
Năm 1698 là năm sau khi Việt Nam hoàn toàn hợp nhất Chiêm Thành. Điều
này rất quan trọng vì thể hiện được tính quan hệ tương hỗ trong việc
hợp nhất Chiêm Thành và Campuchia của Việt Nam. Tức là, trước năm 1698,
Việt Nam có thể lợi dụng khoảng trống cai trị của Campuchia trên mảnh
đất do người Trung Quốc và người bản xứ khai phát và hợp nhất nhưng
trong khi chưa hợp nhất hoàn toàn Chiêm Thành nên có thể gặp nhiều khó
khăn; hoặc trong trường hợp đã hợp nhất hoàn toàn Chiêm Thành nhưng có
khả năng xảy ra phản loạn và chống đối nên có thể cho rằng sức lực sẽ bị
phân tán nên đã không thực hiện và chuẩn bị cho đến năm 1698 mới tiến
hành hợp nhất Campuchia.
“Bắt đầu đặt phủ Gia Định. Sai thống suất Nguyễn Hữu Kính kinh
lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc
Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh
Phiên Trấn, mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và cơ độ
thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất được nghìn dặm, được
hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ những dân xiêu dạt từ Bố Chính trở về nam
cho đến ở cho đông. Thiết lập xã thôn phường ấp, chia cắt giới phận,
khai khẩn ruộng nương, định lệ thuế to dung, làm sổ đinh điền. Lại lấy
người Thanh đến buôn bán ở xã Minh Hương. Từ đó người Thanh ở buôn bán
đều thành dân hộ của ta” (42).
Nội dung trên cho thấy việc hợp nhất lãnh thổ Campuchia của Việt Nam
khác với phương pháp hợp nhất Chiêm Thành trong thời kỳ trước. Khi hợp
nhất lãnh thổ của Chiêm Thành, đa số dùng phương pháp chiếm bằng vũ lực
nhưng khi hợp nhất lãnh thổ Campuchia thì lợi dụng người trong nước hay
người nước ngoài trước hết là khai thác rồi lợi dụng khi quyền lực cai
trị của Campuchia yếu đi thì hợp nhất một cách tự nhiên. Không những
thế, ở đây còn cho thấy sự ưu tiên phương pháp nhận lãnh thổ bằng cách
hỗ trợ giải quyết nội chiến của Campuchia hơn là dùng vũ lực trực tiếp.
Vào năm 1708, Mạc Cửu cảm thấy bất an với nội tình của Campuchia, nhờ
thần phục Việt Nam mới có được đường biên giới của Campuchia bây giờ
còn Việt Nam thì có được khu vực ở phía cực nam bao gồm đảo Phú Quốc,
Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu (43). Khu vực này là một trong 6 tỉnh thuộc
tỉnh Hà Tiên thời nhà Nguyễn. Điều này cũng như đã đề cập ở trên cho
thấy hình thức hợp nhất không liên quan đến vũ lực của Việt Nam.
Do đó, trong 6 tỉnh, Việt Nam đã hợp nhất 3 tỉnh là Biên Hòa, Gia
Định, Hà Tiên. Ba tỉnh còn lại vẫn trong tình trạng chưa hợp nhất được
là Định Tường, Vĩnh Long, An Giang. Ba tỉnh này ở trong địa thế hình
răng cưa, nằm xem kẽ giữa hai tỉnh Biên Hòa – Gia Định và tỉnh Hà Tiên.
Vì thế, để bảo tồn tỉnh Hà Tiên ở vị trí xa nên việc hợp nhất 3 tỉnh còn
lại là một việc cần thiết. Do đó qua 3 lần liên tiếp thực hiện hợp
nhất, khu vực này được hợp nhất với phương pháp khác với trước đây là
bằng vũ lực.
Lần thứ 1, năm 1732, Việt Nam đã gửi quân đội tới, lấy Mỹ Tho, Sa Đéc
ở phía Tây Gia Định, và đặt châu Định Viễn, lĩnh Long Hồ (44). Những
khu vực này thuộc tỉnh Định Tường. Những khu vực này bây giờ thuộc tỉnh
Tiền Giang, Đồng Tháp. Với cơ hội này, vào năm 1744 chúa Nguyễn đã xác
lập khu vực hành chính với cơ cấu 12 lĩnh và 1 trấn (45).
Lần thứ 2 cũng dành được thành quả bằng vũ lực. Chúa Nguyễn đã hai
lần viễn chinh Campuchia vào năm 1753 và 1755 do hiệp ước quan hệ của
chúa Trịnh và YuRin Côn Man của Nạc Ông Nguyên là vua Campuchia. Lúc này
Nạc Ông Nguyên tị nạn ở Hà Tiên và năm 1756, đưa Mạc Thiên Tứ đề nghị
thần phục và nộp cống cho chúa Nguyễn và đã dâng 2 phủ Tam Bon, Loi Lap
(46). Nơi này giáp với tỉnh Định Tường thuộc tỉnh Vĩnh Long.
Lần cuối cùng, năm 1757, trong quá trình lên ngôi, vua Cao Miên nhận
sự giúp đỡ đã nhận từ Nạc Ông Tôn 2 phủ Trà Vinh, Ba Thắc và Tầm Phong
Long (47). Trong 6 tỉnh, những khu vực này thuộc tỉnh An Giang. Do đó,
Việt Nam đã xác lập được lãnh thổ phía Nam bây giờ.
Đối với sự kiện của năm 1757, khi xem xét biên giới lãnh thổ Việt Nam qua ghi chép là “Năm
1757, Nạc Ông Nguyên nước Chân Lạp chết. Người chú họ là Nạc Nhuân Tạm
coi việc nước. Biên thần tâu xin nhân đó lập Nhuận để tỏ ân nghĩa, cho
vững biên cương. Chúa bắt phải hiến hai phủ Trà Vinh, Ba Thắc, rồi sau
mới y cho …” (48) chúng ta có thể thấy rõ hơn. Nói cách khác, cho
dù đã hợp nhất Định Tường và Vĩnh Long nhưng dưới thời chúa Nguyễn,
không có tỉnh An Giang nên Châu Đốc, Cần Thơ, Sóc Trăng có địa thế như
răng rụng nên Việt Nam cần có được vùng này với cái giá là phải can
thiệp chính trị.
Ngoài ra, cùng năm 1757, Việt Nam đã được vua Camphuchia Nạc Ông Tôn
dâng 5 phủ Hương Úc, Cần Bọt, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh (49). Khu
vực này tiếp giáp với Hà Tiên nhưng trong thời gian vua Tự Đức tại vị đã
trả lại cho Campuchia (50).
Việc mở rộng lãnh thổ phía Nam của chúa Nguyễn đã gặp phải một số yếu
tố nên phải tạm dừng ở đây. Thứ nhất, do sức lực quốc gia của chúa
Nguyễn bị yếu đi nên không đủ nội lực để mở rộng lãnh thổ hơn nữa. Thứ
hai, trong thời gian ngắn không đủ năng lực để khai thác quản lý lãnh
thổ tăng nhiều (51).
Việc mở rộng lãnh thổ về phía nam của Việt Nam cũng được tiếp tục
dưới triều đại cuối cùng trong lịch sử Việt Nam là triều đại nhà Nguyễn.
Như đã đề cập ở trên, Việt Nam đã hợp nhất một phần lãnh thổ của Lào
tiếp giáp với khu vực từ Quảng Bình tới Lạng Sơn, đã gửi quân đi 6 phủ
và bổ nhiệm làm tộc trưởng ở đây theo hình thức cai trị gián tiếp. Khi
xem xét đến nhiều điều kiện như chính trị – kinh tế – địa chính học,
Việt Nam tiếp tục thúc đẩy hợp nhất Cao Miên để dành lợi cho quốc gia,
và kết quả là năm 1835, Chân Lạp – quốc hiệu của Cao Miên đã đổi thành
Chân Tây Thành và lập 2 huyện, 32 phủ (52). Nhưng cuộc xung đột dành
quyền cai trị Campuchia giữa Việt Nam và Thái kéo dài, cộng với việc
phản đối sự cai trị của Việt Nam trên toàn Campuchia và các cuộc phản
loạn trong nước nên đã đẩy Việt Nam vào thế bất lợi. Cho nên, năm 1847,
Việt Nam đã ký hiệp định với Thái và rút quân. Do đó, cho đến khi Việt
Nam và Campuchia đều trở thành thuộc địa của Pháp thì Campuchia chỉ duy
trì mối quan hệ nộp cống cho Việt Nam (53). Qua đây, có thể thấy việc mở
rộng lãnh thổ của Việt Nam được điều khiển bởi Thái và Pháp. Nếu giả
định trường hợp Pháp không tiến hành xâm lược hay không có mâu thuẫn với
Thái thì Việt Nam đã có được một vùng rộng lớn trong lãnh thổ của Lào
và Campuchia.
IV. KẾT LUẬN
Việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam cho thấy một quy luật điển hình trong lịch sử nhân loại là cá lớn nuốt cá bé. Việt Nam đã không ngừng đấu tranh trong trường kỳ lịch sử để sinh tồn bên cạnh một Trung Quốc mạnh hơn mình nhưng ngược lại cũng tiến hành chinh phục Chiêm Thành và Campuchia yếu hơn. Điều này thể hiện hai mặt trong đặc trưng lịch sử của Việt Nam là chủ nghĩa dân chủ đấu tranh và chủ nghĩa dân chủ xâm lược.
Việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam cho thấy một quy luật điển hình trong lịch sử nhân loại là cá lớn nuốt cá bé. Việt Nam đã không ngừng đấu tranh trong trường kỳ lịch sử để sinh tồn bên cạnh một Trung Quốc mạnh hơn mình nhưng ngược lại cũng tiến hành chinh phục Chiêm Thành và Campuchia yếu hơn. Điều này thể hiện hai mặt trong đặc trưng lịch sử của Việt Nam là chủ nghĩa dân chủ đấu tranh và chủ nghĩa dân chủ xâm lược.
Việt Nam đã trải qua quá trình dân chủ đấu tranh và bồi dưỡng sức
mạnh quốc gia rồi trên cơ sở đó hướng đến chủ nghĩa dân chủ xâm lược và
kết quả là xác lập được lãnh thổ phía Nam bây giờ.
Việc mở rộng lãnh thổ về phía Nam đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế
của Việt Nam, đặc biệt là trong việc sản xuất ngũ cốc. Ngoài khí hậu
nhiệt đới gió mùa có lượng mưa và lượng nắng nhiều thì vùng này còn có
tài nguyên phong phú và đất đai màu mỡ và rộng lớn.
Ở đây cũng không thể bỏ qua sự đóng góp của người dân di trú Trung
Quốc. Trong khi không đủ nhân lực phát triển thì việc tham gia của người
dân Trung Quốc đã giảm bớt đi gánh nặng cho người dân Việt Nam, thúc
đẩy sự phát triển thương mại của phía Nam và đã tăng cường tính đặc
trưng đa văn hóa – đa dân tộc của Việt Nam.
Liên quan đến việc tăng cường tính đặc trưng đa văn hóa – đa dân tộc
của Việt Nam không thể loại trừ vai trò của Campuchia. Việc hợp nhất
Thủy Chân Lạp tức 6 tỉnh phía Nam dành được ngoài mảnh đất màu mỡ và
rộng lớn còn có được dân tộc Khơme đông nhất trong 54 dân tộc đã biến
Việt Nam từ một nước có văn hóa Phật giáo Đại thừa sang một nước văn hóa
Phật giáo Tiểu thừa.
Đồng thời, việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam cũng là một trường hợp
điển hình minh chứng cho quy luật lịch sử “giữa các nước láng giềng
không có quan hệ tốt ”. Nếu như quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và
Trung Quốc mới được tái lập vào năm 1991 thì quan hệ ngoại giao giữa
Việt Nam và Campuchia cũng không được mặn mà khi 20 vạn quân Việt Nam
rút lui khỏi Campuchia dưới áp lực của chủ nghĩa tư bản đứng đầu là Mỹ
vào năm 1989. Quan hệ giữa Việt Nam và Thái cũng đối lập sâu sắc trong
việc gây ảnh hưởng trên đất Campuchia. Xét trên quan điểm địa chính học,
quan hệ giữa Việt Nam và Lào có thể là một dị biệt nhưng xét cho cùng
thì có thể cũng không khác với những mối quan hệ nước láng giềng đã nêu
trên. **
GS.TS. Song Jung Nam
Trường Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc
————-
Trường Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc
————-
2 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử
chế độ phong kiến Việt Nam, T.III, Nxb Giáo dục, H.1961, p.484.
3 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hóa, H.2006; Nguyễn Đình Đầu, Việt Nam quốc hiệu và cương vực qua các thời đại, Nxb BT, 2003; Song Jung Nam, A study on the land system and territorial expansion in southern part of Vietnam: from the mid – 16 century to 18 century SHPS T 36, 1999; Song Jung Nam, The Name and Territory of Vietnam NCĐNA 16 – 2, 2007.
4 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.227.
5 Đại Việt sử ký toàn thư, T.I, Nxb KHXH, H.1998, p.228 tham khảo; Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb KHXH, H.1997, p.174 tham khảo; Song Jung Nam, Lịch sử Việt Nam, Nxb ĐHPS, 2001, p.134.
6 Đại Việt sử ký toàn thư, T.I, Sđd, pp.274 – 275; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.238; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Nxb KHXH, H.1977, p.32; Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb VHTT, H.1999, p.107; Song Jung Nam, The Name and Territory of Vietnam NCĐNÁ 16 – 2, 2007, p.106.
7 Đại Việt sử ký toàn thư, T.I, Sđd, p.278; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục T.I, Sđd, p.32.
8 Đại Việt sử ký toàn thư, T.I, Sđd, p.284; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.546; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.32.
9 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Nxb KHXH, H.1998, p.91; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.407; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.32.
10 Jung Nam, The Name and Territory of Vietnam NCĐNÁ 16 – 2, 2007, p.107.
11 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.91; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.32.
12 Đại Việt sử ký toàn th,ư T.II, Nxb KHXH, 1998, p.145; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.458 tham khảo.
13 Đại Việt sử ký toàn thư,T.II, Sđd, p.91; Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Sđd, p.170.
14 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, pp.202 – 203; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.512; Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.127; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục T.I, Sđd, p.35.
15 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.235; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.546; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục ,T.I, Sđd, pp.37 – 38 tham khảo.
16 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.168.
17 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, pp.441 – 452; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục T.I, Sđd, p.43.
18 Phan Huy Lê, Lịch sử chế độ phong keiens Việt Nam, T.II, Nxb GD, 1960, p.182; Đại Việt sử ký toàn thư T.II, Sđd, p.464.
19 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.507.
20 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.450; Việt sử thông giám cương mục, T.XI, Nxb Văn Sử Địa, 1959, pp.68 – 69; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.43.
21 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.363 tham khảo.
22 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.199.
23 Phan Huy Lê, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, T.II, Sđd, p.174 – 177.
24 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.477.
25 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.464.
26 Song Jung Nam, Quan hệ giữa Việt Nam và Thái Lan thời kỳ truyền thống, Hội thảo khoa học 2007 của hội Việt Nam học Hàn Quốc, 2007, p.44.
27 Song Jung Nam, A Study on the Development Factor of Trade in Dang Trong in 16th – 18th centuries NCĐNÁ 14 – 1, 2004, p.133.
28 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Nxb Sử học, 1962, pp.43 – 44.
29 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.83; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.56 tham khảo.
30 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.147; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, nhà sách Khai Trí, 1969, pp.217 – 218.
31 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.148.
32 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, pp.148 – 153.
33 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.150.
34 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, pp.150 – 151; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd, pp.217 – 218.
35 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.153.
36 Lê Nguyễn, Xã hội Đại Việt qua bút ký của người nước ngoài, Nxb VN TP HCM, 2004, p.174; Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, T.III, Sđd, p.105; Song Jung Nam, Quan hệ giữa Việt Nam và Thái Lan thời kỳ truyền thống, Bđd, p.43.
37 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Sđd, pp.105 – 106; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd, pp.400 – 402.
38 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Sđd, p.105; Yu In Sun, Lịch sử Việt Nam viết mới, Nxb Y San, 2002, 219 tham khảo.
39 Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Nxb Giaos dục, H.1998, pp.74 – 75; Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.98 tham khảo; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Nxb Thuận Hóa, 1993, p.542; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.58 tham khảo.
40 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.125; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.542; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.62 tham khảo.
41 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.167.
42 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, pp.153 – 154; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.542 tham khảo.
43 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.167; Song Jung Nam, A study on the land system and territorial expansion in southern part of Vietnam: from the mid – 16 century to 18 century SHBS T 36, 1999, p.57.
44 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, 1962, p.195; Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, p.78; p.241; Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.241; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd, p.232.
45 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, 1962, p.208.
46 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.224; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.544; Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, p.78; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục T.I, Sđd, p.69; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd, p.242.
47 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.226; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.544; Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, pp.79 – 80; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, p.242; Song Jung Nam, A study on the land system and territorial expansion in southern part of Vietnam: from the mid – 16 century to 18 century SHBS T 36, 1999, p.58.
48 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, pp.225 – 226; Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, p.79; Đại Việt sử ký tục biên 1676 – 1789, Nxb KHXH, 1991, pp.257 – 258.
49 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.226; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.544; Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, p.79, p.80.
50 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.243.
51 Song Jung Nam, The Name and Territory of Vietnam NCĐNA 16 – 2, 2007, p.110.
52 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, T.III, Sđd, p.479.
53 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, T.III, Sđd, p.481.
Nguồn: http://ongvove.wordpress.com/2012/05/02/l%E1%BB%8Bch-s%E1%BB%AD-m%E1%BB%9F-r%E1%BB%99ng-lanh-th%E1%BB%95-v%E1%BB%81-phia-nam-c%E1%BB%A7a-vi%E1%BB%87t-nam-1009-1847/
3 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hóa, H.2006; Nguyễn Đình Đầu, Việt Nam quốc hiệu và cương vực qua các thời đại, Nxb BT, 2003; Song Jung Nam, A study on the land system and territorial expansion in southern part of Vietnam: from the mid – 16 century to 18 century SHPS T 36, 1999; Song Jung Nam, The Name and Territory of Vietnam NCĐNA 16 – 2, 2007.
4 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.227.
5 Đại Việt sử ký toàn thư, T.I, Nxb KHXH, H.1998, p.228 tham khảo; Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb KHXH, H.1997, p.174 tham khảo; Song Jung Nam, Lịch sử Việt Nam, Nxb ĐHPS, 2001, p.134.
6 Đại Việt sử ký toàn thư, T.I, Sđd, pp.274 – 275; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.238; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Nxb KHXH, H.1977, p.32; Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb VHTT, H.1999, p.107; Song Jung Nam, The Name and Territory of Vietnam NCĐNÁ 16 – 2, 2007, p.106.
7 Đại Việt sử ký toàn thư, T.I, Sđd, p.278; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục T.I, Sđd, p.32.
8 Đại Việt sử ký toàn thư, T.I, Sđd, p.284; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.546; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.32.
9 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Nxb KHXH, H.1998, p.91; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.407; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.32.
10 Jung Nam, The Name and Territory of Vietnam NCĐNÁ 16 – 2, 2007, p.107.
11 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.91; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.32.
12 Đại Việt sử ký toàn th,ư T.II, Nxb KHXH, 1998, p.145; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.458 tham khảo.
13 Đại Việt sử ký toàn thư,T.II, Sđd, p.91; Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Sđd, p.170.
14 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, pp.202 – 203; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.512; Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.127; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục T.I, Sđd, p.35.
15 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.235; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.546; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục ,T.I, Sđd, pp.37 – 38 tham khảo.
16 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.168.
17 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, pp.441 – 452; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục T.I, Sđd, p.43.
18 Phan Huy Lê, Lịch sử chế độ phong keiens Việt Nam, T.II, Nxb GD, 1960, p.182; Đại Việt sử ký toàn thư T.II, Sđd, p.464.
19 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.507.
20 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.450; Việt sử thông giám cương mục, T.XI, Nxb Văn Sử Địa, 1959, pp.68 – 69; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.43.
21 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.363 tham khảo.
22 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.199.
23 Phan Huy Lê, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, T.II, Sđd, p.174 – 177.
24 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.477.
25 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.464.
26 Song Jung Nam, Quan hệ giữa Việt Nam và Thái Lan thời kỳ truyền thống, Hội thảo khoa học 2007 của hội Việt Nam học Hàn Quốc, 2007, p.44.
27 Song Jung Nam, A Study on the Development Factor of Trade in Dang Trong in 16th – 18th centuries NCĐNÁ 14 – 1, 2004, p.133.
28 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Nxb Sử học, 1962, pp.43 – 44.
29 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.83; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.56 tham khảo.
30 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.147; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, nhà sách Khai Trí, 1969, pp.217 – 218.
31 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.148.
32 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, pp.148 – 153.
33 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.150.
34 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, pp.150 – 151; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd, pp.217 – 218.
35 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.153.
36 Lê Nguyễn, Xã hội Đại Việt qua bút ký của người nước ngoài, Nxb VN TP HCM, 2004, p.174; Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, T.III, Sđd, p.105; Song Jung Nam, Quan hệ giữa Việt Nam và Thái Lan thời kỳ truyền thống, Bđd, p.43.
37 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Sđd, pp.105 – 106; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd, pp.400 – 402.
38 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Sđd, p.105; Yu In Sun, Lịch sử Việt Nam viết mới, Nxb Y San, 2002, 219 tham khảo.
39 Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Nxb Giaos dục, H.1998, pp.74 – 75; Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.98 tham khảo; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Nxb Thuận Hóa, 1993, p.542; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.58 tham khảo.
40 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.125; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.542; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.62 tham khảo.
41 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.167.
42 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, pp.153 – 154; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.542 tham khảo.
43 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.167; Song Jung Nam, A study on the land system and territorial expansion in southern part of Vietnam: from the mid – 16 century to 18 century SHBS T 36, 1999, p.57.
44 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, 1962, p.195; Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, p.78; p.241; Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.241; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd, p.232.
45 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, 1962, p.208.
46 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.224; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.544; Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, p.78; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục T.I, Sđd, p.69; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd, p.242.
47 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.226; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.544; Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, pp.79 – 80; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, p.242; Song Jung Nam, A study on the land system and territorial expansion in southern part of Vietnam: from the mid – 16 century to 18 century SHBS T 36, 1999, p.58.
48 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, pp.225 – 226; Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, p.79; Đại Việt sử ký tục biên 1676 – 1789, Nxb KHXH, 1991, pp.257 – 258.
49 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.226; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.544; Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, p.79, p.80.
50 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.243.
51 Song Jung Nam, The Name and Territory of Vietnam NCĐNA 16 – 2, 2007, p.110.
52 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, T.III, Sđd, p.479.
53 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, T.III, Sđd, p.481.
Nguồn: http://ongvove.wordpress.com/2012/05/02/l%E1%BB%8Bch-s%E1%BB%AD-m%E1%BB%9F-r%E1%BB%99ng-lanh-th%E1%BB%95-v%E1%BB%81-phia-nam-c%E1%BB%A7a-vi%E1%BB%87t-nam-1009-1847/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét