Trích đoạn miễn phí "Bên Thắng Cuộc" trên trang Amazon.com
Amazon. com là trang quảng cáo bán sách "Bên Thắng Cuộc" của Huy Đức. Để hỗ trợ thông tin cho người đọc trước khi mua, trang này đã cung cấp miễn phí đoạn trích dưới đây. Đang đọc cuốn sách này thấy đa phần các thông tin không mới, nhưng cách trình bày hấp dẫn, do đó tự nhiên thấy cần lưu đoạn miễn phí này để thỉnh thoảng xem lại các bài trên Blog - thư viện này thì lại nhớ đến cuốn sách và đọc lại. Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 ở Sài Gòn trong trích đoạn dưới đây cũng như sự kiện Mỹ ném bom Hà Nội dịp Noel 1972 mà chúng ta đang kỷ niệm hiện nay là hai thời điểm nhiều cảm xúc nhất đối với tôi trong hai thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ trước.--------------------
Trích "Bên Thắng Cuộc":
Phần I: Miền Nam
Chương I: Ba Mươi Tháng Tư
Ba mươi
tháng Tư năm 1975 là ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ngày mà những người
anh em miền Nam buông súng đầu hàng miền Bắc. Ngày chấm dứt hơn hai mươi năm
“da thịt tàn nhau, vạ trong tường vách”. Nhưng, không phải cứ súng ống vứt đi
là sẽ có hòa bình.
Đi
từ bưng biền
Sáng sớm
ngày 30-4-1975, “cánh” của ông Võ Văn Kiệt về tới một khu “đám lá tối trời”
thuộc huyện Bình Chánh. Hai mươi hai ngày trước, ông Lê Đức Thọ vào Trung ương
Cục, sau đó, công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh6,
đồng thời trao quyết định cử ông Võ Văn Kiệt làm bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban
Quân quản Sài Gòn-Gia Định, cử ông Lê Đức Anh làm phó bí thư kiêm chủ tịch Ủy
ban Quân quản, và ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh đảm trách lực lượng nổi dậy phối
hợp với quân chủ lực.
Từ R, căn
cứ Trung ương Cục ở huyện Lộc Ninh, ông Kiệt cùng một bộ phận phục vụ gọn,
khoảng hai trung đội, chạy xe Honda 67 bọc qua phía Campuchia, tới cửa biên
giới Mỏ Vẹt, Long An thì bỏ xe lại, đi bộ. Ông Kiệt không lúc nào rời chiếc
radio ba làn sóng hiệu JVC của Nhật. Đài Hà Nội lúc đó gần như liên tục phát
Bão Nổi Lên Rồi, một bài hát mà nhịp điệu thì hối hả, lời lẽ thì thôi thúc: “Từ
Trị Thiên băng qua Tây Nguyên đi tới bưng biền lòng người bừng bừng, cùng tiến
lên thời cơ đã đến rồi”.
Thời cơ đã
đến! Anh em phục vụ quan sát thủ trưởng, trong lòng cảm thấy lần này chắc ăn.
Nhưng thủ trưởng vẫn im lặng. Ngày 27-4, đoàn vượt qua sông Vàm Cỏ Đông, tới xã
Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, gặp cánh ông Mai Chí Thọ đã về trước ém quân ở đó. Ông
Năm Xuân Mai Chí Thọ, phó bí thư Khu uỷ Sài Gòn-Gia Định vào thời điểm đó, là
người thông thạo các đầu mối hoạt động nội thành. Hai đoàn bắt đầu nhập lại làm
một. Ít ai nghĩ rồi những người đàn ông mặc đồ bà ba đen, đi dép râu, mặt mũi
khắc khổ, đang xắn quần lội ruộng đó, chỉ vài ngày nữa sẽ nắm quyền lãnh đạo
Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông.
Sáng hôm
sau, khi sương sớm còn phủ trắng, từ nơi tạm dừng nhìn qua phía bên kia cánh
đồng, cánh ông Kiệt nhìn thấy lố nhố xe pháo. Lúc đầu có người tưởng là xe tăng
“địch”, tới khi sương mù bớt đi mới nhận ra: “Cơ man tăng. Tăng mình!”. Ông
Kiệt viết thư, niêm kín, ra lệnh cho thư ký riêng là ông Phạm Văn Hùng (Ba
Hùng), đi kiếm Trung tướng Lê Đức Anh. Tướng Lê Đức Anh tới lúc ấy vẫn là phó
tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, được giao chỉ huy Đoàn 232, một lực lượng tương
đương quân đoàn, tiến vô Sài Gòn ở hướng Tây Nam. Dọc đường Ba Hùng đi, đạn
pháo nằm la liệt trên các bờ ruộng, bờ kênh; dân công rầm rập, bộ đội, xe tăng
lớp lớp. Tướng Lê Đức Anh viết thư trả lời “Anh Sáu Dân” (bí danh của ông
Kiệt), rồi cũng niêm kín, đưa Ba Hùng cầm về. Sau này ông Phạm Văn Hùng mới
biết đó là thông tin về giờ G. Giờ G, ngày N, tức 00 giờ 00 phút ngày
29-4-1975, là giờ quy định cho tất cả năm cánh quân của quân Giải phóng đồng
loạt nổ súng tấn công vào Sài Gòn.
Trưa 29-4,
đoàn lội bưng, băng vô vườn thơm Tân Nhựt, Bình Chánh, hạ trại nấu cơm. Bếp rơm
có khói, một chiếc trực thăng trờ tới, lia vài băng đạn vu vơ. Cách đó không xa
lắm là đồn Lý Văn Mạnh, nhưng lính trong đồn giờ đó đã không còn dám ra ngoài.
Đêm ấy, ở lại Tân Nhựt, Ba Hùng mắc võng bên cạnh ông Kiệt, nằm nghe tiếng
pháo, sau biết là “ta pháo kích vô Tân Sơn Nhất”, hai thầy trò trăn trở không
làm sao ngủ được. Sáng 30-4, ông Kiệt, trong khi trao đổi tình hình với ông Mai
Chí Thọ, không quên phân công người theo dõi đài phát thanh và cho phép anh em
nấu ăn. Từ đêm trước, chưa ai có hột cơm nào vô bụng.
Tới khoảng
9 giờ 30 phút sáng, Đài Sài Gòn im lặng rất lạ, rồi tiếng phát thanh viên: “Mời
đồng bào nghe tuyên bố của Tổng thống”. Mọi người xúm lại quanh chiếc radio
theo dõi phát biểu của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối, chủ trương của
chúng tôi là hoà giải và hoà hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin
tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu
người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sỹ Cộng hoà hãy
bình tĩnh, ngưng nổ súng, và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sỹ
Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng. Chúng
tôi ở đây chờ gặp Chánh phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam để cùng nhau
thảo luận về lễ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự, tránh đổ máu vô ích
của đồng bào”.
Lời Tướng
Minh vừa dứt, Võ Văn Kiệt ra lệnh: “Giản chính đồ đạc. Đi!”. Đoàn người lúc đó
chẳng kịp ăn uống mà vẫn no tới tận cổ, băng đồng ra lộ, đi về hướng Phú Lâm,
cửa ngõ phía Tây Thành phố. Dọc đường, lính Sài Gòn bắt đầu trút bỏ quân phục,
súng ống, binh khí vất la liệt. Anh em bảo vệ lúc đầu còn khệ nệ xách, sau thấy
lếch thếch quá, lại vứt đi. Có nơi lính Sài Gòn ra hàng cả tiểu đoàn. Quân Giải
phóng chỉ kịp giải thích chính sách rồi ai ở đâu về đó. Sự tan rã của chế độ
Sài Gòn diễn ra gấp gáp khiến ông Kiệt quá sốt ruột. Ông gọi Tư Thạch và Chín
Anh, hai người cận vệ vốn là dân thành phố, đến, ra lệnh: “Hai đồng chí tìm
cách kiếm xe, nhanh chóng đưa Đại quân vô Sài Gòn!”.
Chín Anh
cùng Tư Thạch ra lộ, gặp hai người bận đồ công nhân, chạy xe máy từ phía Sài
Gòn ra. Chín Anh nói: “Tụi tôi là Giải phóng. Nhờ mấy anh quay lại, đưa tụi tôi
vô Sài Gòn”. Hai người này sốt sắng: “Mời mấy anh”. Chín Anh tính đi thẳng vô
Phú Lâm nhưng mới tới xa lộ vành đai thì thấy một chiếc xe tải quân sự hiệu GMC
mới cáu đậu sẵn bên lề đường. Trên xe không biết lực lượng nào đã cắm sẵn một
lá cờ Giải phóng. Chín Anh hỏi: “Mấy anh biết lái xe không?”. Một người nói
liền: “Tôi là tài xế nè”. Chín Anh cho kiểm tra lại xe, thấy xe tốt, kêu hai
“chiến sỹ” vừa được “trưng dụng” đưa xe máy vô nhà dân cạnh đường gửi, rồi lái
chiếc xe quay lại.
“Đại quân”
lúc này vẫn đi bộ theo Lộ 10, gặp xe mừng quá, nhanh chóng leo lên. Chín Anh
ngồi bên cạnh tài xế, ông Kiệt và ông Năm Xuân ngồi kế bên. Bốn, năm anh em
khác bám hai bên thùng xe để bảo vệ. Một tốp thanh niên thấy chiếc GMC cắm cờ
Giải phóng chạy vô phố, cứ thế phóng xe máy theo. Dọc đường, chỗ nào cũng có
lính Việt Nam Cộng hoà cởi áo, cởi giày, chạy. Người dân gom vô, lấy chỗ cho
chiếc xe quân sự Mỹ chở một trong những nhà lãnh đạo “Việt cộng” đầu tiên tiến
vào Sài Gòn.
Ông Võ Văn
Kiệt, ông Mai Chí Thọ và những người trên chiếc xe GMC hôm đó, có người đã suốt
ba mươi năm mắc võng nằm rừng. Giờ ngắm phố xá chạy vùn vụt bên cửa xe, mắt họ
cay xè vì sung sướng. Không ai trong số họ, sau đó, có thể diễn đạt lại được
cảm giác khi ấy của mình, nhưng cuộc đời họ rồi sẽ khó lòng có lại một niềm vui
nào lớn lao hơn niềm vui trong cái ngày 30-4 đó.
Xuân
Lộc
Trong
khoảng thời gian cánh ông Võ Văn Kiệt tìm cách di chuyển vô nội thành, chính
những chiếc tăng của Lữ đoàn 203, Quân đoàn II đã viết nốt những dòng cuối cùng
của một trang sử.
Kế hoạch
“bao vây chiến lược Sài Gòn” bắt đầu từ ngày N. Lúc đầu, theo Tướng Trần Văn
Trà, ở phía Tây, Đoàn 232 do Tướng Lê Đức Anh làm tư lệnh cũng gặp không ít khó
khăn; phía Đông, đêm ngày 9 rạng sáng ngày 10-4, Quân đoàn IV gồm hai sư đoàn
tấn công thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh. Cuộc tấn công đã chọc thủng tuyến
phòng ngự thị xã bằng nhiều mũi, nhanh chóng phát triển vào trung tâm. Tuy
nhiên, sau khi cắm cờ trên dinh tỉnh trưởng và làm chủ một loạt các căn cứ
khác, ngày 10-4, một lữ đoàn dù của Việt Nam Cộng hòa được trực thăng vận đưa
tới thị xã để chi viện gấp và “giữ tinh thần cho Sư đoàn 18”.
Cho đến
ngày 15-4, gần hết tăng thiết giáp của Quân đoàn III và một lực lượng tương
đương một sư đoàn thuộc quân trù bị dù và thủy quân lục chiến của Sài Gòn đã
được điều về. Trận Xuân Lộc được được coi là khốc liệt nhất trong toàn chiến
dịch. Quân đội Sài Gòn đã ném xuống đây hai loại bom có khả năng sát thương
hàng loạt: Daisy Cutler và CBU7. “Mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”, mọi sức mạnh có
thể đều được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sử dụng.
Hãng UPI
(Mỹ), ngày 12-4, cho rằng, Xuân Lộc được chọn làm nơi thí nghiệm khả năng chiến
đấu của quân Nam Việt Nam. Khi quân Giải phóng gặp khó khăn, thương vong rất
lớn ở Xuân Lộc, báo chí Sài Gòn đánh giá khả năng chiến đấu của Quân lực Việt
Nam Cộng hòa đã hồi phục, và còn đủ mạnh để giữ vững chế độ.
Theo Tướng
Trần Văn Trà, tình hình đó khiến cho “các đồng chí Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng và
cả anh Lê ĐứcThọ rất lo lắng”. Tướng Trà viết: “Trận đánh quá ác liệt, e rằng
các đơn vị ta bị thương vong nặng trong thời điểm này không lợi. Vì vậy các anh
gợi ý có thể cho anh em rút ra khỏi thị xã… tôi đề nghị cho tôi đến tận nơi,
nắm rõ tình hình cụ thể tại chỗ và cùng anh em nghiên cứu cách đánh. Các anh
đều đồng ý”8. Chiều 11-4, Tướng Trà đến chỉ huy sở của Quân đoàn IV đóng trên
bờ sông La Ngà. Sau khi nghe ý kiến của các tướng chỉ huy ở đây, Tướng Trà kết
luận: “Xuân Lộc là điểm then chốt, hết sức quan trọng trong tuyến phòng ngự,
nên địch đã tập trung nhiều lực lượng cố giữ. Hiện nay lực lượng chúng đã chiếm
ưu thế so với ta. Ta cũng không còn giữ được yếu tố bất ngờ. Vì vậy tiếp tục
đánh vào Xuân Lộc là không lợi… Nếu ta chiếm ngã ba Dầu Giây và giữ vững luôn…
thì Xuân Lộc tự dưng mất hết tác dụng vì bị đặt ra ngoài tuyến phòng thủ. Biên
Hòa thì sẽ lập tức bị uy hiếp”9. Tất cả nhất trí với phương án tác chiến này.
Để chuẩn
bị cho chiến dịch được đặt tên là Hồ Chí Minh, Quân đoàn I được điều từ miền
Bắc vào; Quân đoàn II thì vừa hành quân vừa tác chiến dọc theo bờ biển. Tướng
Trà viết: “Có đơn vị vào tới, nhưng đạn dược chưa tới, có xe tăng đến nơi nhưng
xăng dầu hết, đạn pháo chỉ còn một hai viên, cần phải bổ sung chấn chỉnh.
Cán bộ
tham mưu và hậu cần vùi đầu với công việc, mỗi ngày làm việc gấp mấy lần ngày
thường. Nhưng tinh thần phơi phới”10.
Ngày 18-4,
ông Lê Đức Thọ, đại diện Bộ Chính trị đã cùng Bộ Chỉ huy chiến dịch duyệt lại
kế hoạch lần cuối. Trước đó, trong Điện số 07, ông Lê Duẩn viết: “Tôi đã bàn
với anh Văn (Võ Nguyên Giáp), nhận thấy cần chuẩn bị thêm mấy ngày nữa, đến khi
phần lớn lực lượng của Quân đoàn III và Quân đoàn I (cả bộ binh và binh khí kỹ
thuật) đến nơi sẽ bắt đầu cuộc tấn công lớn, chưa nên làm bây giờ”11. Rạng sáng
ngày 21-4, các tuyến phòng thủ cuối cùng của chính quyền Sài Gòn tại Xuân Lộc
sụp đổ. Bốn tiểu đoàn còn sống sót của Sư đoàn 18 quân đội Việt Nam Cộng hòa
với Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo đã phải thoát khỏi thành phố đổ nát ấy bằng máy
bay lên thẳng.
Đầu tháng
4-1975, trong một cuộc họp báo tại Nhà Trắng, khi các phóng viên đặt vấn đề
loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu mở đường cho một chính phủ “có thể nói chuyện với
Hà Nội” lên cầm quyền, Tổng thống Mỹ Gerald Ford nói: “Tôi không tin là
tôi có quyền ra lệnh cho một nguyên thủ quốc gia được dân bầu rời nhiệm sở”12.
Tuy nhiên, hơn hai tuần sau, vào ngày 20-4-1975, cả Tổng thống Gerald Ford và
Ngoại trưởng Henry Kissinger đều đồng ý để đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin
nói bóng gió với ông Thiệu về việc nên “cân nhắc từ chức”.
Nhà Trắng
hy vọng với việc từ chức của ông Thiệu, Liên Xô có thể giúp nói với miền Bắc
đàm phán để có “thêm vài ngày sơ tán những người Việt Nam có liên hệ với Mỹ”.
“Với một điệu bộ khá lạnh lùng, Thiệu trả lời rằng ông sẽ làm tất cả những gì
tốt đẹp cho đất nước của ông”13. Tuy nhiên, vào buổi trưa hôm sau, ngày 21-4-
1975, khi không còn Xuân Lộc, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu Thủ tướng Trần
Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương đến văn phòng, thông báo là ông từ
chức. Chiều tối hôm đó, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên truyền hình công khai
quyết định của mình và giao quyền cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương.
Lúc 3 giờ
30 phút chiều ngày 22-4-1975, từ Hà Nội, một bức điện ký tên Bí thư Thứ nhất Lê
Duẩn được chuyển vào chiến trường: “Các anh ra chỉ thị ngay cho các hướng hành
động kịp thời, chú trọng kết hợp tấn công quân sự và nổi dậy của quần chúng, sự
hợp đồng giữa các hướng cũng như giữa tiến công và nổi dậy sẽ thực hiện trong
quá trình hành động. Nắm vững thời cơ lớn, chúng ta nhất định giành toàn
thắng”14.
Ngày
26-4-75, Tướng Văn Tiến Dũng, tư lệnh Chiến dịch, và Tướng Trần Văn Trà di
chuyển xuống Sở Chỉ huy tiền phương; hai ngày sau, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng tới.
Đến lúc ấy thì tình hình đã ngã ngũ. Sài Gòn hoàn toàn bị vây hãm. Phía
Tây, Sư đoàn 5 của Đoàn 232 bắt đầu tấn công vào Sư đoàn 22, từ Tân An lên
đến Cầu Voi; Trung đoàn 16 đánh chiếm cầu Bình Điền và cầu An Lạc; hai Trung
đoàn đặc công 115 và 117 chiếm Phú Lâm. Xa hơn về phía tây, Lộ 4 bị cắt ở Cai
Lậy.
Cũng từ
ngày 26-4, Sư đoàn 8 Quân khu VIII đã cắt hoàn toàn Lộ 4 đoạn từ ngã ba Trung
Lương lên giáp Tân An. Lực lượng Quân khu IX cũng khống chế được đoạn Cái
Vồn-Ba Càng. Con đường chiến lược độc nhất xuyên suốt đồng bằng Cửu Long bị băm
nát. Về phía Đông, Quân đoàn II ngày 26-4 cũng nổ súng tấn công căn
cứ huấn luyện thiết giáp Nước Trong, đánh chi khu Long Thành; ngày 27-4
chiếm thị xã Bà Rịa. Đường 15 bị cắt đứt hoàn toàn. Cùng đêm 26-4, Trung đoàn
đặc công 116 bắt đầu đánh cầu xa lộ Đồng Nai; Trung đoàn 10 đặc công đánh từ
Phước Khánh đến ngã ba Đồng Tranh, khóa chặt đường sông. Sân bay Biên Hòa bị
bắn phá bằng pháo 130 ly. Ngày 23-4, sân bay Biên Hòa bị đóng cửa cùng lúc với
tòa lãnh sự Mỹ ở thị xã Biên Hòa. Sài Gòn chỉ còn kiểm soát hai sân bay
cuối cùng: Lộ Tẻ (Cần Thơ) và Tân Sơn Nhất”15.
Tướng
Big Minh
Đầu tháng
4-1975, có những thông tin cho thấy người Mỹ quan tâm tới “phương án Big Minh”.
Tài liệu của CIA nói là ngày 2-4-1975, trùm CIA tại Sài Gòn Thomas Polgar gửi
một bức điện về Tổng Hành dinh đề xuất lật Thiệu để đưa Dương Văn Minh lên
thay, hy vọng thành lập được một chính phủ liên hiệp “có khả năng làm chậm lại
cuộc xâm lược của Bắc Việt”16. Theo Polgar, trưởng đoàn Hungary trong Ủy ban
Kiểm soát Bốn bên nói Hà Nội cho biết nếu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị loại
thì Bắc Việt sẵn sàng thương thuyết. Tại Dinh Hoa Lan (vốn là một dinh thự của
Đức Từ Cung ở số 3 Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần, được Tổng thống Ngô Đình
Diệm ban tặng cho Tướng Minh), nhóm ông Minh bắt đầu thảo luận về khả năng chấp
chính.
Đại tướng
Dương Văn Minh17 sinh năm 1916 tại Mỹ Tho. Cha ông, Đốc phủ sứ Dương Văn Huề,
có bảy người con. Em kế ông Minh, Dương Thanh Nhựt, “tập kết” ra Bắc năm 1954.
Ông Minh, vốn là một sỹ quan trong quân đội Pháp, sau Cách mạng tháng Tám đã
từng tham gia kháng Pháp. Từ năm 1960, Xứ ủy Nam Bộ, khi ấy được lãnh đạo bởi
ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh, đã yêu cầu Cục trưởng Cục Địch vận Võ Văn
Thời giao nhiệm vụ cho Dương Thanh Nhựt về Nam để tiếp cận với Dương Văn Minh.
Tháng 3-1961, Dương Thanh Nhựt, bấy giờ mang bí danh Mười Ty, về đến miền Nam,
và tới tháng 8-1962 thì móc nối được với cậu ruột và vợ là Sử Thị Hương.
Ngày
1-11-1963, Dương Văn Minh, người hùng của Ngô Đình Diệm, đã nhân danh chủ tịch Hội
đồng Quân nhân Cách mạng phát lệnh đảo chính tổng thống.
Năm 1967,
khi Dương Văn Minh đi Pháp, ông Mười Cúc cũng đã cử Mười Ty qua Paris; trước
đó, Mười Ty cũng được đưa qua Hồng Kông tìm Dương Văn Minh, nhưng cả hai lần
đều không gặp18.
Giữa tháng
4-1975, tại một nhà hàng đặc sản của Tướng Mai Hữu Xuân nằm trong rừng cao su
trên xa lộ Đại Hàn có tên là Đường Sơn Quán, ông Dương Văn Minh tổ chức
họp mặt với đông đủ báo giới trong và ngoài nước, tuyên bố “sẵn sàng thay Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu như một giải pháp tình huống để tìm cơ hội hòa bình cho
miền Nam”. Sau cuộc họp báo, ngày 17-4, Đại sứ Pháp Jean Marie Mérillon đã đến
Dinh Hoa Lan bằng xe có cắm quốc kỳ Pháp. Hành động của ông Đại sứ được báo chí
Sài Gòn bình luận là cố tình vi phạm nguyên tắc ngoại giao nhằm công khai lập
trường của Pháp đối với tình hình chính trị miền Nam.
Sau khi từ
chức, ngày 21-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và gia đình vẫn sống trong
Dinh Độc Lập. Phe đối lập và Đài Hà Nội liền gọi Sài Gòn là “Chính
phủ Thiệu mà không có Thiệu”. Cả Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương và
Tướng Big Minh đều đánh tiếng để Đại sứ Martin thu xếp đưa ông Thiệu đi. Về mặt
công khai, chuyến đi của ông Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Trần Thiện Khiêm là
“công cán”.
Buổi chiều
ngày 25-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu với sự tháp tùng của một sỹ quan
tùy viên, Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu, đi một vòng “hậu dinh”, nơi ở của
gia đình ông, và chỉ ra yêu cầu chuẩn bị đồ đạc cá nhân để đưa về tư gia. Sau
đó, ông đến văn phòng tổng thống. Sỹ quan tùy viên của ông Hương nói “Tổng
thống đang họp”. Ông Thiệu đưa cho viên sỹ quan một phong thư, dặn khi nào Tổng
thống họp xong thì trình.
Theo ông
Nguyễn Đức Từ, một trợ tá và là em rể họ của ông Thiệu, bức thư viết: “Thưa cụ,
theo chỉ thị của cụ, tôi và Đại tướng Trần Thiện Khiêm đi giải độc tại các quốc
gia bạn, cùng với đoàn tùy tùng gồm: Đại tá Đức, Đại tá Thiết, Đại tá Diên,
Trung tá Chiêu…”. Sau đó, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng đến nhà Tướng
Khiêm ở Bộ Tổng Tham mưu; tại đây, một tiệc nhẹ đã dọn sẵn. Ăn xong, Tướng
Nguyễn Văn Thiệu cùng Trung tá Chiêu đi bộ về nhà, cũng trong khuôn viên Bộ
Tổng. Khi họ quay lại thì bàn ăn nhà Tướng Khiêm đã được dùng làm bàn thủ tục
cho chuyến bay.
Khoảng 9
giờ tối, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng được đưa ra phi trường bằng ba
chiếc xe do hai sỹ quan CIA lái. Đoàn xe ra khỏi cổng Bộ Tổng Tham mưu, thay vì
rẽ phải vào phi trường, đã rẽ trái đi ngược ra Sài Gòn, vào Chợ Lớn, qua trường
đua Phú Thọ, Lăng Cha Cả… qua cổng Phi Long, Bộ Tư lệnh Không quân, theo đường
ngược chiều chạy vào sân bay. Tại “cổng nhà kính” của Không quân, đèn tắt,
không có nhân viên Việt Nam nào làm việc, chỉ có thủy quân lục chiến và quân
cảnh Mỹ. Sau khi nhận tín hiệu bằng đèn pin, đoàn xe đi qua, chạy thẳng
tới cầu thang một chiếc máy bay C-118. Ở đó, Đại sứ Mỹ Martin đã đứng chờ
đưa tiễn. Đêm ấy, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay đi Đài Loan19.
Những ngày
ấy, trong Dinh Hoa Lan, theo mô tả của một người kề vai sát cánh với ông Dương
Văn Minh, Dân biểu đối lập Hồ Ngọc Nhuận, là “những ngày dài như vô tận”. Tổng
thống tạm quyền Trần Văn Hương, người trước đó được Tướng Nguyễn Văn Thiệu
phong hàm “hạ sỹ danh dự” đã “quyết tử thủ dù Sài Gòn có phải tắm máu”. Tướng
Big Minh nói với Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận: “Toa (anh) làm thế nào đó thì làm, nếu
ông Hương cứ kéo dài hoài thì moa (tôi) không nhận đâu!”. Ông Hồ Ngọc Nhuận
hiểu đại từ tiếng Pháp “toi” mà ông Tướng nói là nhằm chỉ ông Nhuận và nhóm dân
biểu đối lập đang “quậy” ở Quốc hội để ông Hương từ chức. Nghe ông Tướng nói
“moa không nhận”, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận nghĩ tới cái ghế tổng thống mà tới giờ
đó “ai cũng thấy là không còn cái chân nào”, ông Nhuận xót xa nghĩ: “Ông Tướng
đã từng muốn xua đi chén đắng để cuối cùng chấp nhận uống chén đắng cho tới cặn
sao”20.
Sau đó,
trong một cuộc họp ở Dinh Hoa Lan, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận khuyên Tướng Big Minh
“thôi”. Ông Dương Văn Minh ngạc nhiên: “Giờ này mà toa còn nói đâm bang!”. Ông
Hồ Ngọc Nhuận bỏ phòng họp lên sân thượng. Dân biểu Dương Văn Ba sau đó theo
lên nói: “Anh đừng buồn”. Ông Hồ Ngọc Nhuận nói: “Nếu ông Tướng nhận, người ta
sẽ làm nhục, giờ này thì chỉ có đầu hàng thôi. Cho dù lâu nay hoạt động của
chúng ta có gián tiếp tiếp tay cho họ (phía Cách mạng), nhưng tôi không muốn
đứng trong hàng ngũ những người sẽ bị họ bắt quỳ gối, đầu hàng”. Kể từ đó, ông
Nhuận không tham gia các cuộc họp bàn thành lập “nội các” nữa, cho dù nhiều
người muốn ông Nhuận, người đã từng là quận trưởng Quận 8 và đang là một dân
biểu đối lập hàng đầu, ra tay “giúp ông Tướng” mà nhận lãnh vai trò “đô
trưởng”.
Ngày
27-4-1975, Quốc hội Sài Gòn nhóm họp. Chỉ còn 136 nghị sỹ trên tổng số 219 của
lưỡng viện có mặt, phần đông trong số họ đã di tản ra nước ngoài.
Bộ trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn và Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên đã
đến để thuyết trình tình hình chiến sự. Mãi tới 8 giờ 54 phút tối hôm ấy, các
nghị sỹ mới biểu quyết thông qua nghị quyết: “Yêu cầu ông Trần Văn Hương trao
quyền cho Tướng Dương Văn Minh để mưu cầu hòa bình cho dân tộc”.
Ngày 28-4,
Tướng Dương Văn Minh chính thức công bố thành phần chính phủ: Luật sư Nguyễn
Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng viện, giữ chức phó tổng thống; luật sư Vũ Văn
Mẫu giữ chức thủ tướng. Nội các còn có thêm một thành viên chính thức nữa là
Tổng trưởng Thông tin Lý Quý Chung.
Quyết định đầu tiên của Đại tướng Dương Văn Minh là ký Văn thư số 33/TT/VT “mật – hỏa tốc” với nội dung: “Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Kính gửi ông Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam. Thưa ông Đại sứ. Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại sứ vui lòng ra chỉ thị cho các nhân viên của cơ quan tùy viên quân sự DAO rời khỏi Việt Nam trong vòng hai mươi bốn giờ đồng hồ kể từ ngày 29-4-1975 để vấn đề hòa bình Việt Nam sớm được giải quyết. Trân trọng kính chào ông Đại sứ. Sài Gòn ngày 28-4-1975. Ký tên: Đại tướng Dương Văn Minh”.
Quyết định đầu tiên của Đại tướng Dương Văn Minh là ký Văn thư số 33/TT/VT “mật – hỏa tốc” với nội dung: “Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Kính gửi ông Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam. Thưa ông Đại sứ. Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại sứ vui lòng ra chỉ thị cho các nhân viên của cơ quan tùy viên quân sự DAO rời khỏi Việt Nam trong vòng hai mươi bốn giờ đồng hồ kể từ ngày 29-4-1975 để vấn đề hòa bình Việt Nam sớm được giải quyết. Trân trọng kính chào ông Đại sứ. Sài Gòn ngày 28-4-1975. Ký tên: Đại tướng Dương Văn Minh”.
Trại
Davis
Sáng
29-4-1975, một người bạn cùng sinh hoạt tôn giáo với Phó Tổng thống Nguyễn Văn
Huyền là nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu chủ động gặp ông Huyền hỏi: “Chính
quyền ông Dương Văn Minh thành lập được nói là để hòa giải dân tộc, vậy các anh
đã tiếp xúc gì với phía bên kia chưa?”. Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền nói
chưa, và đề nghị ông Nguyễn Đình Đầu vào trại Davis gặp đại diện Cách mạng có
mặt ở đó với tư cách là thành viên thuộc Ủy Ban Liên lạc Bốn bên theo Hiệp định
Paris.
Từ năm 1939, ông Nguyễn Đình Đầu hoạt động trong phong trào Thanh Lao Công, một tổ chức của lực lượng thanh niên Công giáo. Tại đó, ông gặp ông Nguyễn Mạnh Hà, nguyên giám đốc Kinh tế Bắc kỳ trong chính phủ thân Nhật của ông Phan Kế Toại, người được ông Võ Nguyên Giáp tiến cử làm bộ trưởng Kinh tế sau Cách Mạng tháng Tám. Ông Hà chọn ông Nguyễn Đình Đầu làm bí thư Bộ, một trong bốn viên chức chính trị của Bộ21.
Từ năm 1939, ông Nguyễn Đình Đầu hoạt động trong phong trào Thanh Lao Công, một tổ chức của lực lượng thanh niên Công giáo. Tại đó, ông gặp ông Nguyễn Mạnh Hà, nguyên giám đốc Kinh tế Bắc kỳ trong chính phủ thân Nhật của ông Phan Kế Toại, người được ông Võ Nguyên Giáp tiến cử làm bộ trưởng Kinh tế sau Cách Mạng tháng Tám. Ông Hà chọn ông Nguyễn Đình Đầu làm bí thư Bộ, một trong bốn viên chức chính trị của Bộ21.
Phái đoàn
vào trại Davis hôm 29-4-1975 gồm ông Nguyễn Văn Diệp, ông Nguyễn Đình Đầu, Kỹ
sư Tô Văn Cang và ông Nguyễn Văn Hạnh. Dọc đường đi họ gặp rất nhiều trở ngại
do binh lính cản đường. Ở trại Davis, một cán bộ Cách mạng tiếp họ nhưng nói là
Phái đoàn Chính phủ Cách mạng không có nhiệm vụ tiếp xúc. Nhưng khi trao đổi
không chính thức, vị cán bộ này gợi ý: chỉ cần các ông chấp nhận “Tuyên bố ngày
26-4-1975 của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”22.
Trở về từ
trại Davis, ông Diệp báo cáo với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền. Sau khi có
tranh luận trong nội bộ Chính phủ, ông Nguyễn Văn Diệp và ông Nguyễn Đình Đầu
về nhà ông Diệp cùng soạn thảo bản tuyên bố “Chấp nhận Điều kiện Ngừng bắn của
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam”. Dự thảo viết xong lúc 16 giờ và
ngay sau đó được “Phó Tổng thống đặc trách đàm phán” Nguyễn Văn Huyền trình lên
Tổng thống. Tướng Dương Văn Minh chấp thuận. Ông Nguyễn Văn Huyền đã công bố
bản này trên Đài Phát thanh Sài Gòn vào lúc 17 giờ ngày 29-4-1975. Cũng trong
ngày 29-4, sau bữa cơm trưa, Luật sư Trần Ngọc Liễng, một người hoạt động trong
lực lượng thứ ba, tới Dinh Hoa Lan gặp Tổng thống Dương Văn Minh. Ông Liễng,
một người của phía Cách mạng, thông báo với ông Minh về “bốn giàn pháo của quân
Giải phóng đặt quanh Sài Gòn” và nói: “Nếu anh chấp nhận không chống cự thì tôi
lên ngay trại Davis báo ý này với phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng
hòa Miền Nam Việt Nam và yêu cầu họ không pháo kích vào Sài Gòn, tránh cho nhân
dân khỏi bị chết chóc, Sài Gòn không đổ nát”. Ông Minh suy nghĩ rồi nói: “Liễng
đi đi”.
Khoảng 15
giờ, “sứ bộ” thứ hai gồm Luật sư Trần Ngọc Liễng, Linh mục Chân Tín, Giáo sư
Châu Tâm Luân vào trại Davis. Trưởng Phái đoàn Chính phủ Cách mạng Võ Đông
Giang ra tiếp, nhận thông điệp “Sài Gòn không chống cự” từ ông Liễng. Do
tình hình chiến sự, ông Võ Đông Giang đã giữ “sứ bộ” ở lại trại Davis cho tới
khi quân Giải phóng vào đến Sài Gòn. Trước đó, một người trong nhóm của
Luật sư Trần Ngọc Liễng đã được tiến cử để Tổng thống Dương Văn Minh bổ nhiệm
vào chức giám đốc Nha Cảnh sát Đô thành: ông Triệu Quốc Mạnh, chánh Biện lý Gia
Định, một “đảng viên cộng sản nằm vùng”. Trong ngày 29-4, Triệu Quốc Mạnh đã
kịp thi hành triệt để lệnh của tổng thống: thả hết tù chính trị.
Nguyễn
Hữu Hạnh
Trong khi
ấy, từ Cần Thơ, Chuẩn tướng hồi hưu Nguyễn Hữu Hạnh lặng lẽ theo dõi tình hình,
nhận thấy đây là cơ hội cuối cùng để mối quan hệ âm thầm với Cách mạng gần chục
năm qua mang về kết quả. Ông Hạnh với ông Minh đã có hơn ba mươi năm biết
nhau trên nghĩa thầy trò. Ngày đăng lính, ông Nguyễn Hữu Hạnh được người Pháp
đưa vào một đơn vị nơi ông Dương Văn Minh là thiếu úy đại đội phó. Sau ba tháng
huấn luyện với sự dìu dắt trực tiếp của ông Minh, ông Hạnh được phong trung sỹ.
Trong chiến dịch Thoại Ngọc Hầu, truy quét quân Bình Xuyên năm 1956, ông Minh
bổ nhiệm ông Hạnh giữ chức tham mưu trưởng chiến dịch.
Ông Hạnh
có một người bác, nhưng nhỏ tuổi hơn ông, ông Nguyễn Tấn Thành – thường gọi là
Tám Vô Tư. Ông Nguyễn Tấn Thành “trụ” lại ở miền Nam, trong khi
con trai của ông, Nguyễn Tấn Phát23, được đưa ra miền Bắc. Mấy lần ông Tám Vô Tư bị chính quyền Sài Gòn bắt, ông Nguyễn Hữu Hạnh đều khéo léo sử dụng quyền lực
và các mối quan hệ để cứu ra. Khi ba của ông Nguyễn Hữu Hạnh mất, ông Hạnh muốn đưa về an táng ở quê lúc bấy giờ nằm trong vùng kiểm soát của quân Giải phóng, ông Tám Vô Tư lại đứng ra “dàn xếp”. “Ổng khéo lắm”, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại. Dần dần, ông Nguyễn Hữu Hạnh nhận ra bác mình, ông Tám Vô Tư, đang thực hiện một kế hoạch “binh vận” do ông Bảy Lương, tức Lê Quốc Lương24, phụ trách.
con trai của ông, Nguyễn Tấn Phát23, được đưa ra miền Bắc. Mấy lần ông Tám Vô Tư bị chính quyền Sài Gòn bắt, ông Nguyễn Hữu Hạnh đều khéo léo sử dụng quyền lực
và các mối quan hệ để cứu ra. Khi ba của ông Nguyễn Hữu Hạnh mất, ông Hạnh muốn đưa về an táng ở quê lúc bấy giờ nằm trong vùng kiểm soát của quân Giải phóng, ông Tám Vô Tư lại đứng ra “dàn xếp”. “Ổng khéo lắm”, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại. Dần dần, ông Nguyễn Hữu Hạnh nhận ra bác mình, ông Tám Vô Tư, đang thực hiện một kế hoạch “binh vận” do ông Bảy Lương, tức Lê Quốc Lương24, phụ trách.
Tướng
Nguyễn Hữu Hạnh tỏ ra hợp tác; tuy nhiên, ông khôn khéo từ chối lời đề nghị “ra
căn cứ dựng cờ sỹ quan yêu nước trong Mặt trận Giải phóng”, từ chối tham gia
lực lượng thứ ba, và từ chối tiếp xúc với “anh em Cách mạng”. Tướng Nguyễn Hữu
Hạnh nói với ông Tám Vô Tư: “Ông bị bắt, tôi cứu, tôi mà bị bắt không ai cứu
được”. Giữa năm 1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho Nguyễn Hữu Hạnh về hưu; ông
về Cần Thơ, gặp gỡ binh vận nhiều hơn nhưng vẫn không chịu “đi hẳn theo Cách
mạng”. Tuy nhiên, khi thế cờ đã gần như ngã ngũ, đặc biệt, khi thấy ông thầy
Dương Văn Minh nhảy ra chấp chính, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyết định nắm
lấy cơ hội cuối cùng.
Ông kể:
“Sáng 29-04-1975 tôi đến gặp ông Minh tại nhà riêng, văn phòng khi ấy vẫn còn ở
nhà ông, số 3 Trần Quý Cáp. Trung tướng Mai Hữu Xuân, phụ trách sự vụ nói với
tôi: Đại tướng bận họp, Chuẩn tướng chờ một chút. Ông Dương Văn Minh là một con
người kín đáo, trầm lặng, nhưng lúc này trên gương mặt ông cũng lộ rõ vẻ suy
nghĩ lo âu. Một sĩ quan tùy viên vào trình có Đại sứ pháp đến. Tôi sang phòng
bên để ông Minh và ông Huyền tiếp Mérillon nhưng vẫn nghe được tiếng của Đại sứ
Mérillon thông báo là Tổng trưởng Ngoại giao Pháp đã liên lạc với Hà Nội về vấn
đề thương thuyết, nhưng Hà Nội trả lời ‘Rất tiếc là đã quá trễ’.
Hai ông
Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu tiếp tục trao đổi sau khi Mérillon ra về. Họ quyết
định tuyên bố thả hết tù chính trị. Tôi hỏi ông Dương Văn Minh: ‘Thưa Đại
tướng, còn về tình hình quân sự ra sao?’. Ông Minh nói: ‘Toa là quân nhân không
đi xem còn hỏi gì?’ Là tổng tư lệnh quân đội, nhưng lúc bấy giờ ông Minh cũng
không nắm nổi tình hình mà còn phó thác cho Trung tướng Đồng Văn Khuyên phụ trách
mọi việc ở Bộ Tổng tham mưu. Tôi thấy lúc này cần phải nắm lấy việc chỉ huy
quân đội và tôi đoán thế nào ông Minh cũng trao việc này cho tôi. Tôi nói: ‘Tôi
về hưu rồi đi coi sao được. Đại tướng có cho quyền thì tôi mới đi’. Ngay
lúc đó ông Minh phái tôi đến Bộ Tổng Tham mưu xem xét tình hình quân sự”.
Ông Nguyễn
Hữu Hạnh chưa kịp về tới nhiệm sở thì Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên và
Tướng Nguyễn Văn Minh, tư lệnh Biệt khu Thủ đô, đã bỏ ra nước ngoài. Trung
tướng Vĩnh Lộc được cử giữ chức tổng tham mưu trưởng, Thiếu tướng Lâm Văn Phát
giữ chức tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tướng Vĩnh Lộc trao cho ông Nguyễn Hữu Hạnh
bộ đồ quân phục của một đại úy và cho ông cặp quân hàm chuẩn tướng. Chân ông
Hạnh đi giày quân sự nhưng đầu thì không mũ, Tướng Vĩnh Lộc nhìn, lắc đầu, chửi
thề rồi nói: “Bây giờ chúng nó chạy như chuột”.
Tình hình
ở Bộ Tham mưu rối ren, bế tắc. Theo Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, khi ông Minh gọi
Tướng Vĩnh Lộc tới nhà, cử ông làm tổng tham mưu trưởng, thì Tướng Vĩnh Lộc từ
chối: “Đại tướng giao cho Ngô Quang Trưởng đi, sớm nay tôi còn thấy nó ở Tổng
Tham mưu”. Quân đoàn I của Tướng Trưởng vừa bị đánh tan tác ở Huế và Đà Nẵng,
Tướng Trưởng vừa mới chạy tới Sài Gòn. Dương Văn Minh không đồng ý.
Nhân khi
ông Minh rời phòng khách, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh cố thuyết phục Vĩnh Lộc chấp
nhận. Tướng Vĩnh Lộc lên nắm quyền nhưng vẫn sắp xếp cho gia đình chuẩn bị “di
tản”. Ông Hạnh nhớ lại: “Cái chức ấy bao năm qua nhiều kẻ đã phải giành giật
nhau, vậy mà bấy giờ không ai muốn nhận nữa”.
Nguồn: https://read.amazon.com/?asin=B00AKAQUJA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét