Thứ Hai, 3 tháng 12, 2012

(2) Con đường của Rồng - Lịch sử Việt Nam

Blog của 5xu
Đó là lúc rồng non trở thành thiếu niên.

Đây là thời kỳ Việt Nam có bờ cõi rộng nhất (rộng hơn cả bây giờ)

Cũng là thời kỳ Việt Nam được các nước xung quanh kinh sợ nhất. Nhà Thanh, quân Xiêm sợ chết khiếp từ thời Tây Sơn. Miến Điện chỉ chứng kiến vài lần xuất quân của Tây Sơn ở Lào mà còn phát hãi. Vua Khmer (Chân Lạp) và Lào thần phục Việt Nam mà chịu làm chư hầu.

Đại Nam cũng là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên mà Mỹ để ý đến và Tổng thống Mỹ cử người mang thư đến đặt quan hệ giao thương.

Có độc lập tự chủ rồi, điều kiện cần để thành con Rồng đã có. Nhưng điều kiện đủ, là phải hòa mình vào thế giới, thì tiếc thay lãnh đạo của Đế quốc Đại Nam ấy đã tự mình để mất.

Các nhà lãnh đạo của con Rồng thiếu niên ấy, đã quá tự tin vào sức mạnh của đất nước mình, quá tự tin vào tài năng và kiến thức lãnh đạo của mình, quá sùng bái mô hình nhà nước phong kiến, đã đóng cánh cửa không cho con rồng thiếu niên tiếp cận với thế giới phương tây. Cơ hội rất lớn để con rồng thiếu niên Việt Nam quẫy mình thành con rồng trưởng thành, đã bị bỏ lỡ một cách cực kỳ đáng tiếc.

Những nhà lãnh đạo ấy là Vua Minh Mạng và các hậu duệ của ông ta.


Minh Mạng là vị vua tài giỏi có nhiều cải cách mạnh mẽ. Ông cải cách hành chính để cai trị, cải cách quân đội, cải cách chế độ làm quan (chấm dứt cha truyền con nối, luân chuyển quan chức). Cải cách giáo dục, thi cử, bổ nhiệm quan chức.

Dưới thời Minh Mạng, tiếng Việt là tiếng bắt buộc, thay thế cho tiếng Hoa và Khmer ở Gia Định (bao gồm cả miền tây). Đây là sự kiện cực kỳ quan trọng bởi kể từ đây, nước Việt Nam rộng lớn, có bờ cõi, có hệ thống lãnh đạo riêng của mình, và sử dụng chỉ một tiếng nói, và là tiếng riêng của mình trên toàn lãnh thổ. Người Việt vốn có nhiều gốc gác từ Mường, Thái, Khmer, Chăm, và Hoa, người Kinh thậm chí còn có nhiều họ gốc Tàu, nay ít nhất có hai cái chung: một là tiếng Việt, hai là thần dân nước Việt, một sự bắt đầu của một quốc gia hiện đại với các công dân và lãnh thổ của nó.

Nhân đây, mỗi lần cả nước ồn ào và lãng phí tổ chức Giỗ Tổ, không biết những người Việt gốc Chăm, gốc Khmer nghĩ gì. Họ cũng là công dân của đất nước này, họ cũng là người Việt, mà sao lại phải nhớ ngày giỗ ông tổ chưa bao giờ liên quan đến họ. Liệu họ có sẵn sàng phục vụ một quốc gia mà họ là công dân, nhưng lại không đoái hoài gì đến tổ tiên của họ hay không? Nhất là những người Chăm, Khmer rồi Bahnar, Giarai … ấy đang sống trên mảnh đất của chính họ hàng ngàn năm nay. Trẻ con người Việt gốc Chăm, hoặc Khmer mà học sách giáo khoa, dạy rằng chúng là con rồng cháu tiên, thì cũng lố bịch chả kém gì người Việt nam thời Pháp thuộc phải học sách giáo khoa viết tổ tiên của họ là người Gauloises.

Trước thời Minh Mạng việc cấm đạo lúc có lúc không nhưng chưa lúc nào cực đoan. Chúa Trịnh, Chúa Tây Sơn, Chúa Nguyễn đều có lúc ngăn ngừa, lúc ủng hộ, lúc sử dụng các linh mục và thương nhân liên quan đến truyền giáo. Đến thời Minh Mạng là cấm ngặt nhất. Và đó là lúc người đi đạo, bên lương, bên giáo, lao vào chém giết nhau, người với người, làng với làng, để rồi cùng với mối cừu hận vùng miền, người Việt bắt đầu cừu hận nhau cả về khác biệt tư tưởng. Khoảng cách từ giết nhau vì khác tín ngưỡng đến giết nhau vì khác đảng phái, khác lý tưởng chính trị chỉ là một sợi tóc. Và lịch sử đã cho thấy người Việt hãm hại nhau tàn khốc hàng chục năm chỉ vì khác nhau ý thức hệ vay mượn. Những người nói cùng một thứ tiếng, nhiều đời lớn lên cùng một mảnh đất, mà giết nhau vì cừu hận có nguyên nhân sâu xa từ tín ngưỡng hoặc hệ phái chính trị (đều là vay mượn du nhập) thì cách đó một sợi tóc là sự thù hận giữa người Việt ở lại và người Việt ra đi, là người Việt chiến thắng và người Việt thua cuộc.

Thế nên, từ đây thấy rất rõ, là cần những lý tưởng, chí hướng không chỉ hấp dẫn để cuốn hút hàng triệu người Việt đi theo, mà lý tưởng ấy phải có gốc rễ và tương lai trên chính mảnh đất này, gắn với dân tộc này. Giống như người Do Thái, có thể có nhiều nhóm người chống hoặc ghét nhau, nhưng cùng phụng sự cho lý tưởng Phục quốc, xây dựng một quốc gia Do Thái cho chính họ là Israel hiện nay.

Thế rồi lịch sử sau này lại lặp lại. Khi nhà nước cách mạng nổi lên, Nhà Nguyễn bị xóa bỏ hoàn toàn, không chỉ công lao, mà kiến thức và kinh nghiệm dựng nước của họ, nhất là các bài học thất bại đau xót, cũng bị xóa mất. Văn hóa, kiến trúc của họ cũng bị đập bỏ. Ngay cả di sản văn hóa và kinh nghiệm lãnh đạo của một giai đoạn VNCH ngắn ngủi, vốn có một chút kế thừa của Nhà Nguyễn cũng bị xóa đi y như thế.

Và như đã nói từ đầu, đấy chính là một trong những căn nguyên của tan rã xã hội như ta đang phải chứng kiến.

Quay lại với sự hội nhập với Phương Tây của Minh Mạng. Sự giàu có và mua sắm được vũ khí hiện đại của Trịnh Sâm, là nhờ giao thương ở Phố Hiến. Nhà Nguyễn chậm chân hơn nên yếu hơn. Quân đội Tây Sơn mạnh mẽ, thiện chiến, hiệu quả, là nhờ giao du và nhập khẩu công nghệ từ cảng Quy Nhơn với thương lái Hoa và cướp biển, cũng như vay mượn kinh nghiệm chiến đấu của người Chăm, người Hoa lưu vong. Trịnh và Tây Sơn chập lại, đánh Nguyễn chạy ra biển, chạy cả qua Xiêm. Vị tướng trẻ qua Xiêm rước chúa Nguyễn Ánh trở về, cũng lại là một tay giao thương giỏi, là Châu Văn Tiếp, bạn buôn của Nguyễn Nhạc.

Nguyễn Nhạc, cũng giống như Nguyễn Ánh, đều học toán và thiên văn từ những người truyền giáo Châu Âu mà nhờ đó một người từ lái buôn trầu kiêm quan thuế của chúa Nguyễn mà nổi dậy đánh quân Nguyễn tơi bời. Nguyễn Ánh, kẻ nhiều lần thoát hiểm trong gang tấc, nhờ học hỏi kiến thức Châu Âu, mà lần hồi quay lại giết hết kẻ thù, làm vua cả một nước.

Rồi đến Chúa Nguyễn Ánh, ông không chỉ du nhập công nghệ phương tây mà còn sử dụng người của họ để có kiến thức. Sự hội nhập ấy mang sức mạnh quân sự và kinh tế (không thông qua cướp bóc như Tây Sơn) của Chúa Trịnh rồi đến nhà Nguyễn. Quán tính của nó mạnh đến nỗi khi Minh Mạng quay lưng lại với phương tây, đóng cửa với thế giới bên ngoài, cấm đạo, thì khoa học kỹ thuật của người Việt thời Đế quốc Đại Nam đã đủ sức chế ra rất nhiều kiểu máy móc dùng trong sản xuất và quân sự.

Với vị thế của quốc gia lớn, uy tín quân sự lẫy lừng như vậy, lẽ ra Minh Mạng nên nhìn ra bên ngoài thế giới mà thay đổi cách ngoại giao. Khi quân đội có uy tín, thì ngoại giao dễ chủ động, cái khôn ngoan là nhìn vào mâu thuẫn và đồng thuận giữa các nước, để thu cái lợi về cho quốc gia. Nhưng Minh Mạng vẫn duy trì ngoại giao hình thức là triều cống (với Trung Hoa) và bảo hộ (với láng giềng chư hầu), đồng thời đóng cửa và nghi kỵ phương tây. Chính sách này ngay lập tức gây chiến tranh với Xiêm trên đất Lào và với người Khmer trên đất Chân Lạp, tức là chiến tranh trên vùng đất thuộc quyền bảo hộ của mình. Kết quả là thua và mất đất, mất ảnh hưởng (184x). Bài học lớn về ngoại giao này (quân đội hùng mạnh và khai thác mâu thuẫn hoặc đồng thuận giữa các quốc gia khác) rất tiếc sau này lại bị thất truyền, kinh nghiệm đau thương không được truyền lại cho đời sau, để rồi hơn 100 năm sau (197x, 198x) lịch sử đau thương lại lập dẫn đến sự suy yếu cả kinh tế, quân sự và vị thế ngoại yếu kém so với kẻ thù trực diện là những gì hiện tại chúng ta bắt đầu phải chịu đựng.

Sau khi Minh Mạng qua đời, con rồng thiếu niên Việt Nam ngay lập tức suy yếu. Quân Chân Lạp đánh quân Nguyễn chạy về An Giang, và lãnh thổ còn lại như vậy đến ngày nay. (Sau này một phần đất của Đại Nam, là Hoàng Sa, cũng bị chiếm mất).

Khúc quanh lịch sử này là một bài học cực lớn về để lỡ cơ hội. Nước Việt đã ngấp nghé ở ngưỡng để con Rồng chuyển từ thiếu niên qua rồng trưởng thành, thì chính sách đóng cửa đã làm lụn bại con rồng ấy. Điều kiện cần là độc lập, thống nhất bờ cõi, có tiếng nói chung, cơ chế hành chính giáo dục chung, tất cả những cái ấy Đại Nam/Việt Nam thời đầu nhà Nguyễn đều có. Nhưng họ thiếu hẳn đi điều kiện đủ, đó là mở cửa hội nhập, tiếp cận những nền văn minh có giá trị luân lý sâu sắc hơn, đạo đức và lối sống nhân văn hơn, tư tưởng sáng suốt hơn; tiếp cận các đất nước có thể chế chính trị tốt hơn, vận hành kinh tế xã hội hiệu quả hơn, giàu sáng tạo hơn.

Và thế là con Rồng thiếu niên bị đập cụt móng vẫn tiếp tục ở yên trong vũng nước.

Rất may là các nước lân bang, từ Trung Hoa, đến Miến Điện, Thailand, cũng rơi vào hoàn cảnh giống Việt Nam, tức là đóng cửa hoàn toàn, hoặc mở cửa lừng chừng, độc lập nửa vời, … và do đó cũng không hóa rồng được như Nhật Bản. Còn rất không may là chính các nước ấy, giật mình tỉnh ngộ trước Việt, và đã bỏ xa Việt Nam rất xa. Họ có thể đã tiệm cận với thế giới của Rồng, trong khi Việt Nam vẫn còn nghi hoặc với câu hỏi lên Rồng hay chịu đời giun dế.

Nhật bản xuất Á nhập Âu sau một thời gian dài đã trở thành cường quốc quân sự, tham gia vào phe phát xít để đánh nhau với cả thế giới. Thế nhưng chỉ ngay sau khi gây chiến, phương tây đóng cửa với Nhật, là ngay lập tức Nhật bị tụt hậu về công nghệ quân sự và thua cuộc chiến. Sau chiến tranh, Mỹ lại mở cửa cho Nhật, và họ lại phải triển lên trình độ cao như chúng ta đã thấy.

Quan trọng hơn, sự hội nhập về phía phương tây của người Nhật không làm họ mất đi bản sắc của họ, thậm chí còn ngược lại, bản sắc của người Nhật thậm chí còn quá đặc sắc so với phần còn lại của thế giới. Thể chế kỳ quặc của họ vẫn có cái văn minh đón nhận từ nền tảng chính trị và thể chế Châu Âu, lại vẫn có một ông vua làm lãnh đạo tinh thần cho cả nước.

Trong khi đó Việt Nam, trải qua bao nhiêu thời kỳ, từ Minh Mạng, đến VNDCHH ở Miền Bắc và VNCH ở Miền Nam, và đến tận ngày nay, đều e dè với sự mở cửa hội nhập. Một trong những lý do e sợ hội nhập là một lý do rất đần độn là để bảo vệ và giữ gìn bản sắc dân tộc. Nhưng ngay cả khi hỏi một người hăng hái bảo vệ bản sắc dân tộc nhất, là bản sắc dân tộc VN là gì, thì câu trả lời nếu có cũng sẽ hết sức ngớ ngẩn. Vì chắc chắn không ai biết bản sắc Việt nam là gì hết.

Chỉ khi nào hội nhập toàn diện và sâu sắc với thế giới bên ngoài, va chạm cọ sát với các xã hội có các nền văn minh khác hẳn chúng ta, thì lúc đấy chúng ta mới nhìn thấy được bản sắc của chính mình. Không hội nhập đủ rộng và đủ sâu với thế giới, thì không thể nào tự nhìn thấy bản sắc thật nhất, rõ nhất của mình được. Và chỉ khi hội nhập đầy đủ, chúng ta mới thấy được bản sắc của mình để mà bảo tồn và phát triển, nếu như thực sự chúng ta có cái gọi là bản sắc.

Bản sắc nếu có ấy, chắc chắn sẽ rất đa màu. Nó sẽ có văn hóa của người Việt châu thổ sông hồng, bị ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Hoa nhưng chỉ là bản sao xấu xí. Nó sẽ có thể có tinh thần kiên cường của người Việt miền trung, vốn là dân biên cương khốc liệt có giao thoa với văn hóa chiến tranh của các vương quốc bị ảnh hưởng của Ấn Độ ở phía Nam trung bộ ngày nay. Nó cũng sẽ có văn hóa rụt rè, bi ai mất nước nhưng cứng cáp và sâu sắc ở bên trong của người Việt nam tiến và người Việt gốc Chăm sinh ra và lớn lên trên vùng đất của vương quốc văn minh và hưng thịnh Chăm Pa. Nó cũng sẽ có văn hóa hồn nhiên và bao dung của người Việt gốc Khmer Chân Lạp, và cả người Hoa bỏ xứ.

Chính vì thế, rất cần có những lý tưởng có gốc rễ từ dân tộc Việt đa màu, những chí hướng xây dựng đất nước mà mới chỉ hoàn thiện bờ cõi hơn 200 năm (kể từ 1802 khi Gia Long lên ngôi) và tiếng Việt được sử dụng chính thức và bắt buộc trên cả nước còn có thời gian ngắn hơn nữa, chỉ khoảng 180 năm. (để dễ so sánh về thời gian, hãng bia Heineken có tuổi đời đến năm nay là 140 năm). Chỉ với lý tưởng và chí hướng xây dựng một quốc gia phồn thịnh không phân biệt gốc gác về chủng tộc, tôn giáo và văn hóa của công dân miễn là nói cùng thứ tiếng và sống trong cùng lãnh thổ quốc gia.

Quay lại với hội nhập. Trong quá khứ, các bậc tiền bối của cũng đã cố gắng hội nhập với thế giới, không chỉ Trung Hoa, mà còn với văn minh Phương Tây nữa. Thế nhưng việc hội nhập và phương tây hóa thẳng với nước Pháp, lúc đó đang là mẫu quốc của thuộc địa An Nam, đã thất bại. Người dân của một dân tộc nô lệ thì việc hội nhập và phương tây hóa đến đâu, cũng vẫn là hội nhập và văn minh hóa nô dịch. Nó là sự văn minh hóa cưỡng bức, để làm lợi cho giới chủ thực dân, là những người làm chủ và khai thác bóc lột, chứ không phải là sự hội nhập, phương tây hóa chủ động của một dân tộc được lãnh đạo bởi những cá nhân ưu tú của chính dân tộc mình. Ngay cả một con rồng thực sự mà bị huấn luyện và dẫn dắt, cũng sẽ không còn là con rồng nữa. Nó là con thú nuôi.

Cũng có những bậc tiền bối khác đã chủ động thoát khỏi sự dẫn dắt của người Pháp thực dân, tự mày mò qua Nhật để hội nhập và tiến hành phương tây hóa qua cánh cửa Nhật Bản. Thực dân Pháp ngay lập tức nhìn ra sự nguy hiểm trong phong trào Đông Du. Họ thấy người Việt đang tạo ra điều kiện đủ (hội nhập với văn minh thế giới) khi chưa có điều kiện cần (độc lập). Nên phong trào bị dập tắt. Mặc dù bị dập tắt như vậy, nó vẫn đưa ra được một thể chế có thể nói là cực kỳ lý tưởng vào lúc đó, thể chế quân chủ lập hiến của ông hoàng Cường Để và các chí sỹ như Phan Bội Châu. Thể chế này là sao chép thể chế của nước Nhật.

Mặc dù phong trào của ông hoàng Cường Để toi từ trong trứng, nhưng một người tham gia hoạt động bí mật của phong trào này là Ngô Đình Diệm đã thấu hiểu tinh thần phương tây hóa. Mặc dù là một ông quan đại thần của nhà Nguyễn, gia đình nho hóa cao độ và sâu sắc, nhưng khi lên cầm quyền chính Ngô Đình Diệm là người xây dựng thể chế cộng hòa y như phương tây ở Việt Nam. Đây là một ví dụ vừa hay vừa rõ ràng về cái lợi ích lớn lao mà phương tây hóa sâu sắc sẽ mang đến cho quốc gia. Thể chế do Ngô Đình Diệm xây dựng tồn tại rất ngắn, chỉ cỡ 20 năm, lại bị bao vây bởi chiến tranh khốc liệt nhưng những giá trị mà nó tạo ra, còn tồn tại, thậm chí tỏa sáng đến tận bây giờ.

Quay lại thời Pháp thuộc, mặc dù bị hội nhập và phương tây hóa cưỡng bức, nhưng thời kỳ Pháp thuộc vẫn có những đúc kết kiến thức và kinh nghiệm trị nước, là do thực dân Pháp học hỏi từ nhà Nguyễn, biến kiến thức của nhà Nguyễn thành của mình, và cai trị thành công nước Việt Nam thuộc địa suốt một trăm năm.

Kinh nghiệm quản lý đất nước Việt của người Pháp, lẽ ra cũng không được để gián đoạn và mai một, mà phải chủ động nhận lấy để dùng, thì cả chính phủ của cụ Hồ miền bắc và ông Diệm miền nam đều cổ vũ “đả thực phản phong”, khiến cho kiến thức và kinh nghiệm trị nước của nhà Nguyễn và thực dân Pháp gián đoạn và mất hẳn ở miền Bắc, và chỉ còn xôi đỗ ở miền Nam nhờ ông Diệm, Nhu và các tướng lĩnh và công chức cao cấp do Pháp đào tạo.

Tầng lớp duy nhất tồn tại không hề gián đoạn giữa các thế hệ trong suốt thời kỳ này chính là doanh nhân. Khi Minh Mạng lên ngôi, do lại học hỏi mô hình phong kiến Trung Hoa, thương nhân lại bị đẩy xuống tầng lớp dưới (chính sách ức thương). Bị đẩy xuống nhưng không bị tiêu diệt. Tầng lớp này tồn tại qua thời pháp thuộc, qua cả thời kháng chiến, để rồi bị triệt tiêu ở miền bắc từ 196x đến 198x và bị triệt tiêu ở miền nam từ nửa sau 197x đến cuối 198x.

Sự gián đoạn của các thế hệ doanh nhân, mặc dù rất ngắn ngủi, gần 40 năm ở miền bắc và gần 20 năm ở miền Nam, đã làm đứt đoạn chuyển giao kiến thức, vốn liếng, kinh nghiệm và kỹ năng quản trị nặng nề đến mức doanh nhân Việt Nam tụt hậu với khu vực láng giềng, chứ chưa nói đến so với thế giới, cả thế kỷ.

Kinh doanh và quản trị doanh nghiệp, một lĩnh vực không quá khó học và không quá thiếu kiến thức quốc tế để học, thế mà chỉ gián đoạn vài thập kỷ thôi, là doanh nhân đã tụt hậu và nghèo đi bao nhiêu. Lãnh đạo đất nước khó hơn nhiều, mà bị gián đoạn, thì hậu quả còn tệ đến ra sao, tự ta có thể ước chừng được.

Lại quay lại với hội nhập. Nước Trung Hoa cũng bỏ lỡ các cơ hội mở cửa để hội nhập và phương tây hóa. Đấy là lí do phương tây, sau này là Nhật xâm chiếm Trung Hoa. Khi nước này được giải phóng, độc lập, chính quyền cách mạng của Mao tiếp tục đóng cửa. Cho đến năm 1978 thì họ mở cửa ra, trước Việt Nam chúng ta. Ngay lập tức, các vùng duyên hải của Trung Quốc được tiếp cận rộng và cởi mở hết sức với Phương Tây, đồng thời cũng được phương tây ưu ái hỗ trợ để nhanh hội nhập. Chỉ trong vòng hơn ba mươi năm, khu vực duyên hải của Trung Quốc đã biến Trung Quốc thành một nước mới, phát triển, phồn thịnh, bất chấp sự nghèo nàn lạc hậu vẫn còn lan tràn trong lục địa.

Nhưng khác với Nhật Bản, Trung Quốc hội nhập chỉ rộng chứ chưa đủ sâu, cho nên Trung Quốc vẫn chưa đến đẳng cấp thật sự của rồng, là đóng góp được cho văn minh nhân loại. Tức là chưa ở đẳng cấp được chia của cải, mới chỉ húp canh thừa, mà đã giàu như thế.

Trong gian đoạn toàn cầu hóa mạnh mẽ vừa qua, và cả trong đối đầu với Trung Quốc trước mắt, Việt Nam vừa đi chậm hơn Trung Quốc và các nước trong khu vực vài bước, lại không chuẩn bị cho mình một sự giai đoạn chuyển tiếp, có tính chất cải cách mạnh, từ thể chế đến giáo dục, để gia tăng sản lượng của đất nước, tích lũy của cải quốc gia, củng cố quân đội, tăng cường hoạt động ngoại giao khai thác mâu thuẫn/đồng thuận của các nước trên thế giới nhằm kiếm thêm lợi về cho đất nước.

Rất may, biết đâu, là Trung Quốc giàu xổi rất nhanh và tinh thần hắc ám phát xít Đại Hán còn phát triển nhanh hơn. Cho nên các nước phương tây sớm hay muộn cũng đóng cửa lại với Trung Quốc. Khi bị đóng cửa, hạn chế hội nhập, chỉ trong thời gian ngắn, chắc chưa đến 10 năm, Trung Quốc sẽ tụt hậu.

Và đấy chính có thể là cơ hội rất lớn để thúc con rồng thiếu niên Việt Nam vốn lười biếng ngủ quên suốt gần 200 năm qua.


Nhưng trước hết, vẫn phải đặt các câu hỏi cốt lõi, và trả lời các câu hỏi ấy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét