Việt gian trong lịch sử
Đã bàn về 2 “đấng” Kiều Công Tiễn và Ngô Nhật Khánh, xin bàn tiếp về bản án lịch sử đã tuyên với Trần Ích Tắc từng bị coi là Việt gian cỡ đại. Xin nói ngay, “Việt gian” không phải từ ngữ do ta sáng tạo, mà nó bắt nguồn từ “Hán gian” để nói về những người Tàu đã cộng tác với quân Nhật khi chúng xâm lược Trung Quốc (1937-1945). Còn “bán nước” cũng vậy, nó dịch sang tiếng Việt từ thành ngữ Tàu “mãi quốc, cầu vinh”.
Nhắc lại nguyên tắc “xét xử”:
– Suy đoán có lợi cho bị cáo, nếu chứng cứ đòi hỏi sự suy đoán.
– Không dùng quan điểm thời nay phê phán các nhân vật thời xưa. Không dùng quan điểm của phe này để lên án phe đối địch – nhất là trong nội chiến.
– Chỉ xét hành vi “bán nước” đúng nghĩa. Từ năm 1945 đã lên án Phạm Quỳnh “bán nước” (đến nay chưa cải chính), khốn nỗi nước đã mất trước khi cụ Phạm sinh ra.
– Sử dụng Lịch Sử như một môn khoa học; không lợi dụng Lịch Sử để làm chính trị.
Dưới đây, thử vận dụng các nguyên tắc với ông Kiều Công Tiễn.
Đại Nam Quốc Sử diễn ca (thời Nguyễn) lên án Kiều Công Tiễn “giết cha”; Trần Ích Tắc “đầu hàng giặc”, mà không (thèm) nhắc gì tới Ngô Nhật Khánh, lại còn tỏ ra thông cảm với tình cảnh Lê Chiêu Thống. Xin đọc đoạn trích có 4 câu về Kiều Công Tiễn.
Dương Đinh Nghệ lại báo thù,
Đuổi người Hán, lĩnh châu phù vừa xong.
Nghĩa nhi gặp đứa gian hùng,
Kiều Công Tiễn lại nỡ lòng sao nên?.
Đuổi người Hán, lĩnh châu phù vừa xong.
Nghĩa nhi gặp đứa gian hùng,
Kiều Công Tiễn lại nỡ lòng sao nên?.
Dương công xưa có rể hiền,
Đường Lâm hào hữu: tên Quyền họ Ngô.
Vì thầy, quyết chí phục thù,
Nghĩa binh từ cõi Ái châu kéo vào.
Hán sai thái tử Hoằng Thao,
Đem quân ứng viện toan vào giúp công.
Bạch Đằng một trận giao phong,
Hoằng Thao lạc vía, Kiều công nộp đầu.
Đường Lâm hào hữu: tên Quyền họ Ngô.
Vì thầy, quyết chí phục thù,
Nghĩa binh từ cõi Ái châu kéo vào.
Hán sai thái tử Hoằng Thao,
Đem quân ứng viện toan vào giúp công.
Bạch Đằng một trận giao phong,
Hoằng Thao lạc vía, Kiều công nộp đầu.
Đoạn trên nói Công Tiễn là “nghĩa nhi” (con nuôi) của Đình Nghệ, vì giết cha nuôi mà phải “nộp đầu”. Diễn Ca chỉ lên án có vậy, mà không nói gì về tội phản bội quyền lợi dân tộc (đây mới thật là trọng tội). Nhưng, như đã phân tích, 1) Kiều Công Tiễn không thể là con nuôi của Dương Đình Nghệ. Kiều thuộc dòng dõi thế gia nhiều đời; là hào trưởng kiêm thứ sử châu Phong không thể bỏ nhiệm sở và căn cứ địa mà lặn lội vào tận châu Ái để làm con nuôi cho một vị (cũng) hào trưởng, (cũng) kiêm thứ sử châu này… và cam phận đứng lẫn lộn trong đám 3000 con nuôi “láo nháo” của ông này. Không thể dễ dãi mà tin rằng ông này là con nuôi ông kia. Như vậy, Công Tiễn phạm tội “giết” nhưng không phải là “con giết cha”, khiến án thêm nặng. 2) Mặt khác, cách đây trên ngàn năm, vùng đất mà hôm nay ta quen gọi là “nước ta” thực ra – nếu đúng nghĩa – vẫn chưa phải là “nước ta” trên thực tế và trong quan niệm chung thời ấy (ý thức dân tộc chưa đủ cao). Quyền tự chủ (thấp hơn mức độc lập) mà vẫn chưa giành lại trọn vẹn thì khái niệm “bán nước” chưa thể định hình và sáng rõ như hôm nay. Hồi đó, dân ta đang đứng trước nguy cơ bị đồng hóa, cái hồn Việt chưa giữ nổi, hỏi còn cái gì mà “bán”? Do vậy, thời ấy chuyện “bán nước” chưa nghiêm khắc như bây giờ. Hãy nhẹ án với Công Tiễn. Nếu dùng quan điểm năm 2015 để xử thì ông này đáng tử hình bằng tiêm 2 liều thuốc độc; nhưng dùng quan điểm thời ông sống, chỉ nên xử ông bằng 1 liều thôi. Nói thế để người khe khắt nhất với ông cũng hài lòng.
Diễn Ca có đoạn, trong đó câu cuối kết tội Trần Ích Tắc “đầu hàng”:
Bạch Đằng một cõi chiến tràng
Xương bày trắng đất, máu màng đỏ sông.
….. (nhảy cách một số câu)
Xương bày trắng đất, máu màng đỏ sông.
….. (nhảy cách một số câu)
Trần Bình Trọng cũng là trung,
Đành làm Nam quỷ, không lòng Bắc vương.
Khuyển ưng còn nghĩa đá vàng,
Yết Kiêu, Dã Tượng hai chàng cũng ghê!
Mà trong ngọc diệp kim chi,
Lũ Trần Ích Tắc sao đi đầu hàng?
Đành làm Nam quỷ, không lòng Bắc vương.
Khuyển ưng còn nghĩa đá vàng,
Yết Kiêu, Dã Tượng hai chàng cũng ghê!
Mà trong ngọc diệp kim chi,
Lũ Trần Ích Tắc sao đi đầu hàng?
Hành vi của Trần Ích Tắc được ghi lại bằng hai nguồn sử liệu chủ yếu: An Nam Chí Lược của Lê Trắc (người cùng thời) và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (phát hành năm 1697, sau khi Ích Tắc đầu hàng 400 năm).
Trong hoàn cảnh quân Mông Cổ hùng mạnh, tiến nhanh như bão và tàn bạo khét tiếng, lại “đông như quân Nguyên”… thì số lượng nhân vật quan trọng (do sợ chết) chọn cách đầu hàng giặc là không thấp. Khi chiến thắng, quân ta thu được một hòm “đơn xin hàng” của tôn thất và quan lại nhà Trần gửi tới đại bản doanh Thoát Hoan. Đó là những người sẵn sàng nộp mình, một khi quân Nguyên đánh tới. Thật khó ước lượng một “hòm” chứa được bao nhiêu lá đơn xin hàng… nhưng số “đồng chí chưa bị lộ” này không thể nhỏ – về sau được Thượng Hoàng lờ đi. Còn số đã lộ mặt – tức là đã thực hiện hành vi – lại không nhiều lắm, nhưng bị trừng trị rất nặng – trong đó người có phẩm tước cao nhất là Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, ngoài ra còn Trần Kiện, Trần Lộng, Lê Trắc… Sau này, Lê Trắc viết bộ An Nam Chí Lược (khi sống lưu vong trên đất Trung Quốc), trong đó có một đoạn ngắn nói tới Trần Ích Tắc, đại ý là:Năm 1284 vua ta (Nguyên) sai Thoát Hoan tiến tới biên giới, vua An Nam kháng cự, bị thua, chạy. Em là Trần Ích Tắc quy thuận, vua thương tình phong là An nam Quốc Vương…
Đại Việt Sử Ký cũng viết: “Đến nay, người Nguyên vào cướp, Ích Tắc xin hàng chúng để mong làm vua. Người Nguyên phong là An Nam Quốc Vương. Sau khi người Nguyên thất bại, Ích Tắc lòng hổ thẹn, chết ở đất bắc“.
Đương thời xử tội
– Hãy xem nhà Trần xử Trần Di Ái: Năm 1281, nhà Nguyên đòi vua ta sang bệ kiến, vua lấy cớ “bị tật” cử chú là Trần Di Ái đi thay. Hai lần như vậy, nhà Nguyên bảo: Nếu vua có tật thì để Di Ái lên thay và cho Sài Thung đem 1000 quân đưa Di Ái về nước. Ta phục kích ở biên giới khiến Di Ái hoảng sợ, quay lại Tàu. Cũng năm đó, Di Ái về nước, bị xử tội “đồ” (làm lính). Vậy Di Ái mắc tội gì? Đầu hàng? Chả phải, được cử đi sứ, đâu phải tìm đến quân Nguyên để đầu hàng? Đường đường là vị sứ giả, nhưng nếu không nghe lời vua Nguyên thì mất mạng tức khắc. Chuyện giết sứ giả không hiếm. Phản bội? Đâu có! Ông chỉ mong về nước và thực tế đã về nước. Thà chịu tội trong nước còn hơn sống lưu vong. Bán nước? Cũng chả phải, nếu ta đối chiếu với định nghĩa. Té ra, tình huống thế này. Khi được nhà Nguyên cử làm vua An Nam, không nhận thì khó sống ngay tại chỗ; còn cứ nhận sẽ khó sống khi về nước. Nhà Nguyên đưa ông về nước bằng 1000 quân, làm sao an toàn tính mạng khi trong nước đã chuẩn bị nghênh chiến với 30 hoặc 50 vạn quân giặc? Tóm lại, tội của Di Ái là sợ chết. Ai cũng sợ chết, đó là quyền. Nhưng với cương vị đại diện cho nước nhà, Di Ái không có quyền sợ chết. Điều này sứ giả phải tự khẳng định khi nhận sứ mệnh sang triều đình kẻ thù. Nhiều vị sử giả đã không làm nhục mệnh vua. Đầy Di Ái làm lính, liệu ông có “cải tạo” để hết sợ chết?
Xử Trần Ích Tắc. Những quan chức hàng giặc đeeuf bị án tử hoặc tù đầy (nhiều người bị xử vắng mặt), tịch thu gia sản, tước hết danh vị và nếu là tôn thất: con cháu phải đổi sang họ khác. Thế là rất nặng. Nhưng với Ích Tắc thì khác, vì ông nhận vai “An Nam Quốc Vương” mà giặc muốn ông đóng. Thực ra, khi chưa có giặc, Ích Tắc không bị ai phàn nàn gì về lòng đố kỵ, hoặc tỏ ra thèm khát ngôi vua. Trình độ học vấn thâm thúy (nho học), ông tự thấy mình (con thứ) không có số mạng làm vua, và đoạt ngôi là tội tru di. Đương thời, ông được ca ngợi về sở học, văn chương, tài hoa và rất ham khuyến học. Ông đầu hàng trước hết vì sợ chết – như nhiều người khác. Ông thuộc nhóm “các đồng chí bị lộ”. Nhưng khi nhà Nguyên trọng đãi ông và đem chức An Nam Quốc Vương ra dụ, ông đã nhận. Một nguyên nhân là ông tin rằng Mông Cổ sẽ chiếm được nước ta, và từ đó ông thành phản bội. Ông bị trị tội đúng như những người khác, nhưng con cháu ông không bị đổi họ. Thật sự có tài, có phẩm cách cá nhân, biết xấu hổ, nên con đường tiến thân của ông bên triều Nguyên rất hanh thông (tước vương) và thọ tới 75 tuổi. Nhưng tên ông vĩnh viễn nằm trong danh sách những người phản bội mà Lịch Sử nước ta đã ghi lại.
Dự đoán
Một khi nước ta còn phải bảo vệ nền độc lập, Trần Ích Tắc còn phải “sống”, sống lâu (trong sách Sử) để chịu sự khinh miệt, nguyền rủa – như một tấm gương xấu.
Phải đến khi có “thế giới đại đồng”, mọi dân tộc hòa đồng (1 người Việt hòa đồng với 13 đồng bào Trung Quốc), cùng nói một thứ ngôn ngữ (xác xuất rất cao là tiếng Trung), chúng ta mới cho phép ông này được “chết”.
Đấu tranh cho “thế giới đại đồng” hẳn là mạnh nhất ở Trung Quốc – trong số các nước chung lý tưởng hiện nay.
http://nghiencuulichsu.com/2015/04/22/viet-gian-trong-lich-su-phan-3/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét