Được tin GS Lê Dũng Tráng, việt kiều ở Pháp, vừa mất, tôi hơi bàng hoàng, thậm chí khá sốc vì GS còn khá trẻ (dưới 80 tuổi). Tôi có quan niệm các nhà khoa học xuất sắc thường sống rất thọ, phải trên 90 tuổi mới ra đi. Hôm 20/11 gặp GS Hà Huy Khoái tôi cũng nói như vậy. Tuổi thọ trung bình của người Pháp là 84-85, tức là GS Tráng thọ chưa đến mức trung bình của người Pháp. Đọc bài dưới đây, các bạn sẽ thấy GS Tráng vĩ đại như thế nào và những cống hiến của GS Tráng với nền toán học Việt Nam là vô giá. Xin kính cẩn tưởng nhớ hương hồn GS Tráng, chúc GS sớm siêu thoát và được hưởng bình an và hạnh phúc ở cõi cực lạc. Tôi ban đầu là người làm toán, là quân của Giáo sư Hoàng Tụy, Viện trưởng Viện toán học Việt Nam. Sau này chuyển sang làm kinh tế, nhưng là toán trong kinh tế, có nghĩa là phân tích kinh tế, mô phỏng chính sách, dự báo phát triển và xây dựng các kế hoạch, chính sách phát triển dựa trên các mô hình toán học, nên tôi rất kinh trọng và thường theo dõi thành tựu của các nhà toán học. Tôi chưa từng gặp GS Lê Dũng Tráng, nhưng thời ở Pháp và ngay cả ở Việt Nam, tôi thường gặp anh em nhóm Diễn Đàn, trong đó có GS Nguyễn Ngọc Giao, GS Hà Dương Tường, GS Trần Hải Hạc và nhất là GS Lê Văn Cường. Tôi cũng đã có bài đăng trên tạp chí Diễn Đàn của nhóm. Trong bài này còn nhắc đến tên hai giáo sư đang làm việc cùng tại trường đại học Thăng Long với tôi là GS Hà Huy Khoái và GS Vũ Đỗ Quỳnh. Ngoài ra tôi cũng biết GS Ngô Trung Việt từ đầu những năm 1980 (vợ GS làm cùng cơ quan tôi) và GS Trung cũng hay đọc trang FB này. Thế mới thấy quả đất tròn, đi mãi, trải qua vài chục năm, rồi cũng lại gặp nhau ở đâu đó, không ngoài đời thì cũng trên FB... Tôi rất kính trọng các giáo sư toán học kể trên; họ đều là những bậc kỳ tài hiếm có của đất nước. Chỉ đáng tiếc đất nước không biết sử dụng trí tuệ họ... Dưới đây là một bài viết của tôi và PGS TSKH Nguyễn Văn Quỳ trên tạp chi Diễn Đàn. GS Quỳ cũng là giảng viên trường đại học Thăng Long với tôi và tôi rất kính trọng ông.
Tạm biệt Lê Dũng Tráng
Nguyễn Ngọc Giao - Tối hôm qua, 20.11.2025, Hà Dương Tường đọc trang Facebook của anh Hà Huy Khoái, gửi thư báo tin cho tôi : Lê Dũng Tráng vừa mất. Tôi điện thoại ngay ra Hà Nội cho vợ chồng Kim Tuyến (em gái anh Tráng) & Vũ Đỗ Quỳnh, được xác nhận : Tráng đã từ trần sáng (giờ Pháp) ngày 19.11.2025 tại bệnh viện Pau (tây nam nước Pháp).
Như một số bài báo hôm qua và hôm nay nhận xét rất đúng : nền toán học của Việt Nam, của thế giới mất đi một cự phách về lý thuyết kỳ dị (théorie des singularités) — nghe cái tên kỳ bí, nhưng lý thuyết trừu tượng ấy đã trở thành công cụ cho việc lập ra mô hình cho những hiện tượng thiên nhiên và xã hội, kinh tế đột biến ; chúng ta mất đi một con người, trong suốt ba thập niên cuối của thế kỷ 20, đã thực sự là cầu nối giữa giới toán học Việt Nam với các đồng nghiệp Pháp, Mỹ, và nhiều nước thế giới thứ ba.
Bạn đọc quan tâm tới sự nghiệp nghiên cứu tôpô học có thể dễ dàng tìm thấy danh mục các công trình của Lê Dũng Tráng. Vai trò "cầu nối" của anh đã được các đồng nghiệp Việt Nam (Hà Huy Khoái, Ngô Trung Việt...) giới thiệu. Dưới đây, tôi chỉ xin ghi lại một vài kỷ niệm cá nhân về một người bạn tâm giao.
*
Trằn trọc suốt đêm qua, tôi nhớ lai những dịp gặp hay hoạt động cùng với Lê Dũng Tráng những năm ở Pháp từ giữa thập niên 60, nhưng đọng lại là hai hình ảnh không thể nào quên.
Hình ảnh đầu tiên cũng là lần đầu tiên, khoảng 1967-68 : tôi không gặp Tráng, mà “gặp” bài thi chứng chỉ cử nhân toán ,(Math I) của anh. Năm ấy, anh đã trúng tuyển vào Trường Bách khoa (Ecole Polytechnique), nhưng từ chức (3 tháng sau khi nhập học, vì không chịu được kỷ luật quân đội của trường), ra Trường đại học Khoa học Paris dự cuộc thi cuối năm. Chứng chỉ “Toán I” về topo học năm ấy do giáo sư Claude Chevalley – người sẽ hướng dẫn anh làm luận án tiến sĩ mấy năm sau đó – giảng dạy. Là trợ lý của ông, tôi chấm một số bài thi viết, trong đó có bài thi của Tráng, mà tôi còn nhớ mãi tự dạng. Tôi không nhớ kết quả nhưng chắc chắn nếu Tráng không đỗ hạng Ưu (mention Très Bien) thì cũng hạng Bình (mention Bien).
Một vài năm sau, anh trở thành trợ giảng như tôi ở TĐH Paris VII (Denis Diderot), và nhanh chóng hoàn thành luận án tiến sĩ, được phong làm giáo sư. Cùng khoa toán, nhưng ít khi chúng tôi gặp nhau ở trường vì lý do đơn giản : trong khi Tráng say mê – và xuất sắc – làm khoa học thì tôi chỉ đặt chân tới trường vào hai ba buổi bắt buộc phải lên lớp, còn bao nhiêu thời gian, tôi “đào ngũ” việc nghiên cứu (giải tích số phức) để hoàn thành công tác của phong trào Việt kiều, và trong năm năm 1968-1973, giúp việc Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại cuộc đàm phán với Hoa Kỳ. Ít gặp nhau, nhưng chúng tôi chia sẻ một công việc chung : vận động giới đại học Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất của nước ta. Ở trường Denis Diderot, thực ra tôi chỉ cần phụ trợ thầy tôi là nhà toán học Laurent Schwartz, người đi đầu trong phong trào đoàn kết với Việt Nam, mỗi khi ông cần (nghĩa là rất ít khi). Trái lại, do quan hệ rộng rãi của mình, Lê Dũng Tráng đã trở thành cầu nối giữa cộng đồng toán học Việt Nam với cộng đồng Pháp, rồi Mỹ... như đã nói trên.
Hình ảnh thứ hai mà tôi nhớ lại đêm hôm qua là hình ảnh tấm hộ chiếu VNDCCH màu vàng xám của Lê Dũng Tráng : anh là người Việt kiều đầu tiên, có lẽ người mang hộ chiếu VNDCCH đầu tiên, nhập cảnh vào Mỹ trong thời chống Mỹ, hơn hai mươi năm trước ngày bình thường hóa quan hệ Mỹ-Việt (mùa hè 1995). Tráng được một trường đại học Mỹ (hình như Harvard) mời sang thuyết trình về lý thuyết kỳ dị. Cũng là dịp để anh đặt cầu nối với giới toán học Hoa Kỳ. Và anh đã đặt chân lên đất nước của những Washington, Jefferson... với tấm hộ chiếu của Nhà nước mà Hồ Chí Minh đã khai sinh hai năm trước khi anh ra đời. Trong trí nhớ bắt đầu rệu rã của tôi, không thể quên hình ảnh cuốn hộ chiếu mà anh chìa cho tôi xem trong hành lang khoa Toán. Với tấm hộ chiếu ấy, anh đã về Hà Nội, lần đầu tiên, năm 1972 – với tấm tương tự tôi trở lại Hà Nội (sau 16 năm di cư) hai năm trước đó, tháng 8.1970.
Chúng tôi ít có dịp gặp nhau, càng ít dịp chuyện trò tâm giao, nhưng ngẫu nhiên giữa chúng tôi có mối quan hệ thân thiết. Trước hết, qua thân mẫu của anh, dược sĩ Phạm Thị Tuấn, hoạt động tích cực trong Hội Liên hiệp Trí Thức Việt Nam tại Pháp trước khi về nước làm việc ở Nhà xuất bản Ngoại văn. Tráng có em gái, thua anh 4 tuổi, là Lê Thị Kim Tuyến, sinh đẻ và lớn lên ở Pháp. Cô sinh viên ban sinh học đã tham gia hoạt động của hội Liên hiệp Sinh viên Việt Nam tại Pháp, sinh hoạt trong nhóm “sinh viên nói tiếng Pháp” mà vợ tôi lúc đó (Xuân Phương) phụ trách. Kim Tuyến và bạn trai, sau này là bạn đời, Vũ Đỗ Quỳnh, thường đến nhà chúng tôi, ăn cơm, trò chuyện, tranh cãi. Sau này hai vợ chồng về nước làm việc, một ở viện Pasteur Hà Nội, một ở Viện hải dương học Nha Trang (rồi hiện nay, Trường Đại học Thăng Long). So tuổi, họ là “đàn em”, nhưng quan hệ chúng tôi thực sự là quan hệ bè bạn. Lần nào về nước, chúng tôi cũng liên lạc với họ. Qua Kim Tuyến và Quỳnh, tôi được thông tin về Tráng. Như tuần trước, khi được biết anh ở bệnh viện. Và hôm kia, anh ra đi.
Bình Thạnh, ngày 21.11.2025.
Nguyễn Ngọc Giao
Tin buồn
Giáo sư Lê Dũng Tráng (1947- 2025)
Chúng tôi ít có dịp gặp nhau, càng ít dịp chuyện trò tâm giao, nhưng ngẫu nhiên giữa chúng tôi có mối quan hệ thân thiết. Trước hết, qua thân mẫu của anh, dược sĩ Phạm Thị Tuấn, hoạt động tích cực trong Hội Liên hiệp Trí Thức Việt Nam tại Pháp trước khi về nước làm việc ở Nhà xuất bản Ngoại văn. Tráng có em gái, thua anh 4 tuổi, là Lê Thị Kim Tuyến, sinh đẻ và lớn lên ở Pháp. Cô sinh viên ban sinh học đã tham gia hoạt động của hội Liên hiệp Sinh viên Việt Nam tại Pháp, sinh hoạt trong nhóm “sinh viên nói tiếng Pháp” mà vợ tôi lúc đó (Xuân Phương) phụ trách. Kim Tuyến và bạn trai, sau này là bạn đời, Vũ Đỗ Quỳnh, thường đến nhà chúng tôi, ăn cơm, trò chuyện, tranh cãi. Sau này hai vợ chồng về nước làm việc, một ở viện Pasteur Hà Nội, một ở Viện hải dương học Nha Trang (rồi hiện nay, Trường Đại học Thăng Long). So tuổi, họ là “đàn em”, nhưng quan hệ chúng tôi thực sự là quan hệ bè bạn. Lần nào về nước, chúng tôi cũng liên lạc với họ. Qua Kim Tuyến và Quỳnh, tôi được thông tin về Tráng. Như tuần trước, khi được biết anh ở bệnh viện. Và hôm kia, anh ra đi.
Bình Thạnh, ngày 21.11.2025.
Nguyễn Ngọc Giao
Tin buồn
Giáo sư Lê Dũng Tráng (1947- 2025)
Chúng tôi đau đớn báo tin bạn chúng tôi, Giáo sư Lê Dũng Tráng, đã trần ngày 19.11.2025 ở Pau (Pháp), hưởng thọ 78 tuổi.
Thông tin về tang lễ sẽ được đăng tại đây ngay khi chúng tôi được gia đình thông báo.
Lê Dũng Tráng là một nhà toán học nổi tiếng thế giới với những công trình xuất sắc về lý thuyết kỳ dị (Singularity Theory) trong lĩnh vực tô-pô hình học. Năm 24 tuổi (1971), anh nhận bằng tiến sĩ quốc gia Pháp dưới sự hướng dẫn của hai giáo sư lừng danh Claude Chevalley (một trong những nhà sáng lập nhóm Bourbaki) và Pierre Deligne (trước khi ông này được giải Fields 1978, và sau này giải Abel 2013), từ đó suốt đời anh đeo đuổi sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy tại nhiều đại học trên thế giới với tư cách giáo sư hay nhà nghiên cứu được mời cộng tác. Tại Pháp, bắt đầu từ ĐH Paris VII, qua Trường Bách Khoa, và sau cùng là ĐH Provence - Marseille cho tới lúc về hưu. Anh được mời sang Mỹ năm 1974, trước khi chiến tranh chấm dứt và sau đó thường xuyên sang làm việc ở ĐH Harvard (với GS Heisuke Hironaka, giải Fields 1970, người hướng dẫn đầu tiên của anh, trước khi ông sang Harvard), Northwestern (với các giáo sư Terence Gaffney và David B. Massey)... Trong 8 năm 2002-2009, anh được cử làm trưởng ban Toán của Trung tâm Vật lý Lý thuyết (ICTP) do nhà vật lý người Pakistan Abdul Salam, giải Nobel 1979, thành lập ở TP Trieste (Ý). Một trong những mục tiêu của Trung tâm là giúp các nhà khoa học tại các nước đang phát triển tiếp xúc với những điều kiện nghiên cứu tiên tiến trên thế giới, thông qua những chương trình tiến sĩ và sau tiến sĩ được trung tâm đồng bảo lãnh và tài trợ với những viện nghiên cứu ở các nước phát triển. Nhiều nhà nghiên cứu trẻ của Việt Nam đã được tới Trieste làm việc trong khuôn khổ các chương trình đó.
Anh là tác giả 169 công trình khoa học, trong đó phải kể các cuốn sách kinh điển về Lý thuyết kỳ dị, và đã đào tạo 20 tiến sĩ (theo Research Gate, The Mathematics Genealogy Project).
Đối với Việt Nam, GS Lê Dũng Tráng được biết tới như người đưa toán học Việt Nam đến với thế giới, hay nói như GS Hà Huy Khoái, nguyên Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam, Lê Dũng Tráng là "chiếc cầu nối toán học Việt Nam với thế giới trong những ngày gian khó". Bản thân anh đã về nước nhiều lần từ 1972 để giảng dạy và nhất là tiếp xúc với các đồng nghiệp VN mà anh muốn tìm hiểu, giúp đỡ họ trong hoàn cảnh chiến tranh (1). Nhờ sự vận động của anh, nhiều nhà toán học nổi tiếng như Laurent Schwartz, Grothendieck, Malgrange... cũng đã sang VN giảng dạy ngay trong thời chiến. Anh cũng đã vận động để VN gia nhập Hội Toán học thế giới năm 1974 (2).
Lê Dũng Tráng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học các nước đang phát triển (TWAS) từ 1993, và là Tiến sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2004.

Thăm rừng Cúc Phương trong chuyến về năm 1972 (ảnh: Viện Toán).
Người đứng thứ hai từ trái sang là bộ trưởng Tạ Quang Bửu, Tráng là người ngồi.
Nguồn: Tạp chí Diễn Đàn ở Pháp.
https://www.diendan.org/nhung-con-nguoi/le-dung-trang-1947-2025
Lê Dũng Tráng là một nhà toán học nổi tiếng thế giới với những công trình xuất sắc về lý thuyết kỳ dị (Singularity Theory) trong lĩnh vực tô-pô hình học. Năm 24 tuổi (1971), anh nhận bằng tiến sĩ quốc gia Pháp dưới sự hướng dẫn của hai giáo sư lừng danh Claude Chevalley (một trong những nhà sáng lập nhóm Bourbaki) và Pierre Deligne (trước khi ông này được giải Fields 1978, và sau này giải Abel 2013), từ đó suốt đời anh đeo đuổi sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy tại nhiều đại học trên thế giới với tư cách giáo sư hay nhà nghiên cứu được mời cộng tác. Tại Pháp, bắt đầu từ ĐH Paris VII, qua Trường Bách Khoa, và sau cùng là ĐH Provence - Marseille cho tới lúc về hưu. Anh được mời sang Mỹ năm 1974, trước khi chiến tranh chấm dứt và sau đó thường xuyên sang làm việc ở ĐH Harvard (với GS Heisuke Hironaka, giải Fields 1970, người hướng dẫn đầu tiên của anh, trước khi ông sang Harvard), Northwestern (với các giáo sư Terence Gaffney và David B. Massey)... Trong 8 năm 2002-2009, anh được cử làm trưởng ban Toán của Trung tâm Vật lý Lý thuyết (ICTP) do nhà vật lý người Pakistan Abdul Salam, giải Nobel 1979, thành lập ở TP Trieste (Ý). Một trong những mục tiêu của Trung tâm là giúp các nhà khoa học tại các nước đang phát triển tiếp xúc với những điều kiện nghiên cứu tiên tiến trên thế giới, thông qua những chương trình tiến sĩ và sau tiến sĩ được trung tâm đồng bảo lãnh và tài trợ với những viện nghiên cứu ở các nước phát triển. Nhiều nhà nghiên cứu trẻ của Việt Nam đã được tới Trieste làm việc trong khuôn khổ các chương trình đó.
Anh là tác giả 169 công trình khoa học, trong đó phải kể các cuốn sách kinh điển về Lý thuyết kỳ dị, và đã đào tạo 20 tiến sĩ (theo Research Gate, The Mathematics Genealogy Project).
Đối với Việt Nam, GS Lê Dũng Tráng được biết tới như người đưa toán học Việt Nam đến với thế giới, hay nói như GS Hà Huy Khoái, nguyên Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam, Lê Dũng Tráng là "chiếc cầu nối toán học Việt Nam với thế giới trong những ngày gian khó". Bản thân anh đã về nước nhiều lần từ 1972 để giảng dạy và nhất là tiếp xúc với các đồng nghiệp VN mà anh muốn tìm hiểu, giúp đỡ họ trong hoàn cảnh chiến tranh (1). Nhờ sự vận động của anh, nhiều nhà toán học nổi tiếng như Laurent Schwartz, Grothendieck, Malgrange... cũng đã sang VN giảng dạy ngay trong thời chiến. Anh cũng đã vận động để VN gia nhập Hội Toán học thế giới năm 1974 (2).
Lê Dũng Tráng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học các nước đang phát triển (TWAS) từ 1993, và là Tiến sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2004.

Thăm rừng Cúc Phương trong chuyến về năm 1972 (ảnh: Viện Toán).
Người đứng thứ hai từ trái sang là bộ trưởng Tạ Quang Bửu, Tráng là người ngồi.
Nguồn: Tạp chí Diễn Đàn ở Pháp.
https://www.diendan.org/nhung-con-nguoi/le-dung-trang-1947-2025
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét