Thứ Hai, 12 tháng 3, 2012

ĐẶNG TIỂU BÌNH VÀ QUYẾT ĐỊNH CHIẾN TRANH VỚI VIỆT NAM (2)

Zhang Xiaoming
ĐẶNG TIỂU BÌNH VÀ QUYẾT ĐỊNH CỦA TRUNG QUỐC ĐI ĐÊN CHIẾN TRANH VỚI VIỆT NAM
 Ngô Bắc dịch

***

TÌM KIẾM SỰ ỦNG HỘ CỦA HOA THỊNH ĐỐN
       Vào ngày 28 Tháng Một 1979, khi các binh sĩ Trung Quốc đã chuẩn bị cho chiến tranh đánh Việt Nam, Đặng Tiểu Bình bước lên một phi cơ Boeing 707 sang Hoa Thịnh Đốn trong cuộc thăm viếng lịch sử của ông tại Hoa Kỳ.  Ông đã ngồi lầm lì trong buồng riêng của ông, rõ ràng đắm mình trong suy tưởng và nhận biết được tầm hệ trọng của chuyến đi. 104 Cuộc thăm viếng của ông sẽ hoàn tất một hành trình khởi xướng bởi họ Mao gần một thập niên trước đây nhằm trui rèn một mối quan hệ chiến lược với Hoa Kỳ.  Họ Đặng rõ ràng không chắc chắn là người Mỹ sẽ phản ứng trước cuộc chiến tranh đã hoạch định với Việt Nam ra sao.  Các nhà lãnh đạo Trung Quốc rõ ràng đã giả định rằng Trung Quốc và Hoa Kỳ có cùng các mục tiêu chiến lược và sẽ tạo thành một mặt trận thống nhất chống lại bá quyền Sô Viết.  Một trong những mục địch quan trọng (nếu không nói ra) của chuyến du hành của họ Đặng là để liên kết Hoa Kỳ với Trung Quốc trong việc đối phó với liên minh Sô Viết – Việt Nam tại Đông Á. 105 Lá bài chủ của họ Đặng là kế hoạch quân sự của Trung Quốc chống lại Việt Nam, kế hoạch mà ông ta mong muốn giành đoạt được sự ủng hộ của Hoa Kỳ.  Theo Geng Biao, họ Đặng đã đề nghị rằng Hoa Kỳ hãy phái các tàu hải quân của nó đến Biển Nam Hải để ngăn chặn các hoạt động hải quân của Sô Viết trong khi trợ giúp Trung Quốc tin tức tình báo về các chiếc tàu của Việt Nam.  Các nhà lãnh đạo Trung Quốc dường như tin rằng việc trao cho Hải Quân Hoa Kỳ sự tiếp cận với căn cứ hải quân ở Yalin trên đảo Hải Nam “sẽ dẫn dắt đến sự ổn cố của Đông Nam Á”. 106

       Lịch trình của họ Đặng tại Hoa Thịnh Đốn bao gồm ba phiên họp chính thức với Tổng Thống Carter.  Trong hai phiên họp đầu tiên, họ Đặng và Carter đã trao đổi quan điểm về các vấn đề thế giới, và tại phiên họp thứ ba họ hoạch định việc thảo luận về sự phát triển các quan hệ song phương. 107 Vào buổi chiều ngày 28 Tháng Một 1979, vài giờ sau khi đến Hoa Thịnh Đốn, họ Đặng yêu cầu một phiên họp đặc biệt với Carter để thảo luận về vấn đề Việt Nam, điều làm ngạc nghiên đối với các vị chủ nhà Mỹ đón tiếp ông. 108 Phiên họp, được tổ chức tại Phòng Bầu Dục vào cuối buổi chiều ngày 29 Tháng Một ngay sau khi chấm dứt buổi họp chính thức thứ nhì, với sự tham dự của họ Đặng, Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoàng Hoa (Huang Hua), và Thứ Trưởng Ngoại Giao Zhang Wenjin bên phía Trung Quốc, và Tổng Thống Carter, Phó Tổng Thống Walter Mondale, Bộ Trưởng Ngoại Giao Cyrus Vance, và Brzezinski bên phía Hoa Kỳ. 109 Brzezinski trong hồi ký của mình kể lại rằng nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nói “trong cung cách trầm tĩnh, cương quyết, và chắc chắn” về quyết định của Trung Quốc tiến đánh Việt Nam.  Họ Đặng thông báo với phía Mỹ rằng để đối đầu với sự bành trướng của Sô Viết, Trung Quốc “xem là điều cần thiết để đưa ra các sự kiềm chế các tham vọng hoang đàng của Việt Nam và dạy cho họ một bài học hạn chế thích đáng”.  Không tiết lộ các chi tiết cụ thể về kế hoạch của Trung quốc, họ Đặng phác họa các sự đáp ứng khả hữu của Sô Viết và các phương cách để đối phó với chúng.  Ông ta nói rằng nếu “khả tính xấu nhất” xảy ra, Trung Quốc “sẽ kiên định cầm cự” và sẽ chỉ yêu cầu “sự ủng hộ tinh thần” của Hoa Kỳ trên diễn trường quốc tế.  Carter đã không đưa ra một sự đáp ứng tức thời và thay vào đó chỉ nhắc nhở vị khách Trung Quốc hãy dè dặt trong việc đối phó với một tình hình khó khăn như thế. 110
       Ngày kế tiếp, họ Đặng đã nhận được một thư viết tay từ Carter, người đã tìm cách can ngăn một cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam.  Tổng Thống Carter lập luận rằng một cuộc chiến tranh trừng phạt hạn chế sẽ không có hiệu quả trên sự chiếm đóng của Việt Nam tại Căm Bốt, và ông cảnh cáo rằng nó có thể lôi kéo Trung Quốc vào một vũng lầy.  Carter cũng tiên đoán rằng một cuộc xâm lăng vào Việt Nam sẽ làm hỏng nỗ lực của Trung Quốc muốn vun xới một hình ảnh yêu chuộng hòa bình trên thế giới và có thể khiến người Mỹ lo âu rằng hành động quân sự của Trung Quốc trong tương lai sẽ làm phương hại đến các quyền lợi của Hoa Kỳ trong vùng. 111 Vào ngày 30 Tháng Một 1979, trong một phiên họp riêng khác với Carter, họ Đặng tỏ vẻ cương quyết và cứng rắn, nhấn mạnh rằng Trung Quốc phải trừng trị Việt Nam và rằng QĐGPNDTQ sẽ giới hạn hoạt động của nó vào một cuộc động binh ngắn ngủi.  Ông thừa nhận rằng phản ứng quốc tế có thể bị phân hóa vào lúc đó, nhưng ông tin tưởng rằng công luận sẽ tán thành Trung Quốc trong trường kỳ. 112 Phản ứng quốc tế dội ngược tiềm ẩn sẽ không làm nhụt chí nhà lãnh đạo Trung Quốc bởi ông ta sẽ không lùi bước trước bất kỳ điều gì một khi đã quyết định trong đầu. 113 Bất kể các ý kiến không hỗ trợ của Carter, họ Đặng đã không tin rằng Hoa Kỳ sẽ tán thành một sự kết án Trung Quốc về hành động quân sự của nó. 114
       Trước khi rời Hoa Thịnh Đốn để làm một chuyến đi thăm các nới khác của Hoa Kỳ, họ Đặng ngạc nhiên khi hay biết rằng Hoa Kỳ quan tâm đến một căn cứ kiểm thính hỗn hợp Hoa Kỳ - Trung Quốc tại khu vực Tân Cường của Trung Quốc nhằm chống lại Liên Bang Sô Viết.  Cuộc cách mạng Hồi giáo đang tiến bước tại Iran đã phủ trùm sự nghi ngờ trong tương lại về các căn cứ của Hoa Kỳ ở đó.  Theo Brzezinski, sự thiết lập đề nghị tại Trung Quốc có chủ định nhằm trợ giúp Hoa Kỳ chứng thực sự tuân hành của Sô Viết đối với Hiệp Ước Giới Hạn Các Vũ khí Chiến Lược.  Không giống như họ Mao, kẻ đã bác bỏ trong thập niên 1950 đề nghị của Sô Viết về một trung tâm chuyển tiếp phát thanh làn sóng dài hỗn hợp và một trạm tiếp nhận làn sóng dài tại Trung Quốc, họ Đặng bày tỏ sự quan tâm lớn lao và đồng ý cứu xét đề nghị. 115 Rõ ràng là trong cuộc thảo luận riêng sau cùng này giữa Carter, Brzezinski và họ Đặng, hai bên đã đạt được một sự hiểu ngầm rằng Hoa Kỳ sẽ trợ giúp Trung Quốc với việc theo dõi tin tình báo về các lực lượng của Sô Viết tại Viễn Đông. 116 Họ Đặng có nói với Ủy Ban Trung Ương ĐCSTQ hồi Tháng Ba 1979 rằng Hoa Kỳ “đã nói với giọng điệu chính thức” (daguanqiang) một cách công khai chống lại hành động quân sự của Trung Quốc nhưng “trong riêng tư đã nói [với ông] một cách khác” và “thông báo cho chúng ta một số tin tức tình báo” cho thấy rằng không có đơn vị nào trong 54 sư đoàn của Sô Viết tại biên giới Trung Quốc – Sô Viết là có đủ cấp số. 117 Trong chuyến hồi hương, họ Đặng tỏ ra thư giãn. 118 Ông ta cảm nhận rằng một mối quan hệ chiến lược mới giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đang được phát triển trên căn bản các sự quan tâm chung của hai nước trong việc đối phó với chính sách bành trướng của Sô Viết.  Về vấn đề Việt Nam, phía Hoa Kỳ không bác bỏ hay chỉ trích trực tiếp các kế hoạch của trung Quốc và thay vào đó kêu gọi sự hợp tác tình báo tương lai.

KẾT LUẬN: LƯỢNG ĐỊNH QUYẾT ĐỊNH CỦA
TRUNG QUỐC ĐI ĐẾN CHIÊN TRANH
       Vào ngày 11 Tháng Hai 1979, hai ngày sau khi họ Đặng quay về Bắc Kinh, Bộ Chính Trị ĐCSTQ gặp gỡ trong một phiên họp mở rộng.  Họ Đặng đã giải thích bản chất và các mục đích của cuộc tấn công Việt Nam.  Sau đấy, các chỉ huy quân sự địa phương tại Quảng Tây và Vân Nam đã nhận được lệnh phóng ra các cuộc tấn công vào Việt Nam. 119 Vào ngày 14 Tháng Hai, Ủy Ban Trung Ương ĐCSTQ đã gửi một thông tư đến các tổ chức đảng thuộc các tỉnh, quân khu, các tổng cục QĐGPNDTQ, và các bộ trong chính phủ giải thích quyết định của nó để phóng ra cuộc hoàn kích tự vệ.  Mục đích của thông tư này là để cho các tổ chức đảng hay biết về chiến tranh sắp xảy ra và yêu cầu chúng thông báo cho các đảng viên ở cấp tỉnh và trung đoàn quân đội.  Để đối phó với bất kỳ sự chống đối hay quan ngại, thông tư nhấn mạnh rằng cuộc chiến tranh sẽ được giới hạn về không gian, thời gian, và quy mô.  Trích dẫn cuộc xung đột biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 và các cuộc đụng độ biên giới Trung Quốc – Sô Viết năm 1969, văn thư nhấn mạnh rằng Trung Quốc sẽ không lấy một tấc đất nào của lãnh thổ Việt Nam và sẽ không cho phép CHXHCNVN chiếm cứ một tấc đất nào của Trung Quốc.  Văn kiện đã kết luận bằng việc ghi nhận rằng hoạt động quân sự sẽ hỗ trợ hòa bình và ổn định dọc biên giới và sẽ tạo thuận lợi cho chương trình “bốn hiện đại hóa” của Trung Quốc. 120
       Ngày 17 Tháng Hai đã là ngày mà các quan sát viên phe thứ ba tiên đóan từ lâu.  Họ đã ngờ vực rằng việc ấn định thời biểu của một cuộc tấn kích có liên hệ chặt chẽ với các yếu tố thời tiết.  CHNDTQ sẽ không muốn thực hiện các cuộc động binh quân sự trong mùa mưa, thường bắt đầu trong Tháng Tư, hay tấn công quá sớm khi các lực lượng vũ trang Sô Viết vẫn có thể băng ngang các giòng sông đóng băng dọc theo biên giới Trung Quốc – Sô Viết. 121 Họ Đặng và các nhà lãnh đạo Trung Quốc khác đã cân nhắc mọi giải pháp cũng như các hậu quả khả hữu một khi các binh sĩ của họ vượt quá biên giới Việt Nam, kể cả một sự chạm trán khả dĩ với Liên Bang Sô Viết.  Họ tin tưởng rằng phạm vi và thời khoảng giới hạn của cuộc chiến, mà họ trình bày như một trận “hoàn kích tự vệ”, sẽ chặn đầu các phản ứng tiêu cực trong nước và hải ngoại.  Tuy nhiên, không một ai xem ra đã dự liêu rằng cuộc chiến tranh 1979 sẽ châm ngòi cho các sự đối đầu quân sự liên tục tại biên giới CHNDTQ - CHXHCNVN trong gần một thập niên.
       Theo các học giả Trung Quốc, quyết định của CHNDTQ để phóng ra một cuộc chiến tranh chống Vi8ệt Nam bị ảnh hưởng bởi sự phản ứng thái quá của các nhà lãnh đạo Trung Quốc trước sự đe dọa quân sự của Sô Viết, khiến cho họ theo đuổi sự hợp tác chiến lược với Hoa Kỳ chống lại Liên Bang Sô Viết.  Bởi chính sách này nhấn mạnh sự đối đầu, khuynh hướng của Bắc Kinh đối với cấp vùng trở nên cứng rắn và hiếu chiên.  Các nhà làm chính sach Trung Quốc tin tưởng rằng một cuộc tấn công trừng phạt Việt Nam sẽ quất một đòn vào chiến lược bành trướng toàn cầu của Liên Bang Sô Viết. 122 Tuy thế, các cuộc nghiên cứu này không giải thích một cách thỏa đáng lý do tại sao các nhà lãnh đạo Trng Quốc lại có xu hương phóng đại sự đe dọa của Sô Viết hay tại sao họ Đặng lai hăng hái thông báo với chính quyền Carter về quyết định tấn công Việt Nam, điều gì đó sẽ chỉ xảy ra giữa hai nước liên minh chặt chẽ. 123 Mặc dù yếu tố Sô Viết có ảnh hưởng đến sự cấu tạo quyết định của Trung Quốc, các yếu tố khác, kể cả chính trị nội địa, cũng đóng một vai trò.
       Chính sách của CHNDTQ đối với Việt Nam bị hướng dẫn bởi các sự cứu xét đa diện, từ truyền thống lịch sử cho đến ý thức hệ cách mạng và an ninh quốc gia.  Cảm nhận của các nhà lãnh đạo Trung Quốc về sự ưu việt đã chế ngự các nhận thức của họ về mối quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam. 124 Mặc dù các viên chức ở Bắc Kinh đã tuyên bố nhiều lần rằng Việt Nam phải được đối xử như kẻ “ngang hàng”, tác giả Chen Jian nhận xét rằng mỹ từ như thế phản ảnh lòng tin mạnh mẽ của họ rằng “họ đã chiếm giữ một vị thế từ đó ban truyền các giá trị và bộ luật ứng xử sẽ không chế các quan hệ của họ với các lân bang”. 125 CHNDTQ tuyên bố rằng nó đã không hề áp đặt các điều kiện chính trị và kinh tế trên viện trợ quân sự cho Hà Nội trong hai thập niên trước đó, nhưng nó đã đòi hỏi Hà Nội nhìn nhận vai trò hàng đầu của Trung Quốc trong việc ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc. 126 “Thái độ xấu xa” của Việt Nam đối với Trung Quốc, đặc biệt sự liên minh của nó với Liên Bang Sô Viết, đã diễn ra như một sự sỉ nhục người Trung Quốc, các kẻ muốn trừng phạt đồng minh xưa kia nay phản bội họ.  Cảm xúc này đã đóng một vai trò đáng kể trong việc phát sinh một sự đồng thuận rộng rãi giữa các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Trung Quốc để ủng hộ họ Đặng, nhân vật then chốt thúc đẩy hành động quân sự chống lại Việt Nam.  Về các vấn đề chủ quyền lãnh thổ, vốn thường khuấy đông các xúc cảm trong người Trung Hoa, quan điểm quân sự xem ra sẽ là yếu tố xác định trong các quyết định để khởi phát các sự thù nghịch thực tế.  Phiên họp Tháng Chín 1978 của Bộ Tổng Tham Mưu, trong đó đưa đến các khuyến cáo về phương cách sửa chữa mối quan hệ đang suy đồi với Việt Nam, đã là điểm xuất phát của một cuộc động bình quan trọng.  Họ Đặng đã dùng các khuyến cáo này vừa cho các mục tiêu chiến lược lẫn đối nội.
       Thành tố lịch sử - văn hóa, cùng với cảm thức dân tộc, đã xui khiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc phóng ra một cuộc chiến tranh nhằm “dạy cho Việt Nam một bài học”.  Tuy nhiên, chương trình kinh tế mới của Bắc Kinh và mối đe dọa hiện hữu của Sô Viết, cộng với mùa mưa ở Việt Nam, khiến cho Bộ Chính Trị ĐCSTQ chỉ muốn có một chiến dịch hạn chế và ngắn ngủi.  Chiến tranh đã được thiết kế để không đưa ra một nguy hiểm thực sự cho Hà Nội và chỉ nhằm xói mòn ý chí của Việt Nam muốn chiếm cứ Căm Bốt.  Phe Khmer Đỏ hy vọng rằng QĐGPNDTQ có thể đánh sâu vào lãnh thổ Việt Nam, nhưng không hoạt đông nào như thế đã thực sự xẩy ra.  Dù thế, cuộc tấn công “biểu tượng” của Trung Quốc đã giúp cho phe Khmer Đỏ tránh được sự hủy diệt hoàn toàn và giúp chúng cầm cự được cuộc kháng chiến chống lại các lực lượng Việt Nam xâm chiếm.  Bản chất trừng phạt của cuộc chiến tranh có phải là một mục tiêu thực sự, hay nó chỉ là mỹ từ và một sự phản ảnh cơn tức giận của Bắc Kinh đối với Hà Nội và cuộc xâm lăng Căm Bốt? Nếu giảng dạy một bài học là mục tiêu chính của Trung Quốc, QĐGPNDTQ hẳn phải đánh mạnh để đạt được các kết quả quân sự đáng kể.  Nhưng trong một cuộc phỏng vấn với các ký giả Nhật Bản giữa lúc chiến tranh, họ Đặng xác nhận rằng ông sẽ “không cần các thành quả quân sự”. 127 Sau đó ông đã giải thích, “Dạy cho Việt Nam một bài học đã không được đặt trên một sự cứu xét về những gì đang xảy ra giữa Trung Quốc và Việt Nam hay tại Đông Dương, mà đặt trên một sự nghiền ngẫm về vấn đề từ một góc nhìn của Á Châu và Thái Bình Dương, và nói cách khác, từ bình diện cao của chiến lược toàn cầu”. 128 Chung cuộc, sự tính toán của ông bị chi phối bởi hai ưu tiên: môi trường an ninh đối ngoại của Trung Quốc và việc cải tổ và mở cửa nền kinh tế của Trung Quốc.
       Hồi cuối thập niên 1970, tư tưởng chiến lược của các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn còn phản ảnh quan điểm của họ Mao rằng Liên Bang Sô Viết đặt ra sự nguy hiểm lớn nhất cho hòa bình thế giới và cho Trung Quốc.  Mối quan hệ quân sự mới giữa Sô Viết – Việt Nam, sự xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt, và sự thù nghịch gia tăng của Việt Nam đối với Trung Quốc đã nung sôi sự quan ngại của Trung Quốc về một sự đe dọa gia tăng của Sô Viết đối với Trung Quốc.  Mặc dù họ Đặng đã từ bỏ các chính sách đối nội cấp tiến của họ Mao, ông đã trung thành một cách kiên định với chiến lược “dàn hàng ngang” của vị lãnh đạo Trung Quốc quá cố trong việc thành lập một mặt trận chung với Hoa Kỳ để chống lại Liên Bang Sô Viết.  Sự bắt đầu cuộc cải cách kinh tế theo định hướng thị trường của Trung Quốc đã tăng cường tầm quan trọng của chính trị quyền lực thực dụng đối với tư tưởng chiến lược của Trung Quốc.  Họ Đặng đã đặt sự thành công của sự cải cách kinh tế trên kỹ thuật Tây Phương và đầu tư nước ngoài, đặc biệt từ Hoa Kỳ.  Quyết định của Đặng để chấp nhận các điều kiện của Hoa Kỳ hồi giữa Tháng Mười Hai 1978 có tính chất quan yếu để đạt được hai mục tiêu chiến lược này về mặt đối ngoại cũng như đối nội.  Bất kể sự tính toán thực dụng của họ Đặng về các quyền lợi quốc gia với ít sự kiềm chế ý thức hệ, ông đã ấp ủ hy vọng ngây thơ rằng vấn đề bán vũ khí cho Đài Loan sẽ tự nó được giải quyết khi Trung Quốc phát triển các quan hệ thuận lợi hơn với Hoa Kỳ. 129 Quyết định của Trung Quốc để phóng ra một cuộc chiến tranh trừng phạt chống Việt Nam được nhắm để biểu lộ sự hữu dụng của Bắc Kinh trong việc đối phó với chính sách bành trướng của Sô Viết.  Sự chấp nhận của CHNDTQ đề nghị của Hoa Kỳ để thiết lập hai trạm theo dõi điện tử tại miền tây Trung Quốc đã tạo ra một tài sản quý giá cho cả hai nước nhưng cũng là một gánh nặng cho chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc trong nhiều năm sau đó. 130 Khi xét tất cả các yếu tố này, mục tiêu trong quyết định của Trung Quốc nhằm sử dụng vũ lực để dạy cho Việt Nam một bài học thì không quan trọng như nhiều người đã nghĩ lúc ban đầu.  Quyết định đi đến chiến tranh thì khó để lượng định nếu không có sự lượng giá kỹ lượng các tình huống địa lý chính trị và nỗ lực của Trung Quốc để cải cách kinh tế -- các hoàn cảnh trong năm 1979 khác biệt tự nền tảng với tình hình của năm 1950.  Bất kể lý luận ra sao cho cuộc chiến tranh, cách lãnh đạo độc tài của họ Đặng đã cho phép ông khống chế sự cấu tạo quyết định của Bắc Kinh, và do đó sự khôn ngoan trong quyết định của ông để tấn công Việt Nam vẫn còn là điều có thể tranh luận./-         
___

CHÚ THÍCH
1. Renmin Ribao [Nhân Dân Nhật Báo: People’s Daily], 19 Tháng Ba 1979.  Muốn có phiên bản Anh ngữ, xem Beijing Review, 23 March 1979.
2. Harlan W. Jencks, “China’s ‘Punitive’ War on Vietnam: A Military Assessment”, Asian Survey, Vol. 19, No. 8 (August 1979), các trang 802-803); Steven J. Hood, Dragon Entangled: Indochina and the China-Vietnam War (Armonk, NY: M. E. Sharpe, 1992), các trang 50-57; và Edward C. O’Dowd, Chinese Military Strategy in the Third Indochina War: The Last Maoist War (New York: Routledge, 2007), trang 6.
3. Robert S. Ross, The Indochina Tangle: China’s Vietnam Policy, 1975-1979 (New York: Columbia University Press, 1988), trang 253; và Bruce Elleman, Modern Chinese Warfare, 1785-1989 (London: Routledge, 2001, trang 285.  
4. Gerald Segal, Defending China (New York: Oxford University Press, 1985), các trang 225-226.
5. King Chen, China’s war with Vietnam, 1979 (Stanford, CA: Hoover Institution Press, 1987), các trang 85-86, 153.
6. Andrew Scobell, China’s Use of Military Force beyond the Great Wall and the Long March (New York: Cambridge University Press, 20093), các trang 124-143.
7. Các hồi ký nổi bật nhất là của Zhou Deli, Yige gaoji canmouzhang de zishu [Các Hồi Tưởng Cá Nhân Của Một Tham Mưu Trưởng Cao Cấp] (Nanjing: Nanjing chubanshe, 1992); Xu Shiyou de zuihou yizhan [Trận Đánh Cuối Cùng của Xu Shiyou] (Nanjing: Jiangsu renmin chubanshe, 1990); và Zhang Zhen, Zhang Zhen huiyilu [Hồi Ký của Zhang Zhen] (Beijing: Jiefangjun chubanshe, 2003).  Ngoài ra, các địa điểm trên mạng Internet bằng Hán tự có chứa các tài liệu, hồi ký, hồi ức cá nhân, và các đoạn trích từ các ấn phẩm tiếng Hán về cuộc chiến tranh năm 1979 với Việt Nam.  Địa chỉ hữu dụng nhất là “ZhongYue zhangzhen baiwanglu” [Ghi Nhớ về Chiến Tranh Trung-Việt], http://bwl.top81.cn/war79/index.html.
8. Muốn nghiên cứu về quyết định của Trung Quốc trên Chiến Tranh Triều Tiên, xem Shu Guang Zhang, Mao’s Military Romanticism: China and the Korean War, 1950-1953 (Lawrencẹ KS: University Press of Kansas, 1995), chương 4; Chen Jian, Mao’s China and the Cold War (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2001), chương 4; và Xiaoming Zhang, Red Wing over the Yalu: China, the Soviet Union, and the Air War in Korea (College Station: Texas A&M University Press, 2002), chương 3.
9. Ross, The Indochina Tangle, các trang 118-123, 127-128.  Phía Trung Quốc tuyên bố rằng CHNDTQ không thể duy trì cùng múc độ viện trợ cho Việt Nam như nó đã làm trong thời chiến bởi vì nền kinh tế Trung Quốc đang đối diện với các khó khăn lớn lao vào lúc đó.  Xem Gao Ming, biên tập, Zhong Yue guanxi yanbian sishinian [Sự phát triển Các Quan Hệ Trung – Việt Trong Bôn Mươi Năm] (Nanjing, China: Guangxi renmin chubanshe, 1992), trang 114.
10. Chen, China’s War, các trang 35=36.
11. Luo Yuansheng, Baizhan jiangxing Wang Shangrong [Tiểu sử Tướng Wang Shangrong] (Beijing: Jiefangjun wenji chubanshe, 1999), các trang 375-377; và Yang Qiliang và các tác giả khác, Wang Shangrong jiangjun [Tướng Quân Wang Shangrong] (Beijing: Đangai Zhongguo chubanshe, 2000), trang 626.
12. John Vasquez và Marie T. Henechan, “Territorial Disputes and the Probability of War, 1816-1992”, Journal of Peace Research, Vol. 38, No. 2 (2001), các tran 123-138.
13. Guo, biên tập, Zhong Yue guanxi yanbian sishinian, trang 169; Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, các trang 241-242.
14. Han Huanzhi, chủ biên, Dangdai Zhongguo jundui de junshi gongzuo [Các Sự Vụ Quân Sự Trung Quốc Đương Đại] (Beijing: Zhongguo shehui kexue chubanshe, 1989), vol. 1, trang 659.
15. Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, các trang 239-240.
16. Han Lianlong [? Nianlong], chủ biên, Dangdai Zhongguo waijiao [Ngoại Giao Trung Quốc Đương Đại] (Beijing: Zhongguo shehui kexue chubanshe, 1990), các trang 285-286.
17. Bộ Quốc Phòng Việt Nam, Viện Quân Sử, Yuenan renminjun wushinian [Năm Mươi Năm Quân Đội Nhân Dân Việt Nam], phiên dịch bởi Liu Huanpu và các tác giả khác (Beijing: Junshi Yiwen chubanshe, 1994), các trang 267-268.
18. Brandy Womack, China and Vietnam: The Politics of Asymmetry (New York: Cambridge University Press, 2006), trang 199.
19. Một nghiên cứu gần đây ghi nhận rằng từ 1949 cho đến 2007, Trung Quốc đã có 23 cuộc tranh chấp đất đai với các lân bang của nó trên đất liền và trên biển  và đã sử dụng vũ lực trong sáu lần.  Xem M. Taylor Fravel, Strong Borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China’s Territorial Disputes (Princeton, NJ: Princeton University Press, 2008), các trang 1-2.
20. Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, các trang 242-243.
21. Zhongguo Renmin Jiefangjun Tongjian” Ủy Ban Biên Tập, Zhongguo renmin jiefangjun tongjian [Tài Liệu Tổng Quát về Giải Phóng Quân của Nhân Dân Trung Quốc, 1927-1996, 3 tập. (Lanzhou, China: Gansu renmin chubanshe, 1997), Tập 2, trang 2173.
22. Trừ khi được trưng dẫn một cách khác, mọi tin tức chi tiết về kế hoạch xâm lăng của Trung Quốc được cung cấp bởi Cai Pengcen, một sinh viên cao học lịch sử tại Đại Học Tây Nam (Southwest University) của Trung Quốc.
23. Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, các trang 244-245; Zhang Zhen, Zhang Zhen junshi wenxuan [Tuyển Tập Bài Viết về Quân Sự của Zhang Zhen] (Beijing: Jiefangjun chubanshe, 2005), trang 298; và Wang Hanccheng, Wang Hancheng huijilu [Hồi Ký Wang Hancheng] (Beijing: Jiefangjun chubanshe, 2004), trang 535.  Cả Zhang và Wang đều cho cho hay rằng các binh sĩ thuộc các Quân Khu Thành Đô và Vũ Hán được xem là như quân trừ bị chiến lược của QĐGPNDTQ.
24. Việc này có lẽ đã xảy ra trong một phiên họp của Quân Ủy Trung Ương trong Tháng Mười Một năm 1978.  Xem, Zhang, Zhang Zhen huiyilu, Tập 2, các trang 165-66; và Jin Ye, Hu Juchen, và Hu Zhaocai, Baizhan jiangxing Xu Shiyou [Tiểu sử Tướng Xu Shiyou] (Beijing: Jiefangjun wenyi chubanshe, 1999), các trang 329-331.
25. Geng Biao, “Báo Cáo Bí Mật”, 16 Tháng Một 1979, trong tạp chí Studies on Chinese Communism, No. 166 (15 Tháng Mười, 1980), các trang 150-152.
26. Chen, China’s War, trang 87.
27. Ye Yunglie, Cong Hua Guofeng dao Deng Xiaoping Zhongkang shiyijie sanzhong quanhui qianhou [Từ Hoa Quốc Phong đến Đặng Tiểu Bình: Quanh Phiên Họp Kháng Đại Thứ ba của Ủy Ban Trung Ương Đảng Thứ Mười Một] (Hong Kong: Tiandi Books, 1998), các trang 526-527; Sun Dali, “A Historical Turning Point of New China: The Third Plenum of the Eleventh Central Committee”, trong sách biên tập bởi Lin Zhijian, Xin Zhongguo yaoshi shuping [Duyệt Xét các Biến Cố Quan Trọng của nước Trung Quốc Mới] (Beijing: Zhongyang wenxian chubanshe, 1994), trang 498; và Xiao Jinguang, Xiao Jinguang huiyilu xuji [Hồi Ký Xiao Jinguang: Tục Biên] (Beijing: Jiefangjun chubanshe, 1988), các trang 361-363.
28. Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Ba của Ủy Ban Trung Ương Đảng Thứ Mười, được tổ chức từ 16 đến 21 Tháng Bẩy 1977, đã chỉ định họ Hua làm chủ tịch ĐCSTQ với sự kiểm soát trọn vẹn các công việc của đảng, nhà nước, và quân đội.  Họ Ye vẫn còn phụ trách quân đội, và họ Wang được thăng chức làm phó chủ tịch ĐCSTQ một tháng sau đó, chịu trách nhiệm về việc tổ chức đảng, tuyên truyền và an ninh công cộng.  Xem Ye, Cung Hua Guofeng dao Deng Xiaoping, các trang 222, 227, 235-236, 240.
29. Deng Xiaoping, Deng Xiaoping wenxuan [Văn Tuyển Đăng Tiểu Bình] (Beijing: Renmin chubanshe, 1983), Tập 2, trang 65.
30. Ye, Cung Hua Guofeng dao Deng Xiaoping, các trang 222- 226; và Sun, “A Historical Turning Point of New China”, các trang 478-480.
31. Lee Kuan Yew, From The Third World to First: The Singapore Story, 1965-2000 (New York: Anchor Press, 2000), các trang 601-602.
32. Chen, China’s War, trang 85.
33. Mặc dù họ Wang vẫn còn là phó chủ tịch ĐCSTQ, ông không còn kiểm soát văn phòng chính của đảng, hay đơn vị bảo vệ trung ương của QĐGPNDTQ.  Ye, Cong Hua Guofeng, các trang 463-528.
34. Deng Xiaoping, Deng Xiaoping wenxuan [Văn Tuyển Đặng Tiểu Bình], Tập 3 (Beijing: Renmin chubanshe, 1993), trang 269.
35. Li Shenzhi, Li Shenzhi wenji [Tuyển tập các bài viết của Li Shenzhi] (Beijing: không ghi nhà xuất bản, 2004), trang 334.
36. Qian Jiang, Deng Xiaoping yu ZhongMei jianjiao fengyun [Đặng Tiểu Bình và Sự Thiết Lập Mối Quan Hệ Ngoại Giao giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ] (Beijing: Zhonggong dangshi chubanshe, 2005), trang 153; và Gong Li, Deng Xiaoping yu Meiguo [Đặng Tiểu Bình và Mỹ Quốc](Beijing: Zhonggong dangshi chubanshe, 2004), trang 236.
37. Qiang Zhai, China and the Vietnam Wars, 1950-1975 (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2000), trang 214.
38. “Comrade B on the Plot of the Reactionary Chinese Clique against Vietnam (1979)” [Đồng chí B – nhiều phần là Lê Duẩn – nói về Âm Mưu của Tập Đoàn Trung Quốc Phản Động chống lại Việt Nam (1979), chú của người dịch], được phiên dịch sang Anh ngữ bởi Christopher E. Goscha, The Cold War International Historical Project Bulletin, No. 12/13 (Fall/Winter 2001), các trang 281, 284, 289.  Cũng xem, Odd Arne Westad, và các tác giả khác, đồng biên tập, “77 Conversations between China and foreign Leaders on the Wars in Indochina, 1964-1977”, CWIHP Working Paper No. 22, Cold War International History Project, Washington, DC, trang 57.
39. Đây là số thống kê chính thức của Trung Quốc, nhưng cách thức tính toán thì không rõ ràng.  Theo một nguồn tin Trung Quốc chính thống, Trung Quốc đã cung cấp cho Bắc Việt Nam một tổng số là 4.26 tỷ Nhân Dân Tệ (RMB) về viện trợ quân sự từ năm 1950 đến 1974.  Li Ke và Hao Shengzhang, Wenhua dagemin zhong de jiefangjun [QĐGPNDTQ trong cuộc Cách Mạng Văn Hóa] (Beijing: Zhonggong dangshi ziliao chubanshe, 1989), trang 409.
40. Guo, biên tập, Zhong Yue guanxi, trang 106.
41. Luo, Baizhan jiangxing Wang Shangrong, trang 377.
42. Xem Westad et al., đồng biên tập, “77 Conversations”, các trang 94-98, 194-195.
43. Lee, From the Third World, trang 595.
44. Raymond Aron, Peace and War: A Theory of International Relations (Garden City, NY: Anchor Press, 1973), trang 19.
45. Thí dụ, trong Tháng Ba 1978, nhà lãnh đạo Sô Viết Tối Cao của Liên Bang Sô Viết (USSR) có gửi một thông điệp đên Ủy Ban Thường Vụ của Quốc Hội Nhân Dân Trung Quốc đề nghị rằng Liên Bang Sô Viết và Trung Quốc công bố một bản tuyên bố thân hữu về các nguyên tắc hướng dẫn các quan hệ nhà nước.  Phía Trung Quốc đã công khai bác bỏ đề nghị này.
46. Muốn có quan điểm của họ Đặng về Liên Bang Sô Viết, xem Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại, Brzezinski-Deng, 21 Tháng năm 1978, trong Hô Sơ China Vertical File, Jimmy Carter Library (JCL).  Cũng xem, Wang Zhongchun, “The Soviet Factor in Sino-American Normalization, 1969-1979”, trong sách đồng biên tập bởi Willkiam C. Kirby, Robert S. Ross và Gong Li, Normalization of U.S. –China Relations: An International History (Cambridge, MA: Harvard University Asia Center, 2005), các trang 165-166.
47. Wang, “The Soviet Factor in Sino-American Normalization, 1969-1979”, các trang 158-164.
48. Văn Khố Bộ Ngoại Giao, CHNDTQ, Weiren de zuji: Deng Xiaoping waijiaohuedong dashiji [Các Dâu Chân của Một Người Vĩ Đại: Tài Liệu về sự Tham Dự của Đặng Tiểu Bình trong Các Biến Cố Ngoại Giao Quan Trọng] (Beijing: Shijie zhishi chubanshe, 1998), trang 158.
49. Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại, Brzezinski-Deng, 21 Tháng Năm 1978.
50. Kyodo News, 26 Tháng Hai 1979, trong U.S. Foreign Broadcast Information Service, Daily Reports: China (FBIS-PRC) 26 February 1979, trang A6.
51. Đặng Tiểu Bình tin tưởng rằng chiến tranh đánh Việt Nam sẽ chứng tỏ rằng “Trung Quốc từ chối không bị dẫn dắt bởi các sự ngụy biện (buxinxie)”.  Xem Deng Xiaoping, Deng Xiaoping junshi wenji [Tuyển Tập Các Bài Viết Về Quân Sự của Đặng Tiểu Bình] (Beijing: Junshi kexue chubanshe, 2004), Tập 3, trang 177.
52. Văn thư từ Stanfield Turner gửi Brzezinski, 21 Tháng Mười Một 1978, trong NLC-26-57-1-6-4, JCL.
53. Wang, “The Soviet Factor in Sino-American Normalization, 1969-1979”, trang 166.  Học giới Tây Phương hiện nay không đưa ra bằng chứng về một vai trò của Sô Viết trong quyết định của Việt nam nhằm xâm lăng Căm Bốt.  Xem Stephen J. Morris, Why Vietnam Invaded Cambodia: Political Culture and the Causes of War (Stanford, CA: Stanford University Press, 1999), các trang 215-217.
54. Min Li, Zhong Yue zhanzheng shinian [Trung – Việt Chiến Tranh Thập Niên] (Chengdu, China: Sichuan daxue chubanshe, 1993), trang 15.
55. Cùng nơi dẫn trên, các trang 16-17.
56. Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, trang 246.
57. Qian, Deng Xiaoping, trang 151.
58. Zhong Wen và Lu Haixiao, đồng biên tập, Bainian Deng Xiaoping [Bách Niên Đặng Tiểu Bình], Tập 2 (Beijing: Zhongyang wengxian chubanshe, 2004), trang 160.  Cũng xem Gong Li, “The Difficult Path to Diplomatic Relations: China’s U.S. Policy, 1972-1978”, trong sách biên tập bởi Kirby, Ross và Li, Normalization of U.S. – China Relations, trang 315.
59. Gong, “The Difficult Path to Diplomatic Relations”, trang 140.
60. Leng Rong và Wang Zouling, đồng biên tập, Deng Xiaoping nianpu [Niên Biểu về Cuộc Đời của Đăng Tiểu Bình, 1975-1979] (Beijing: Zhongyang wenxian chubanshe, 2004), Tập 1, trang 417.
61. Patrick Tyler, A Great Wall: Six Presidents and China – An Investigative History (New York: A Century Foundation Book, 1999), trang 260.
62. Wang Taipng, biên tập, Zhonghua renmin gongheguo waijiaoshi [Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Ngoại Giao Sử] (Beijing: Shijie zhishi chubanshe, 1999), Tập 3, trang 378.
63. Qian, Deng Xiaoping, trang 156.
64. Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại (Memcon), Carter-Chai, 19 Tháng Chín 1978, trong hồ sơ China Vertical File, JCL.
65. Văn Thư từ Brzezinski gửi Carter, 5 Tháng Mười Hai 1978, trong China, Box 9, Brzezinski File, JCL.
66. Vào các ngày 5, 9 và 11 Tháng Mười Hai, họ Đặng đã dùng nửa ngày với các người viết diễn văn của ông để duyệt xét bài diễn văn sau cùng mà ông sẽ đọc tại Hội Nghị Công Tác Trung Ương (Central Work Conference), dự trù vào ngày 13 Tháng Mười Hai.  Xem Leng và Wang, đồng biên tập, Deng Xiaoping nianpu, Tập 1, các trang 448-449.
67. Min, Zhong Yue zhanzheng shinian, trang 18.
68. Văn thư từ Woodcock gửi Vance, 13 Tháng Mười Hai 1978; và từ Woodcock gửi Brzezinski, 14 Tháng Mười Hai 1978, trong China Vertical File, JCL.
69. Văn thư Woodcock gửi Brzezinski, 15 Tháng Mười Hai 1978, trong China Vertical File, JCL.
70. Li Jie, “China’s Domestic Politics and the Normalization of Sino-U.S. Relations, 1969-1979”, trong sách đồng biên tập bởi Kirby, Roos và Li, Normalization of U.S. – China Relations, trang 87.
71. Li, Li Shengzhi wenji, trang 335.
72. Geng, “Báo Cáo Bí Mật”, trang 149.
73. Chen, China’s War, các trang 85-87; Ross, Indochina Tangle, các trang 23-31; và Scobell, China’s Use of Military Force, các trang 130-132.
74. Thí dụ, xem Liu Jixian et al., đồng biên tập, Ye Jianying nianpu [Diệp Kiếm Anh Niên Biểu] (Beijing: Zhongyang wenxian chubanshe, 2007); Fan Shuo, chủ biên, Ye Jianying zhuan [Tiểu Sử Diệp Kiếm Anh] (Beijing: Dangdai Zhongguo chubanshe, 1997); Zhou Junlun, chủ biên, Nie Rongzhen nianpu [Niên Biểu Cuộc Đời Nie Rongzhen] (Beijing: Renmin chubanshe 1999); và Zhu Yu, chủ biên, Li Xiannian zhuan, 1909-1949 [Tiểu Sử Lý Tiên Niệm] (Beijing: Zhongyang wenxian chubanshe, 1999).
75. Tân Hoa Xã, Nhóm Tham Khảo Quốc Tế, Woguo dui Yeunan ziwei huanjizhan ziliaoji [Tuyển Tập về Cuộc Hoàn Kích Chiến Tự Vệ Của Xứ Sở Chúng ta Chống Lại Việt Nam, 17 Tháng Hai – 19 Tháng Ba 1979] (Beijing: China News Agency International Reference Group, 1979), các trang 16-17.
76. Liu Zhi và Zhang Lin, đồng biên tập, Xu Xiangqian zhuan [Tiểu Sử Xu Xiangqian] (Beijing: Contemporary China Press, 1997), các trang 549, 553-554.
77. Các nguồn tin của tôi báo cho tôi hay rằng sự chống đối của họ Diệp về cuộc chiến tranh đánh Việt Nam đã bị thúc đẩy bởi một thành viên trong gia đình của ông.
78. Liu và các tác giả khác, đồng biên tập, Ye Jianying nianpu, trang 1165.
79. Tại cuộc họp buổi tối của Ngày QĐGPNDTQ năm 1977, khi ảnh của họ Đặng được chiếu trên màn ảnh lớn, mọi người tham dự la lên vì vui mừng và đáp ứng với sự tán thưởng nồng nhiệt.  Bởi họ Đặng không phải là tổng tư lệnh, Giới Lãnh Đạo Trung Ương đã xem sự đón tiếp ông là một biến cố chính trị nghiêm trọng và đã phổ biến một thông tư phê bình sự tiếp đón như một hành động coi thường các quy lệ và kỷ luật đảng. Được nghe nói rằng Tổng Cục Chính trị đã từ chối không chuyển thông tư đến các đơn vị trực thuộc.  Zhang Sheng, Cong zhanzheng zhong zoulai: Liangdai junren de duihua [Đến Từ Chiến Tranh: Một Cuộc Đối Thoại giữa Hai Thế Hệ Chiến Sĩ] (Beijing: China Youth Press, 2007), các trang 412-413.
80. Ye, Cong Hua Guofeng, trang 212.
81. Liu và các tác giả khác, đồng biên tập, Ye Jianying, các trang 1158, 1165.
82. Liu Huaqing nhớ lại rằng khi ông là phụ tá Tổng Tham Mưu Trưởng hồi đầu năm 1979, Bộ Tổng Tham Mưu luôn luôn chuyển các văn kiện quan trọng đến họ Đăng xin phê chuẩn.  Xem Liu Huaqing huiyi lu [Hồi Ký của Lưu Hoa Thanh] (Beijing: PLA Press, 2004), trang 394.
83. Họ Đặng đã đưa ra các nhận xét này tại một phiên họp của Ủy Ban Trung Ương ĐCSTQ hôm 16 Tháng Ba 1979 thảo luận về nhu cầu một cuộc phản công dọc biên giới Trung Quốc – Việt Nam.  Toàn thể bản văn được cung cấp tại: http://wenku.baidu.com/view/d4c5afeb172ded630b1cb607.html.  Một trích đoạn được cung cấp trong Deng Xiaoping nianpu, Tập 1, các trang 492-493.
84. Zhang, Huiyilu, Tập 2, trang 166.
85. Hai quân đoàn bổ túc là quân đoàn 50 từ Quân Khu Thành Đô và Quân Đoàn 54 từ Quân Khu Vũ Hán.  Cả hai đã nhận được lệnh động viên vào ngày 5 Tháng Một 1979.  Cai Pengcen, “Those Events Happened in 1979”, http://blog.sina.com.cn/s/blog_476745601008im7.html.
86. Ye Jianying đang đi nghỉ hè tại Thượng Hại và vì thế đã không tham dự.  Xem Liu Jixian và các tác giả khác, đồng biên tập, Ye Jianying nianpu, trang 1165.
87. Jin, Hu, và Hu, Baizhan jianxing Xu Shiyou, trang 332; và Wang Xuan, Mao Zedong zhi jian: Minjiang zhixing Xu Shiyou [Thanh Kiếm Của Mao Trạch Đông: Một Vị Tướng Sáng Chói Xu Shiyou] (Nanjing: Jiangsu renmin chubanshe, 1996), trang 132.
88. Sự thay đổi cấp chỉ huy được đồn đãi một phần có thể quy cho các quan hệ cá nhân không tốt giữa Xu và Wang.  Hai viên tướng đã tranh giành cho một cuộc chiến thắng quan trọng chống lại một đơn vị Quốc Dân Đảng then chốt trong thời kỳ nội chiến.  Sau đó vào năm 1966 trong Cuộc Cách Mạng Văn Hóa, khi họ Wang là tư lệnh phó cho họ Xu tại Quân Khu Nam Kinh, ông ta công khai ủng hộ cách chính trị địa phương chống lại họ Xu.  Họ Xu rõ ràng vẫn còn khó chịu và đã cố vấn họ Đặng thực hiện một sự thay đổi cấp chỉ huy.
89. Sau một cuộc thuyết trình bằng miệng về hội nghị từ họ Xu, Yang Yong, và Wei Guoping (chủ nhiệm tổng cục chính trị), họ Đặng đã đưa ra bốn điểm.  Thứ nhất, các thành viên của nhóm lãnh đạo phải thông nhất; thứ nhì, vấn đề chủ nghĩa bè phái trong giới lãnh đạo phải bị loại trừ; thứ ba, mọi điều ban hành phải được đảm nhận bởi các phiên họp công tác của Quân Ủy Trung Ương; và thứ tư, các chính sách về sự phục hồi phải được thi hành.  Xem Leng và Wang, đồng biên tập, Deng Xiaoping nianpu, Tập 1, các trang 459-460.
90. Xem, Zhang, Cong zhanzheng zhong zoulai, trang 415.
91. Leng và Wang, đồng biên tập, Deng Xiaoping nianpu, Tập 1, trang 492.
92. “Lecture Notes on the 1979 Counterattack in Self-Defense on the Sino-Vietnamese Border” [Các Ghi Chú của Bài Thuyết Giảng về Cuộc Hoàn Kích Tư Vệ tại Biên Giới Trung – Việt] , trong “Zhong Yue zhangzhen beiwanglu”.
93. Jiang Feng và các tác giả khác.  Yang Yong jiangjun zhuan [Tiểu Sử Tướng Yang Yong] (Beijing: Jiefangjun chubanshe, 1991), trang 495; và Luo, Wang Shangrong, trang 327.
94. Zhou, Xu Shiyou de suihuo yizhan, trang 16.
95. Zhu Jiamu, Chen Yun nianpu [Chen Yun Niên Biểu, 1905-1995] (Beijing: Zhongyang wenxian chubanshe, 2000), Tập 2, các trang 235-236.
96. Zhang, Huiyilu, Tập 2, trang 166.
97. Min, Zhong Yue zhanzheng shinian, trang 17; và Jin Hui and Zhang Huisheng, Zhong Yue zhanzheng milu [Bản Tường Thuật Mật về Chiến Tranh Trung – Việt] (Beijing Jiefangjun chubanshe, 1991), các trang 27-28.
98. Xem, thí dụ, Segal, Defending China, trang 214.
99. Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, trang 246.
100. Phòng Tổng Quát của Tổng Cục Chính Trị, Zhong Yue bianjing ziwei huanji zuozhan zhengzi gongzuo jingyan xuanbian [Biên Tập Các Tài Liệu về Công Tác Chính Trị và Kinh Nghiệm in Cuộc Hoàn Kích Tự Vệ tại Biên Giới Trung – Việt] (Beijing: Guangxi renmin chubanshe, 1980), Tập 1, các trang 2-19.
101. Zhang, Huiyilu, Tập 2, các trang 170-171.
102. Jiang Feng và các tác giả khác, Yang Yong, trang 495.
103. Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, các trang 257-258; và Zhang, Huiyilu, Tập 2, trang 171.
104. Qian, Deng Xiaoping, trang 211.
105. Gong, Deng Xiaoping, trang 255; Tao Wenzhao, “Deng Xiaoping and China-U.S. Relations, 1977-1991”, Shehui kexue yanjiu [Nghiên Cứu Khoa Học Xã Hội], số 5 (2005), các trang 11-18; và Li Xiangqian, “The Establishment of China-U.S. Diplomatic Relations and the Strategic Shift in the Emphasis of Party Work”, Zhonggong dangzhi yanjiu [Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng CSTQ], số 1 (2000), các trang 44-51.
106. Geng, “Báo Cáo Bí Mật”, trang 156.
107. Văn Thư từ Brzezinski gửi Tổng Thống Carter, không ghi nhật kỳ [1979], trong China, Box 9, Brzezinski File, JCL.
108. Văn Thư từ Michael Oksenberg gửi Brzezinski, 29 Tháng Một 1979, trong Hồ Sơ China, Box 9, Brzezinski File, JCL.
109. Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại, Carter-Deng, 29 Tháng Một 1979, trong China Vertical File, JCL.
110. Zbigniew Brzezinski, Power and Principle: Memoirs of the National Security Adviser, 1977-1981 (New York: Farrar, Straus and Giroux, 1983), trang 409.
111. Thư từ Carter gửi Deng, 30 Tháng Một 1979, trong China, Box 9, Brzezinski File, JCL.
112. Brzezinski, Power and Principle, trang 410.
113. Nhiều thuộc cấp của họ Đặng có nhớ lại rằng ông ta thường không thay đổi đầu óc một khi đã đưa ra một quyết định.  Thí dụ, xem Chen Zaidao, Chen Zaidao huiyilu [Hồi Ký Chen Zaidao] (Beijing: Jiefangjun chubanshe, 1991), trang 462.
114. Brzezinski, Power and Principle, trang 410.
115. Chen, Mao’s China, các trang 73-74; và Tyler, A Great Wall, các trang 276-277.
116. Tyler, A Great Wall, các trang 277-278.
117. Diễn văn của họ Đặng đọc tại Phiên Họp Khoáng Đại Ủy Ban Trung Ương ĐCSTQ, 16 Tháng Ba 1979 (xem chú thích 83 bên trên).
118. Họ Đặng còn mời các đồng sự chơi bài với ông trên máy bay.  Qian, Deng Xiaoping, trang 291.
119. Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, các trang 259-260; và Jiang Feng và các tác giả khác, Yang Yong, các trang 496-497.
120. Toàn văn bản thông tư trong sách của Min, Zhong Yue zhanzheng shinian, trang 34.
121. Harlan W. Jencks, “China’s ‘Punitive’ War on Vietnam: A Military Assessment”, Asian Survey, Tập 19, số 8 (Tháng Tám 1979), các trang 804-805; Herbert Yee, “The Sino-Vietnamese Border War”, China Report, Tập 16, số 1 (Tháng Một-Tháng Hai 1980), trang 22; và Segal, Defending China, trang 214.
122. Gong Li, “A Triangular Relationship of U.S. – China – Soviet Union during the 1979 China-Vietnam Border Conflict”, Guoji guancha [Quốc Tế Quan Sát], số 3 (2004), các trang 66-72; và Wang, “The Soviet Factor”, trang 173.  Tác giả Wang lập luận rằng sự thậm xưng của Trung Quốc về mối đe dọa quân sự của Sô Viết có chủ ý để ngăn cản CHNDTQ khỏi rơi vào “một vị thế yếu kém về mặt chiến lược”.
123. Gong Li tuyên bố một cách sai lầm rằng họ Đặng đã thông báo với Tổng Thống Carter về quyết định của Trung Hoa xâm lăng Việt Nam tại một phiên họp chính thức hôm 29 Tháng Một 1979, và ông đưa ra một cảm tưởng sai lạc rằng họ Đặng đã tạo ra một sự tiết lộ đáng ngạc nhiên trong một cuộc nói chuyện bình thường khi hai lãnh tụ trình bày quan điểm của họ về thế giới.  Xem Gong, “A Triangular Relationship”, trang 68.
124. He Di, “The Most Respected Enemy: Mao Zedong’s Perception of the United States”, trong sách đồng biên tập bởi Michael Hunt và Lin Jun, Toward a History of Chinese Communist Foreign Relations, 1920s-1960s: Personalities and Interpretative Approaches (Washington, DC: Woodrow Wilson International Center for Scholars Asian Program, 1995), các trang 27-66; và Chen Jian, “China’s Involvement in the Vietnam War, 1964-1969”, The China Quarterly, số 142 (Tháng Sáu 1995), các trang 356-387.
125. Chen, Mao’s China, trang 237.
126. Xiaoming Zhang, “China’s Involvement in Laos during the Vietnam War, 1963-1975”, Journal of Military History, số 60 (Tháng Mười 2002), các trang 1141-1166.
127. Kyodo News, 26 Tháng Hai 1979, trong FBIS-PRC, 26 February 1979, trang A5.
128. Sự giải thích này được đưa ra trước mặt các thành viên của Ủy Ban Quan Hệ Ngoại Giao Thượng Viện Hoa Kỳ tại Bắc Kinh hôm 19 Tháng Tư 1979.  Gong, “A Triangular Relationship”, trang 70.
129. Rosemary Foot vạch ra rằng không ai ước định rằng vấn đề bán vũ khí cho Đài Loan sẽ vẫn còn là một trung tâm điểm của sự căng thẳng trong các quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc đến ngày nay.” Xem Rosemary Foot, “Prizes Won, Opportunities Lost: The U.S. Normalization of Relations with China, 1972-1979”, trong sách đồng biên tập bởi Kirby, Ross, và Li, Normalization of U.S. – China Relations, trang 109.
130.Sau năm 1980, Hoa Kỳ đã bắt đầu bán các hệ thống vũ khí phòng thủ cho Trung Quốc, kể cả các radar phòng thủ không phận, trang thiết bị truyền tin đường dài, và các phi cơ trực thăng quân sự.  Xem Gong, “A Triangular Relationship”, trang 71./-  
_____
Nguồn: Zhang Xiaoming, Deng Xiaoping and China’s Decision to go to War with Vietnam, Journal of Cold War Studies, Vol. 12, No. 2 Summer 2010, các trang 3-29.

Ngô Bắc dịch và phụ chú
20.02.2012    


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét