Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2013

Hồn Của Phát Triển

BLOG CỦA KIM YẾN NGÀY THỨ SÁU 23 FEB 2013
SGTT Xuân 2013 – Quá trình phát triển vừa qua mới chỉ là gặt hái những gì dễ dãi, ngắn hạn, mà thiếu một cái hồn, Hồn của phát triển một triết lý, một nền tảng xuyên suốt lâu dài. Vậy đâu là cái hồn của phát triển cần vươn tới?
Rừng tự nhiên ở Tây Nguyên cơ bản 
không còn nữa. Ảnh: Phan Quang
 Bên cạnh một số thành quả đạt được qua hơn 25 năm đổi mới, con đường phát triển của đất nước những năm gần đây đối diện với nhiều thách thức nghiêm trọng: kinh tế vĩ mô ngày càng bất ổn, doanh nghiệp suy sụp và ngưng hoạt động hàng loạt. Giá cả không ngừng tăng khiến đời sống người dân ngày càng khó khăn. Tài nguyên khoáng sản, rừng bị khai thác cạn kiệt, môi trường sống ngày càng ô nhiễm nặng. Giáo dục, y tế khủng hoảng chưa thấy lối ra. Khoa học thiếu cơ chế để phát triển. Căng thẳng và bất an xã hội, những vụ khiếu kiện liên quan đến đất đai, đền bù giải toả ngày càng gay gắt trong khi việc thực thi các quyền lợi của người dân còn hạn chế. Văn hoá và đạo đức xã hội xuống cấp, niềm tin sụt giảm nghiêm trọng…
Tất cả cho thấy quá trình phát triển vừa qua chỉ mới là gặt hái những cái gì dễ dãi, ngắn hạn, trước mắt, mà thiếu một cái hồn, một triết lý, một nền tảng xuyên suốt, lâu dài. Vậy đâu là cái hồn của phát triển cần vươn tới để đất nước đi lên một cách vững bền? Đó là nội dung của toạ đàm Đi tìm cái hồn của phát triển, do báo Sài Gòn Tiếp Thị tổ chức, với sự góp mặt của các chuyên gia kinh tế, văn hoá, nhà nghiên cứu triết học, doanh nhân, nhân khởi đầu năm mới Quý Tỵ.

Phát triển bằng mọi giá
Lãnh tụ của phong trào dân chủ Myanmar Aung San Suu Kyi nói khi lần đầu tiên sau 24 năm đi ra khỏi Myanmar để dự hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới tổ chức tại Bangkok: “Myanmar không muốn bị áp đặt mô hình phát triển, dù chúng tôi cũng không muốn bị bỏ lại phía sau. Chúng tôi cần đầu tư, nhưng chúng tôi không cần thứ đầu tư sẽ đào sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo, cản trở người dân tiếp cận những lợi ích của cuộc cải cách. Tham nhũng sẽ đi liền với đầu tư, nên trước tiên, chúng ta phải quan tâm đến cải cách hệ thống pháp luật. Không phải thứ luật pháp sinh ra để dành quyền lợi cho một nhóm người, nên đừng chỉ suy nghĩ về luật đầu tư nước ngoài”. Phải chăng đó cũng là một triết lý phát triển, là cái hồn của phát triển mà bà mong muốn cho đất nước của mình?
Nhìn bức tranh tổng thể phát triển đất nước những năm qua, thấy rõ tăng trưởng kinh tế chủ yếu chạy theo số lượng, đổ thật nhiều vốn, kể cả vốn vay mượn để tạo thành tích tăng trưởng bằng mọi giá dù hiệu quả thực sự không bao nhiêu (thể hiện qua hệ số ICOR ngày càng cao, năng suất ngày càng giảm). Mặt nhân văn trong phát triển bị xem nhẹ, biểu hiện qua giáo dục, y tế, văn hoá, đạo đức xã hội khủng hoảng kéo dài. Đó là một sự phát triển thiếu một cái hồn, một triết lý nhất quán làm nền tảng cho mọi chủ trương chính sách.
Giống như trong giáo dục, bao lâu chưa tìm được triết lý giáo dục phù hợp, giáo dục vẫn sẽ mãi loay hoay với những “cải cách” hình thức, nửa vời, thiếu tính hệ thống; trong phát triển cũng vậy, bao giờ chưa tìm ra được cái hồn hay triết lý phát triển phù hợp, đặt trọng tâm vào con người, vào hạnh phúc cụ thể, thực sự của người dân thay vì vào những con số, vào thành tích bề nổi, chưa phân bổ công bằng thành quả của phát triển, thì chừng đó vẫn chưa phát huy được nội lực, tính sáng tạo, tính chủ động của các tầng lớp nhân dân, từ đó mới có phát triển bền vững.
Vậy, cái hồn của phát triển của Việt Nam là gì?
Sức trẻ là tài sản lớn nhất của dân tộc.
 Ảnh: Phan Quang
 Là người gắn bó máu thịt với Tây Nguyên, bằng những phân tích sắc sảo và thẳng thắn, nhà văn Nguyên Ngọc đã nhìn thấy những vấn đề của đất nước nói chung qua bài học Tây Nguyên. Ông khẩn thiết kêu cứu:
“Sau chiến tranh, xã hội Tây Nguyên vẫn còn nguyên, sức bền vững rất mạnh, nhưng khi bứng mất nền tảng vật chất làng và rừng, coi kinh tế động lực chỉ là khai thác tài nguyên, rừng tự nhiên cơ bản không còn nữa. Một ít khu bảo tồn còn sót lại nhưng chỉ là trang sức thôi, đã bị “móc” hết ruột bên trong. Chúng ta đã… băm nát Tây Nguyên.
Mỗi vùng kinh tế có chức năng của nó. Tây Nguyên là mái nhà cho toàn Đông Dương, là nơi để giữ nước. Mái nhà bị lở sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ đất nước. Tây Nguyên chi phối nước miền Đông và Tây Nam bộ. Rừng mất, nước mất, thuỷ điện băm nát hệ thống sông tự nhiên, nước ngầm tụt xuống 37m. Vấn đề Tây Nguyên phản ánh đậm nét nhất tư duy phát triển của chúng ta mười mấy năm qua. Từ kinh nghiệm ấy, phải dừng ngay tất cả mọi kế hoạch khai thác tận cùng tài nguyên. Phát triển phá vỡ tự nhiên theo nghĩa này cực kỳ nguy hiểm cho những vùng khác.
Khu vực Tây Nguyên rất đặc biệt, nhưng cũng chứa đựng những vấn đề rất chung cho phát triển kinh tế. Về cơ bản, xã hội Tây Nguyên trước năm 1975 là làng, nền tảng vật chất của làng là sở hữu đất và rừng, chưa có nơi nào vô chủ cả, tồn tại từ hàng ngàn năm, được hệ thống quản lý tập tục của làng bảo đảm. Sau năm 1975, chúng ta có hai chủ trương lớn về Tây Nguyên, đó là biến Tây Nguyên thành cứ địa vững chắc về an ninh, quốc phòng, và trở thành động lực phát triển kinh tế đất nước. Từ đó, chúng ta đã quốc hữu hoá toàn bộ đất và rừng, tiến hành cuộc đại di dân từ Bắc bộ và miền Trung lên Tây Nguyên. Mất đất và rừng, hệ thống làng sụp đổ, dẫn đến nhiều hệ quả khác. Trong lịch sử từng có những cuộc chuyển cư lớn, nhưng diễn ra nhiều thời kỳ tuần tự, nhưng cuộc tăng dân số rất nhanh, gấp năm lần dân số Tây Nguyên này không phải là tăng tự nhiên, làm đảo lộn cơ cấu dân cư, xã hội, dân tộc Tây Nguyên trở thành thiểu số, chỉ chiếm 15%. Dân số Tây Nguyên giờ có đủ 54 dân tộc! Tập quán canh tác hoàn toàn đảo lộn. Lấy đất làng cấp cho các binh đoàn làm kinh tế, cấp cho dân di cư, chúng ta không hề biết như vậy là cướp đất của các làng, cướp đất của dân Tây Nguyên… Người từ nơi khác đến nhìn rừng chỉ thấy gỗ, nhưng với người Tây Nguyên, rừng là toàn bộ đời sống của họ. Làng và rừng là một. Unesco trao danh hiệu di sản văn hoá Tây Nguyên không phải chỉ cho âm nhạc cồng chiêng, mà là không gian văn hoá cồng chiêng. Không gian là làng và rừng. Không còn làng và rừng là không còn Tây Nguyên. – Nhà văn Nguyên Ngọc
Từ bài học Tây Nguyên, đặt ra một vấn đề vô cùng hệ trọng, tất cả suy thoái, suy kiệt đó đã vượt ngưỡng chưa? Hay mấp mé ngưỡng? Liệu rừng có khôi phục lại được không? Rừng bị tàn phá nếu để nguyên có được tái sinh? Quá ngưỡng rồi. Trước đây, con người Tây Nguyên đường hoàng, tự chủ, cường tráng giữa thiên nhiên, giờ trở thành ngơ ngác, bơ vơ, hết sức thụ động”.
Buổi toạ đàm dành nhiều thời gian để phân tích câu chuyện về lúa gạo và người nông dân. Ông Nguyễn Ngọc Trung, tổng giám đốc công ty Vinh Phát, một trong những đơn vị dẫn đầu về xuất khẩu gạo cả nước, đã phân tích lý do vì sao Việt Nam xuất khẩu gạo nhất nhì thế giới, mà nông dân vẫn nghèo: “An Giang hiện có nhiều giống lúa cạnh tranh được với Thái Lan như giống lúa 4218, chất lượng lúa như nhau, nhưng cách nào giá mình vẫn thấp hơn Thái Lan vì bị cạnh tranh quá lớn. Nông dân mình giỏi lắm, đặt giống nào nông dân sản xuất được giống đó, nhưng do không thống nhất được giá bán, nên đời sống rất bấp bênh. Giá thị trường lúa gạo đang xuống, vai trò của Nhà nước trong việc định hình cho giá trị gạo Việt Nam không có, thả sức ai muốn kéo lưng ai xuống cũng được. Thái Lan phát triển được nhờ rất thống nhất giá bán, bảo đảm quyền lợi cho nông dân. Người Hàn Quốc có niềm tự hào riêng và không ai nắm lưng ai kéo xuống, người Nhật Bản cũng luôn giúp cho bạn hàng của mình. Do đặc tính dân tộc trong cả quá trình phát triển khiến văn hoá bị thui chột, nền văn hoá kém cỏi, không có chính sách giáo dục tốt để tăng lòng tự hào dân tộc trong làm ăn thời bình. Hồn dân tộc, hồn của hạt gạo phải là ý nguyện chung, từ cấp cao nhất. Chúng ta đã từng sát cánh bên nhau trước sự tồn vong của quốc gia, tại sao đất nước hoà bình, chúng ta lại không giữ được hồn mình?”
Quan trọng hơn cả: phát triển vì ai?
Đặt vấn đề thay đổi phải mang tính hệ thống, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan tiếp lời: “Anh Nguyên Ngọc đặt câu hỏi, liệu tất cả đã tới ngưỡng chưa? Tôi thấy về kinh tế, đã quá ngưỡng rồi, đòi hỏi phải từ bỏ hoàn toàn cái cũ. Nền kinh tế chỉ dựa vào khai thác tài nguyên, hoạt động kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước đập thẳng vào chủ trương lấy doanh nghiệp nhà nước làm chủ đạo, làm nòng cốt. Đó là điều không thể. Bất công trong phát triển cũng quá ngưỡng rồi. Phát triển phải vì đại đa số người dân, lấy lợi ích số đông làm nền tảng, không thể phát triển vì một nhóm rất nhỏ hưởng lợi. Muốn thay đổi, phải nhìn cả hệ thống. Nhưng thay đổi mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu kinh tế dường như vẫn làm theo cách cũ, vẫn củng cố hệ thống ngân hàng quốc doanh, doanh nghiệp nhà nước thì làm sao phát triển?”
Đề cập cụ thể hơn điều này, chuyên gia kinh tế Phạm Đỗ Chí cho rằng: “Việt Nam hiện nợ trên 100 tỉ USD, trong đó nợ công bao gồm nợ của doanh nghiệp nhà nước chiếm tới 55%. Hệ thống ngân hàng lãi ảo, tiền huy động của dân đã bị dùng để đổ vào bất động sản, vào vàng, ấy là chưa kể thâu tóm ngân hàng. Nền kinh tế cần tín dụng đồng hành với doanh nghiệp, nhưng với lãi suất kiểu này, doanh nghiệp không vay nữa, ngân hàng sẽ phá sản. Phải quan tâm đến nông thôn, nông dân thì mới tạo mãi lực từ bên trong cho phát triển lâu dài. Làm gì cho nông thôn phải được coi là mục tiêu chính của phát triển kinh tế, có như vậy mới đổi được bộ mặt nông thôn. Nghiên cứu sâu về mô hình cảnh báo sớm vĩ mô, tôi thấy cái khó nhất với các nhà kinh tế bây giờ là nhìn trước mặt, chúng ta không biết sẽ đi về đâu? Làm sao thấy được cái gì sẽ xảy ra để có thể phòng ngừa? Chúng ta vẫn tô hồng bức tranh kinh tế, mà quên đi tiềm năng khủng hoảng lớn, thậm chí còn nặng hơn cả Thái Lan hồi năm 1997″.
Ở Hàn Quốc, Thuỵ Điển, tổng thống có hẳn trang web công khai lịch làm việc từng tuần, nhờ đó dân có thể giám sát. Quan chức Thuỵ Điển cũng không được đi taxi, mà chỉ đi bộ, đi tàu điện. Sự ăn xài của các quan chức Việt Nam quá lãng phí, còn kéo nhau ra cả nước ngoài ăn xài, khiến cho chi tiêu công đội lên dữ dội. Mốt mới của ta bây giờ là lễ hội, thi hoa hậu nào cũng có quan chức đến, không biết việc đó thì có ích lợi gì cho người lao động? Phải có cơ chế giám sát. Không thể để quyền lực vô biên. Phải có một cơ chế giám sát quyền lực, tạo ra thể chế để người dân giám sát được các quan chức. Vấn đề kinh tế không thể giải quyết trong phạm vi kinh tế, mà dính đến cả chính trị, xã hội – tiến sĩ Lê Đăng Doanh.
Là một nhà công nghiệp, chủ tịch HĐQT công ty giấy Sài Gòn, ông Cao Tiến Vị, không chỉ ưu tư về doanh nghiệp mà còn về cây lúa, về người nông dân: “Với một đất nước, một doanh nghiệp, cái hồn rất quan trọng. Doanh nghiệp muốn phát triển bền vững phải có con người, đó là phần hồn của sản phẩm. Mỗi sản phẩm phải mang cái hồn, nếu không chỉ là xuất khẩu thô, giá rẻ mạt. Một dân tộc có truyền thống lúa nước mấy ngàn năm như Việt Nam rất dễ để xây dựng những sản phẩm lúa gạo có hồn, có trí tuệ, tính dân tộc trong đó. Nhưng cây lúa của chúng ta không có hồn, không có thương hiệu, không có tên Việt Nam. Phải làm sao tạo hồn cho hạt lúa Việt Nam mang ra thế giới”.
Cũng coi trọng việc xây dựng phần hồn cho doanh nghiệp và đất nước, ông Lý Ngọc Minh, tổng giám đốc công ty gốm sứ Minh Long 1, cho rằng: “Bất cứ đất nước nào được biết đến đều bắt đầu từ những sản phẩm đặc trưng của mỗi quốc gia. Một đất nước nhỏ, không hề có tài nguyên như Singapore cũng trở thành đất nước số một về dịch vụ tài chính, y tế, cảng biển… nhờ biết xây dựng thương hiệu, thổi hồn vào sản phẩm, dịch vụ của họ. Vậy Việt Nam có gì? Ai cũng nói vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long, càphê Tây Nguyên xuất khẩu nhiều, nhưng giá trị không cao. Phải thay đổi cả phần hồn và phần xác thì phát triển mới bền vững. Phần xác là cơ chế chính sách nhà nước, tạo điều kiện cho thương hiệu phát triển. Thương hiệu sản phẩm chủ lực chính là thế mạnh đất nước, làm nên câu chuyện thương hiệu đất nước. Không thể có đống cát nếu không có hạt cát.
Về phần hồn, nhà trường phải có những nhà giáo dục tốt mới đào tạo được những người yêu nước, chỉ có những người yêu nước mới làm ra những sản phẩm yêu nước. Truyền thông cũng phải kết hợp cùng ngành du lịch để quảng bá cho đất nước, quảng bá cho công chúng biết nhiều hơn những sản phẩm tốt của Việt Nam, tôn vinh những người có công với đất nước, làm nên những sản phẩm danh tiếng cho đất nước”.
Nhấn mạnh cái đạo của người dẫn đầu, ông Đỗ Duy Thái, tổng giám đốc công ty Thép Việt (Pomina) nói đầy cảm khái: “Tôi ấn tượng mạnh về câu chuyện Tây Nguyên của nhà văn Nguyên Ngọc, đó là câu chuyện của cả nước. Bệnh thành tích, bệnh hình thức không biết xuất phát từ đâu, nhưng đã dẫn đến cái chết của nhiều doanh nghiệp nhà nước và sự thụt lùi của đất nước. Không sử dụng đồng tiền một cách cân nhắc, gây lãng phí nghiêm trọng là thất bại của cả nền kinh tế. Diễn tả của anh Ngọc về hình ảnh người dân Tây Nguyên ngơ ngác làm tôi hết sức đau lòng. Nếu có điều kiện cơ chế tốt, chúng ta có thể phát triển. Là một nhà công nghiệp, để làm ra lợi nhuận, bản thân tôi cũng phải nỗ lực, kiềm chế bản thân rất lớn, vì tôi cũng mê đánh golf, nhưng trong giờ làm việc không cho phép, phải chơi sau giờ làm việc. Nhiều khi đuổi việc một người chỉ vì anh ta lấy mấy triệu đồng của công ty đi nhậu, để giữ kỷ cương, giữ cái hồn của tổ chức, dù trong lòng mình muốn khóc, vì anh rất giỏi. Người lãnh đạo là hình ảnh đại diện một đơn vị, muốn tạo ra cái hồn thì văn hoá người đứng đầu phải được coi trọng. Trong gia đình cũng vậy, người cha không tốt thì các con không thể có cái đạo để đi. Văn hoá lãnh đạo ảnh hưởng đến các đơn vị, gia đình, những người có ảnh hưởng càng phải có đạo của chính mình. Không có đạo của chính mình thì không thể điều hành tốt được”.
Đổ vỡ buộc phải đổi mới thực sự
Nói về mối liên quan giữa triết lý phát triển của cá nhân, gia đình, tổ chức và quốc gia, ông Giản Tư Trung, viện trưởng viện Nghiên cứu phát triển giáo dục (IRED) nhấn mạnh: “Một cá nhân muốn phát triển bền vững phải có triết lý sống, một gia đình muốn hạnh phúc dài lâu phải có gia đạo, một tổ chức hay một quốc gia cũng không thể có cái hồn để phát triển nếu tổ chức hay quốc gia đó không được dẫn dắt bởi những nhà lãnh đạo có tầm vóc văn hoá. Muốn tìm cái hồn cho phát triển, phải có triết lý phát triển. Triết lý phát triển là cái mà người ta cần nó như cái neo trong khủng hoảng và bệ phóng khi bình thường. Có một quan hệ chặt chẽ giữa triết lý cá nhân và triết lý của tổ chức, quốc gia. Gia đình cũng là một tổ chức, chưa bao giờ mà vấn đề gia đạo lại quan trọng như lúc này. Khi mà xã hội và nhà trường có quá nhiều bất trắc và biến loạn thì chỉ có gia đạo, gia phong mới có thể cứu được con trẻ. Đây là lúc mà chúng ta cần phải nghĩ nhiều về “cây roi gia pháp” thời toàn cầu hoá. Những đứa trẻ lớn lên trong gia đình có gia đạo tử tế sẽ rất khó hư hỏng. Khi nền tảng xã hội và hệ thống giáo dục lung lay như hiện nay, giá trị gia đình cũng bị ảnh hưởng, cần phải giữ cho được thành trì cuối cùng này.
Trong giáo dục, bao lâu chưa tìm được triết lý giáo dục phù hợp, giáo dục vẫn sẽ mãi loay hoay với những “cải cách” hình thức, nửa vời, thiếu tính hệ thống. Ảnh: Trung Dũng



Muốn thực thi triết lý phát triển quốc gia, muốn tái cấu trúc nền kinh tế, phải tái cấu trúc nền quản trị quốc gia để bảo vệ cho được những quyền cơ bản của con người, quyền cơ bản của công dân, để thực thi cho được công lý và công bằng… Những triết lý phát triển căn bản này trên giấy tờ nhắc đến thì rất nhiều, nhưng sự hiện hữu của nó trên thực tế thì sao? Vậy bây giờ khi nói về triết lý phát triển chúng ta trông chờ vào ai? Có thể trông chờ cái mới và sự thay đổi từ trên xuống, nhưng còn có một con đường nữa, đó là từ dưới lên, đó là “Thay đổi đến từ TÔI”. Khi mỗi người đều nghĩ vậy thì sẽ có sự thay đổi. Chuyện quốc gia khó bàn, nhưng ai cũng có tổ chức của mình, gia đình của mình. Hãy trông chờ vào bản thân mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi doanh nghiệp. Chẳng hạn, một người cha, người mẹ mất đi, có thể không để lại gia sản, nhưng để lại một gia đạo sâu dày, như thế là họ sống đến hai, ba trăm năm trong lòng các thế hệ con cháu của mình”.
Chỉ rõ những tiêu chí tạo dựng triết lý phát triển bền vững, tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói: “Chúng ta phải hội nhập, nhưng phải giữ hồn dân tộc mình, phải có những thương hiệu và công ty lớn đại diện cho quốc gia. Nếu không có thương hiệu không thể trỗi dậy. Thương hiệu Việt Nam phải được đại diện bằng chính thương hiệu doanh nghiệp. Hội nhập rộng rãi hơn nữa, càng phải tạo nên thương hiệu mạnh. Lòng yêu nước và tự hào dân tộc cũng là một triết lý phát triển. Muốn làm được, cần phải cải cách, tái cấu trúc thể chế, vì mô hình kinh tế sinh ra từ đó: mọi người đều khai thác tài nguyên. Một ông đốn gỗ trở thành giàu nhất Việt Nam nhờ đốn hết gỗ tài nguyên đất nước thì đóng góp gì cho đất nước? Một công ty tự xưng là tập đoàn công nghệ Việt Nam mà chủ yếu chỉ bán điện thoại di động, làm khu công nghệ cao thì chủ yếu bán đất nền… Phải đào sâu mô hình tăng trưởng dựa trên giá trị gia tăng, lực lượng kỹ thuật, không thể dựa trên khai thác tài nguyên. “Về cơ bản, Tây Nguyên là “xong” rồi, chữ “xong” anh Nguyên Ngọc dùng thật đau đớn!”
Ở Hàn Quốc, Thuỵ Điển, tổng thống có hẳn trang web công khai lịch làm việc từng tuần, nhờ đó dân có thể giám sát. Quan chức Thuỵ Điển cũng không được đi taxi, mà chỉ đi bộ, đi tàu điện. Sự ăn xài của các quan chức Việt Nam quá lãng phí, còn kéo nhau ra cả nước ngoài ăn xài, khiến cho chi tiêu công đội lên dữ dội. Mốt mới của ta bây giờ là lễ hội, thi hoa hậu nào cũng có quan chức đến, không biết việc đó thì có ích lợi gì cho người lao động? Phải có cơ chế giám sát. Không thể để quyền lực vô biên. Phải có một cơ chế giám sát quyền lực, tạo ra thể chế để người dân giám sát được các quan chức. Vấn đề kinh tế không thể giải quyết trong phạm vi kinh tế, mà dính đến cả chính trị, xã hội. Phải điều chỉnh một cách có ý thức thể chế chính trị để có thể điều tiết kinh tế vĩ mô. Quan trọng nhất phải dựa trên lợi ích dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết”.
Chưa bao giờ vấn đề gia đạo lại quan 
trọng như lúc này.Ảnh: Phan Quang
 Đổ vỡ buộc chúng ta phải đổi mới, không còn con đường nào khác. Nhà nghiên cứu triết học Bùi Văn Nam Sơn cho rằng: “Cái hồn dân tộc đã có sẵn từ hàng ngàn năm, làm sao cho hồn đó trở lại, khôi phục đất nước, coi cái hồn phát triển là hồn dân tộc, đó là bài toán mới mà chúng ta phải đi tìm. Không thể từ bỏ giấc mơ độc lập dân tộc và mục tiêu phát triển, phải vượt lên, đi theo con đường phát triển, nhưng không mơ mộng, không mạo hiểm. Myanmar đã hoàn toàn từ bỏ mô hình cũ với những tín điều, mà vẫn giữ vững độc lập dân tộc, nhờ đó họ bắt đầu phát triển. Đừng chèn ép tầng lớp tư sản dân tộc, phải công nhận họ là lực lượng phát triển xã hội. Chèn ép giai cấp tư sản dân tộc chỉ chuốc lấy thiệt hại thôi. Mặt khác, hồn phát triển của kinh tế, xã hội không phải là cái mơ hồ, phải thể hiện bằng những cái hữu hình, thấy được. Chỉ nhìn vào mũi giày của người dân còn thẳng thớm là biết chưa thể chinh phục dân tộc ấy được, vì nước đó còn kỷ cương lắm. Ngày hôm nay, người ta đề ra khái niệm “văn hoá chính trị”, văn hoá và chính trị là hai lĩnh vực tưởng chừng không hề dính dáng gì tới nhau giờ lại gắn với nhau mật thiết. Phải giải quyết mối quan hệ giữa văn hoá và chính trị, mối quan hệ giữa quyền lực và người dân, mới có cơ hội phát triển. Kinh nghiệm các nước, phát triển có lúc thăng, lúc trầm, phong độ nhất thời nhưng đẳng cấp thì bền vững. Đẳng cấp nằm ở đâu? Ít nhất phải giữ được những cứ điểm như kỷ cương và khung cảnh gia đình, vì nơi đó trực tiếp ảnh hưởng tới giáo dục con người. Những cứ điểm trực tiếp liên quan đến sự tồn tại của bản thân con người, ảnh hưởng đến an toàn về thân thể và phát triển văn hoá tinh thần, tình cảm như giáo dục, y tế, các cơ quan hành pháp, trị an… Những lĩnh vực đó mà không giữ được thì đừng nói gì đến phát triển. Phải tập trung cho thay đổi mô hình phát triển. Công nghiệp, nông nghiệp sẽ tự giải quyết nếu chúng ta giải quyết được mô hình phát triển”.
KIM YẾN (LƯỢC THUẬT)
http://www.gocnhinalan.com/blog-cua-alan-va-bca/hn-ca-pht-trin.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét