Việt gian trong lịch sử
Vua Lê Chiêu Thống: Tư liệu mâu thuẫn về ông - Chiêu Thống sinh sau, nhưng là Việt Gian xếp trên Ích Tắc. Tuy nhiên, số phận 2 người rất khác nhau. Nếu Trần Ích Tắc chỉ bị nhà Trần và hậu thế khinh miệt, nhưng được nhà Nguyên trọng vọng tới cuối đời, thì Lê Chiêu Thống khốn khổ hơn nhiều: sống khổ, chết nhục.
Điều lạ, là ông vua này bị ném đá tứ phía, từ trên ném xuống, từ dưới ném lên, từ cổ chí kim, từ bạn đến thù, từ sử sách tới tiểu thuyết… Chế độ phong kiến – như Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, nhà Thanh, rồi các cựu thần – đều bôi bác ông ở các mức độ. Rồi chế độ mới – sau 1945 – càng dùng hình ảnh ông để thóa mạ phe quốc gia. Đây là những tổ chức từng hoạt động cách mạng (chống Pháp) trên lãnh thổ Trung Quốc; rồi sau năm 1945 khi thất thế trước sức mạnh của Việt Minh lại chạy trốn sang đó. Điển hình là cụ Nguyễn Hải Thần và cứ tưởng chỉ mình cụ bị thế. Nhưng điều bất ngờ là ngay cả cụ Hoàng Văn Hoan (nguyên ủy viên Bộ Chính Trị) năm 1979 bị kết án tử hình (vắng mặt), được coi như hiện thân của vua Lê Chiêu Thống. Càng bất ngờ, chính các vị trước đây từng lên án cụ Hoàng Văn Hoan, nay lại bị ví von với ông vua này. Liệu có phải ông vua Việt gian này được nhiều người bắt chước?.
Buồn nhất trong số các ông vua cuối triều
Các vị vua cuối triều đều gánh chịu mọi tội lỗi “làm cho triều đại suy vong”. Bắt đầu từ vua Lê Ngọa Triều. Sau gần ngàn năm đến vua Lê Chiêu Thống là đau khổ nhất. Bởi lẽ, người đời chỉ tin vào vô số tư liệu “cùng chiều” về ông vua này – cứ như chúng tham chiếu hoặc sao chép của nhau – mà bỏ qua nguồn tư liệu trái chiều. Ví dụ, các sách lưu hành chính thức đều “cùng chiều” viết rằng… Thái hậu (mẹ vua) sang nhà Thanh “gào khóc” xin nhà Thanh xuất quân. Rồi, khi quân Tàu vào cõi, vua “đích thân” đem quan lại ra nghênh tiếp và đem trâu rượu ra khao”… Nhưng ngược lại, theo các tài liệu cá nhân (nhật ký, hồi ký, thơ cảm tác… của những người đi theo vua và theo thái hậu, như Nguyễn Huy Túc, Lê Quýnh, Trần Danh Án…) và văn bản chính thức trao đổi giữa các bên (nay còn lưu trữ) thì sự việc lại không phải như vậy.
Vài sự kiện liên quan
– Nạn nhân bi thảm của họ Trịnh. Họ Trịnh đã nhiều lần phế truất vua Lê, kể cả giết hại – nếu không vừa ý. Vậy thì, thái tử Duy Vĩ – cha của “bé” Duy Kỳ mới lên 6 (sau này là vua Chiêu Thống) – đã bị giết như vậy. Lên 6, vậy mà bị giam trong tù tới 11 năm, cùng 2 em trai và mẹ. Ra tù, do may mắn. Cũng do may, sau khi ra tù – vừa lúc Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc, thành công nhờ chiêu bài “phù Lê, diệt Trịnh”, rồi lấy công chúa Ngọc Hân – nhờ vậy Duy Kỳ được lên làm vua với sự tán thành của ông. Liệu có phải Nguyễn Huệ cần một ông vua non nớt?. Dân tình Bắc Hà khi đó rất sợ quân Tây Sơn (gọi là quân “man”, coi Huệ là “ông Ác”, còn Nguyễn Ánh là “ông Thiện” (hai vị tượng trong chùa). Huệ hết sức giữ ý và tự thấy chưa thể thâu tóm quyền lực. Thái độ Chiêu Thống căm ghét họ Trịnh (đốt phá phủ chúa) là có lý, không đáng trách như sách viết
– Kinh phí 1000 làng. Sau khi Nguyễn Huệ bị Nguyễn Nhạc ra tận Thăng Long “lôi tuột” vào nam, vua Lê Chiêu Thống chỉ còn quản lý một gia tài thảm hại. Kho tàng trống, ngân khố rỗng, không quân đội, triều đình lèo tèo, không nhân sự giúp việc… Trước đây, chúa Trịnh cho phép vua Lê thu thuế của 1000 làng, nhưng làng thời đó rất nhỏ, hay mất mùa, nên số tiền và thóc thu về chỉ đủ kinh phí cho cái triều đình tí hon chi phí vào những khoản không thể đừng. Thực lực như vậy, Chiêu Thống vẫn quyết gây dựng lại cơ đồ, nhưng sử sách cứ mô tả ông như người kém cỏi, thụ động, nhu nhược. Những bài thơ ông làm trong mọi hoàn cảnh không thừa nhận điều đó. Phải chăng, đây là cách quen thuộc của Sử Việt: Đề cao người thắng bằng cách hạ thấp kẻ bại? Biến chuyển xã hội quá nhanh, lại toàn là trái ý Chiêu Thống, có lúc ông đành dựa vào vào Nguyễn Hữu Chỉnh – bề tôi nhà Lê, nhưng đã đầu hàng Tây Sơn, nay đang mưu toan phản trắc Tây Sơn.
– Chạy thoát thân sau hơn một năm làm vua. Khi Vũ Văn Nhận ra Bắc trị tội Hữu Chỉnh, ông tự thấy liên lụy, phải bỏ chạy khỏi kinh đô, chỉ có lác đác tùy tùng đi theo, sống lẩn khuất trong dân, nay đây mai đó, chỉ lo bị bắt nộp cho Tây Sơn; lại còn lo cho mẹ, con và thân tộc không rõ phiêu bạt nơi đâu. Khi đó, đại gia đình ông và một số thành viên triều đình bị truy đuổi lên tận biên ải, liều mạng trốn sang đất Trung Quốc dù không có căn cước tùy thân, không có giấy phép nhập cảnh. Sự ghi chép của những vị tòng vong cho thấy tình cảnh bi đát, chỉ mong “không bị đuổi về nước là may”. Theo văn bản Lê Quýnh để lại đến nay, đám người thân cô này chỉ mong trú ngụ ít lâu rồi kiếm được mảnh đất ở Cao Bằng, được Trung Quốc hậu thuẫn để yên thân ít năm, rồi tìm cách khôi phục (giống nhà Mạc). Không có chuyện thái hậu khóc lóc xin viện binh. Tổng đốc Lưỡng Quảng (Tôn Sĩ Nghị) nắm lấy cơ hội lập công, đã dày công “sáng tác tình huống” báo cáo (sai) tình hình để vua Thanh chắc mẩm – nếu cử binh – sẽ chiếm được An Nam. Việc xuất quân đã nằm trong kế hoạch chứ không phải do nước mắt của một bà già, dù đó là thái hậu. Nhưng muốn chính danh (khỏi bị coi là xâm lược), Tôn Sĩ Nghị phải cử Lê Quýnh, Nguyễn Quốc Đống về nước lùng sục tìm vua bằng được (hơn một tháng mới tìm được), để vua chính thức “thỉnh” quân Thanh vào nước. Vua làm gì có “triều đình” mà kéo nhau tới đón đại quân trên đường đi? Lấy đâu ra ngân quỹ mà sắm sửa lễ nghi và trâu rượu để khao? Hoàng Lê Nhất Thống Chí bịa đến thế là cùng. Chỉ có điều khi cuốn tiểu thuyết này in ra, các nhân chứng (biết nó nói sai) đã chết từ lâu.
Tại sao bị ném đá tứ bề? Ném từ xưa tới nay
– Khi vua Chiêu Thống lên ngôi, quan hệ giữa vua Lê và chúa Trịnh đã “một mất, một còn”. Đả kích nhau bằng lời lẽ là quá lịch sự. Chỉ có điều cả hai bên không tồn tại đủ lâu để viết sử thóa mạ nhau thêm nữa.
– Nguyễn Huệ đang là con rể vua Hiển Tông, nay ông lên ngôi Hoàng Đế (trước khi ra Bắc đánh quân Thanh), cho nên phải cắt nghĩa vì sao không “phù Lê” (như trước đây) nữa. Nếu không dại gì nói xấu Hiển Tông, thì chỉ còn một cách: đổ lỗi cho Chiêu Thống “thấp tài, mỏng đức”, không đáng làm vua. Triều đình Tây Sơn đã giải thích với dân Bắc Hà đúng như vậy, nhưng nó không đủ thời gian viết Sử. Sau này, những người viết sử ca ngợi Tây Sơn (như cụ Hoa Bằng và nhiều vị khác) đã làm giúp Tây Sơn vượt mức cần thiết, vượt cả Ngô gia trong sách Hoàng Lê. Một số sử gia còn lấy nội dung tiểu thuyết làm… sử liệu
– Các chúa Nguyễn vẫn tự coi mình có sứ mệnh phù Lê, diệt Trịnh (giấy tờ, văn bản đều dùng niên hiệu nhà Lê). Cứ làm như, suốt 200 năm họ chỉ có một hoài bão phù Lê. Nhưng khi thu phục sơn hà, không thấy Nguyễn Anh bỏ công lùng sục tôn thất nhà Lê để… trả lại ngôi. “Tiện thể”, ông ngồi luôn vào ngai; lấy niên hiệu là Gia Long. Chỉ cần cắt nghĩa với thiên hạ và hậu thế: thời vận của nhà Lê đã hết, lỗi là do ông vua cuối cùng đớn hèn, bất tài, thiếu đức… Sử sách nhà Nguyễn đã khéo léo, nhưng ít cần che giấu, thực hiện đúng ý Gia Long.
Đánh giá
Bà mẹ nào cũng yêu con nhưng vẫn có thể – do dốt nát, bất cẩn, sai lầm – đã làm hại con; có khi tới mức phải đối mặt trước dư luận hoặc công lý. Mặt khác, cần công nhận có vô số cách yêu nước, tùy hoàn cảnh và điều kiện của mỗi người. Thật quái gở, chuyện độc quyền yêu nước và độc đoán đưa ra tiêu chuẩn yêu nước. Do vậy, Chiêu Thống yêu ngôi vua, yêu địa vị cao của dòng họ, nhưng có yêu nước?. Nhất là những người tòng vong, với lòng trung trinh vô hạn, với nguyện vọng gửi xương nơi quê nhà – cao cả nhất là Lê Quýnh – họ là những người trung quân, ái quốc – theo quan niệm và niềm tin đương thời. Khi bị giam trong ngục vì không chịu dóc tóc, thay đổi cách ăn mặc, ông nói một câu để đời: Đầu ta có thể chặt, nhưng tóc ta không thể cắt; da ta có thể lột, nhưng y phục ta không thể thay. Ngoài ra, họ rất đáng được thông cảm, trong đó có cả sự thông cảm với sai lầm: Quá tin vào lòng tốt của ngoại bang, dù cùng ý thức hệ (đạo nho).
Nhà Thanh xuất quân là mưu đồ tính trước, lợi dụng cơ hội khi Chiêu Thống lâm vào bĩ cực. Dẫu vậy, trước hết vua Lê Chiêu Thống vẫn phải chịu trách nhiệm về việc ông sơ xuất trong bức thư gửi Tôn Sĩ Nghị (sau khi Sĩ Nghị cho người lùng ra nơi ông trốn) để quân Tàu kiếm được danh nghĩa vào nước ta. Đây là cuộc xâm lược đúng nghĩa, nhưng sự phá phách và tội ác của giặc bị hạn chế đến tối thiểu là nhờ tài dùng binh “như thần” của Quang Trung. Đây là tình tiết giảm án cho bị cáo. Chuyện vua Chiêu Thống phải chạy theo Sĩ Nghị là đương nhiên – không phải cố tình theo giặc, mà do sợ chết trong đám loạn quân. Sang đến Tàu, ông vẫn còn vật nài nhà Thanh cứu giúp, khi biết bị lừa, ông chỉ còn nguyện vọng sau này đưa xương cốt về đất Việt. Như thế, ông có yêu đất Việt không?
Khi xử án vua Chiêu Thống, quan tòa (mỗi chúng ta) chỉ cần:
a- đủ thông tin để tái hiện sự thật khách quan; tránh bị ảnh hưởng của nhưng ý kiến thiên lệch, do tình cảm chi phối, hoặc do chưa sử dụng lý trí xét đoán;
b- dựa vào quan niệm và niềm tin của xã hội đương thời;
c- đặt mình vào hoàn cảnh bị cáo, để hiểu tâm lý và cắt nghĩa hành động cả bị cáo;
d- coi sự tồn vong của dân tộc là tối thượng.
(còn tiếp)
http://nghiencuulichsu.com/2015/04/25/viet-gian-trong-lich-su-phan-4/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét