Thứ Bảy, 22 tháng 12, 2012

(2) Quan hệ Sô – Trung và cuộc xung đột Trung – Việt năm 1979

Bài dài, lưu để nghỉ Noel đọc:

Quan hệ Sô – Trung và cuộc xung đột Trung – Việt năm 1979

Ngô Bắc Gió-O
Cuộc Chiến Tranh Trung Quốc – Việt Nam Năm 1979
Các lực lượng Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam hôm 17 Tháng Hai năm 1979.  Mặc dù các động lực xác thực nằm dưới cuộc tấn công của Trung Quốc vẫn còn được mở ngỏ cho sự giải thích, mối quan ngại của Bắc Kinh rằng hiệp ước phòng thủ hai mười lăm năm của Mạc Tư Khoa với Hà Nội có thể dẫn dắt đến việc quân sự hóa của Sô Viết vùng biên giới Trung Quốc – Việt Nam chắc chắn đã là một yếu tố quan trọng; Mạc Tư Khoa có thể cũng đã hy vọng rằng bản hiệp ước của nó với Hà Nội sẽ làm chuyển hướng các bộ đội Trung Quốc khỏi miền bắc, do đó làm suy yếu sự phòng thủ quân sự của Trung Quốc dọc theo biên giới Trung Quốc – Sô Viết.

Tuy nhiên, các hy vọng của Mạc Tư Khoa đã bị tan tành khi Bắc Kinh quyết định tiến đánh Việt Nam.  Chỉ sau ba tuần lễ giao tranh, Trung Quốc đã triệt thoái và các tranh chấp trên biên giới Trung Quốc – Việt Nam vẫn còn chưa được giải quyết.  Đối với phần lớn các người bên ngoài, hành động quân sự của Trung Quốc chính vì thế rõ ràng là một sự thất bại.  Nhưng nếu mục đích thực sự đàng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là nhằm bộc lộ các sự bảo đảm của Sô Viết về sự ủng hộ quân sự cho Việt Nam là một sự dối trá, khi đó sự từ khước của LBSV để can thiệp đã chấm dứt một cách hữu hiệu bản hiếp ước phòng thủ Sô Viết – Việt Nam.  Chính vì thế, Bắc Kinh đã đạt được một thắng lợi chiến lược rõ ràng bằng việc phá vỡ sự bao vây của Sô Viết và bằng việc loại trừ sự đe dọa của Mạc Tư Khoa về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trân.

Vào ngày 15 Tháng Hai, 1979, không chỉ là ngày đánh dấu 29 năm sự thỏa thuận của họ Mao và Stalin về Mông Cổ mà còn là ngày đầu tiên mà Trung Quốc có thể chính thức loan báo sự chấm dứt bản Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Sô Viết – Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã tuyên bố rằng Trung Quốc đã hoạch định để thực hiện một cuộc tấn công hạn chế đánh Việt Nam.  Để ngăn cản sự can thiệp của Sô Viết nhân danh Việt Nam, họ Đặng đã cảnh cáo Mạc Tư Khoa trong ngày kế đó rằng Trung Quốc đã chuẩn bị một cuộc chiến tranh toàn diện chống lại LBSV; trong sự chuẩn bị cho cuộc xung đột này, Trung Quốc đã đặt toàn thể binh sĩ của nó dọc theo biên giới Trung Quốc – Sô Viết vào sự báo động chiến tranh khẩn cấp, thiết lập một bộ chỉ huy quân sự mới tại Tân Cương, và còn cho di tản khoảng 300,000 thường dân ra khỏi biên giới Trung Quốc – Sô Viết (Chang Pao-min, Kampuchea Between China and Vietnam (Singapore, Singapore University Press, 1985), 88-89).
Ngoài ra, khối các lực lượng ứng chiến của Trung Quốc (nhiều đến nửa triệu binh sĩ) được đồn trú dọc biên giới của Trung Quốc với LBSV. (Robert A. Scalapino, “Asia in a Global Context: Strategic Issue for the Soviet Union”, trong sách biên tập bởi Richard H. Solomon và Masataka Kosaka, The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA, Auburn House Publishing Company, 1986), 28).
Như hứa hẹn, cuộc tấn công quân sự của Trung Quốc đánh Việt Nam khởi sự hôm 17 Tháng Hai, 1979, trong vòng ba ngày kỷ niệm lần thứ 29 bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950.  Như họ Đặng đã loan báo, ngay từ bước khởi đầu Trung Quốc đã thực hiện một hoạt động hạn chế chống lại Việt Nam.  Không chỉ nhiều binh sĩ thiện chiến nhất của Trung Quốc được đồn trú dọc biên giới Trung Quốc – Sô Viết, Bắc Kinh còn quyết định không điều động khoảng 500 chiến đấu cơ và oanh tạc cơ mà nó đã cho đồn trú trong khu vực.  Để đáp ứng lại cuộc tấn công của Trung Quốc, LBSV đã phái vài tàu hải quân và khởi sự một cuộc không vận vũ khí Sô Viết sang Việt Nam.  Vào ngày 22 Tháng Hai 1979, Đại Tá N. A. Trarkov, tùy viên quân sự Sô Viết, tại Hà Nội, còn đe dọa rằng LBSV sẽ “thi hành các trách vụ của nó chiếu theo bản hiệp ước Sô Việt – Việt Nam”; tuy nhiên, ở các nơi khác, các nhà ngoại giao Sô Viết có nói rõ rằng LBSV sẽ không can thiệp chừng nào cuộc xung đột vẫn còn được hạn chế.  (John Blodgett, “Vietnam: Soviet Pawn or Regional Power?”, trong sách biên tập bởi Rodney W. Jones và Steven A. Hildreth, Emerging Powers Defense and Security in the Third World (New York, Praeger Publishers, 1986), 98).  LBSV rõ ràng không có ý định mạo hiểm vào một cuộc chiến tranh toàn diện với Trung Quốc vì Việt Nam.
Sau ba tuần lễ giao tranh dữ dội, Trung Quốc có thể tuyên bố rằng nó đã chiếm đoạt được ba trong sáu tỉnh lỵ của Việt Nam – Cao Bằng, Lạng Sơn, và Lào Cai – nằm giáp ranh với Trung Quốc.  Mặc dù các lực lượng Trung Quốc có tổng số hơn một phần tư triệu quân, phía Việt Nam đã dùng các chiến thuật để cướp đi một thắng lợi mau chóng của phía Trung Quốc.  Khi Bắc Kinh loan báo ý định của nó để triệt thoái các bộ đội của nó hôm 5 Tháng Ba, 1979, vì thế, rõ ràng là các mục đích chủ yếu của cuộc tấn công này vẫn chưa đạt được; tức, tiềm năng quân sự của Việt Nam chưa bị tổn hại nghiêm trọng bởi Trung Quốc.  Từ đó về sau, biên giới Trung Quốc – Việt Nam vẫn còn căng thẳng khi, sau chưa đầy ba tuần lễ giao tranh, Trung Quốc triệt thoái khỏi Việt Nam.
Đối với nhiều quan sát viên bên ngoài, điều rõ ràng rằng cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam đã là một sự thất bại trọn vẹn và tổng quát.  Nhưng như tác giả Banning Garrett đã nhận xét một cách chính xác, “phía Trung Quốc đã chứng tỏ rằng họ đã có thể tấn công một đồng minh của Sô Viết mà không có sự trả đũa từ “con gấu bắc cực bằng giấy”.  (Banning Garrett, “The Strategic Triangle and the Indochina Crisis”, trong sách biên tập bởi David W. P. Elliott, The Third Indochina Conflict (Boulder, CO, Westview Press, 1981), 212).
Trong thực tế, bằng việc chứng minh rằng LBSV sẽ không tích cực can thiệp nhân danh Việt Nam, Trung Quốc vững tin rằng sự chấm dứt của nó bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 cũng sẽ không dẫn đến chiến tranh.  Kết quả, vào ngày 3 Tháng Tư, 1979, Bắc Kinh đã loan báo các ý định của nó nhằm chấm dứt bản Hiệp Ước Thân Hữu, Liên Minh và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Trung Quốc – Sô Viết năm 1950.  Từ đó về sau, mặc dù các cuộc thương thuyết giữa Trung Quốc và Sô Viết được mở ra một cách chính thức trong Tháng Mười 1979, cuộc xâm lăng của Sô Viết vào A Phú Hãn đã mang lại cho Trung Quốc một duyên cớ để bãi bỏ các cuộc họp tương lai, theo đó loại trừ bất kỳ nhu cầu tức thời nào để thương thảo một hiệp ước ngoại giao mới giữa Trung Quốc và Sô Viết.
Bởi vì các động lực đích thực nằm dưới cuộc xâm lăng năm 1979 của Trung Quốc vào Việt Nam vẫn chưa được rõ, các học giả nghiên cứu cuộc xung đột này đã đề xướng ra nhiều lý thuyết vững chắc khả tín.  Có lẽ lý thuyết thông thường nhất rằng Trung Quốc mong muốn “trừng phạt” Việt Nam vì việc xâm lăng Căm Bốt, một khu vực trước đây đã từng được xem là một nước triều cống đối với đế quốc Trung Hoa.  Các vấn đề khác giữa Trung Quốc – Việt Nam, chẳng hạn như các sự tranh chấp lãnh thổ tại Quần Đảo Trường Sa và cuộc di cư ồ ạt của dân gốc Hoa từ Việt Nam, cũng đã được phác họa như có đóng giữ một vai trò quan trọng.  Tuy nhiên, điều khả tín nhất là một số tương đối nhỏ các nhà học giả đã lập luận rằng quyết định của Việt Nam để phát huy các quan hệ gần gủi hơn với LBSV đã là lý do chính yếu đàng sau cuộc tấn công của Trung Quốc.
Trong số các học giả này, các người đã nêu giả thuytết rằng các hành động của Trung Quốc là một sự đáp ứng đối với bản hiệp ước phòng thủ Sô Viết – Việt Nam ngày 3 Tháng Mười Một 1978, đã có một loạt rộng lớn các sự giải thích về việc liệu chính sách của Trung Quốc đã là một sự thành công hay thất bại.  Thí dụ, theo tác giả Gerald Segal, chính sách của Trung Quốc đã thất bại bởi vì nó đã không đặt bản hiệp ước phòng thủ Sô Viết – Việt Nam vào sự “trắc nghiệm tối hậu”.  Tác giả Robert Ross cũng đã kết luận rằng chính sách của Trung Quốc là một sự thất bại, mặc dù ông tích cực hơn Segal bằng việc cho rằng cuộc chiến tranh Trung – Việt là lần đầu tiên kể từ năm 1949 mà Trung Quốc đã sử dụng vũ lực khi lãnh thổ của nó không bị đe dọa một cách trực tiếp, chính vì thế chứng tỏ rằng Trung Quốc giờ đây có khả năng để “hành động như một quyền lực cấp vùng với các quyền lợi cấp vùng”.  Sau cùng, tác giả Banning Garrett và Nayan Chanda thì tích cực hơn, ít nhất công nhận các lời tuyên bố của Trung Quốc rằng cuộc chiến tranh Trung – Việt dở dang đã là một sự thành công bởi nó chứng tỏ rằng LBSV là một “con gấu bắc cực bằng giấy”vì Mạc Tư Khoa từ khước không thi hành các nghĩa vụ theo hiệp ước của nó nhân danh Hà Nội.
Có lẽ quan điểm tích cực nhất về cuộc xung đột Trung – Việt đến từ tác giả Chang Pao-min.  Theo tác giả Chang, khi người ta cứu xét cuộc xung đột này từ một quan điểm của Bắc Kinh, khi đó bản hiệp ước phòng thủ Sô Viết – Viết Nam năm 1978 đã là một sự đe dọa rõ ràng đến an ninh của Trung Quốc.  LBSV đã không chỉ hy vọng sử dụng hiệp ước này để dựng lên một “Hệ Thống An Ninh Tập Thể Á Châu” nhắm vào Trung Quốc, nhưng các quan hệ quân sự của nó với Việt Nam được mô tả như một mưu toan để “đe dọa và nỗ lực nhằm trói buộc Trung Quốc từ phía nam”; trong khía cạnh này, Việt Nam được mô tả trong các lời tuyên bố sau này của Trung Quốc như là “con dao mà Liên Bang Sô Viết kề sau lưng Trung Quốc”.  Do đó, như tác giả Chang nhận xét, cuộc xung đột Trung – Việt phải được nhìn như một phản ứng trước mưu toan của Liên Bang Sô Viết muốn dùng Việt Nam “để ngăn chặn và bao vây Trung Quốc tại Đông Nam Á … [chính vì thế đặt ra] một sự đe dọa nghiêm trọng cho cạnh sườn phía nam của Trung Quốc”.
Các lập luận trình bày trong bài viết này có khuynh hướng ủng hộ quan điểm rằng cuộc chiến tranh Tháng Hai 1979 của Trung Quốc với Việt Nam đã là một sự thành công.  Một khi Bắc Kinh tin tưởng rằng Mạc Tư Khoa sẽ không can thiệp nhân danh Hà Nội, điều này khiến cho Bắc Kinh mạnh dạn để đoạn tuyệt hoàn toàn với Mạc Tư Khoa; sự đoạn tuyệt này có thể nhận thấy rõ nhất trong lời loan báo hôm 3 Tháng Tư 1979 của Bắc Kinh rằng nó có ý định chấm dứt bản Hiệp Ước Sô Viết – Trung Quốc năm 1950.  Như bằng chứng cuối cùng rằng các chính sách của Trung Quốc tại Việt Nam được nối kết một cách rối rắm với LBSV, tác giả Amers đã ghi nhận nhận một cách xác thực rằng quyết định năm 1988 của Trung Quốc về việc gỡ bỏ các quan hệ biên giới của nó với Việt Nam ra khỏi vấn đề Căm Bốt tuơng ứng gần như chính xác với các nỗ lực của Gorbachev nhằm bình thường hóa các quan hệ với Trung Quốc và cải thiện các quan hệ của LBSV với các quốc gia thuộc khối ASEAN.  Chính vì thế, bằng việc phá vỡ sự bao vây của Sô Viết và loại trừ được mối đe dọa của Mạc Tư Khoa về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận, Trung Quốc đã đạt được một thắng lợi chiến lược quan trọng đối với LBSV.
LBSV Có Phải Là “Con Gấu Bắc Cực Bằng Giấy”?
Các học giả Tây Phương gần như nhất trí kết luận rằng cuộc xâm lăng năm 1979 của Trung Quốc vào Việt Nam là một sự thất bại.  Thí dụ, theo tác giả Gerald Segal, “cuộc chiến tranh Trung – Việt năm 1979 đã là một sự thất bại trong chính sách ngoại giao quan trọng nhất kể từ 1949”.  Tác giả Robert Roos đã đồng ý phần lớn, phát biểu: “Sự thất bại trong chính sách của Trung Quốc nhấn mạnh vai trò mơ hồ của quyền lực cấp vùng trong chính trị quốc tế đương đại”.  Gần đây nhất, tác giả Ellis Joffe, một chuyên viên về QĐGPNDTQ tại Đại Học Hebrew University tại Jerusalem, đã kết luận: “Trung Quốc bị tổn thương bởi các biện pháp hạn chế chống lại Việt Nam hồi năm 1979.  Trung Quốc tìm cách giảng dạy cho Việt Nam một bài học, nhưng Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc một bài học”. (“Strait of Uncertainty Taiwan braves increased pressure from China”, Far Eastern Economic Review, 8 Tháng Hai 1996, 20-21.)
Các sự lượng định tiêu cực này của Tây Phương thì tương phản một cách sắc nét với các lời tuyên bố của chính Bắc Kinh rằng cuộc chiến tranh năm 1979 của nó chống lại Việt Nam là một sự thành công, bởi vì quyết định của Mạc Tư Khoa không can thiệp chứng tỏ rằng LBSV chỉ là một “con gấu bắc cực bằng giấy”.  Bắc Kinh rõ ràng sẵn lòng hậu thuẫn lời tuyên bố này bằng hành động, khi nó không chỉ loan báo sự chấm dứt bản Hiệp Ước Sô Viết – Trung Quốc năm 1950 mà rồi sau này còn chuyển đến Mạc Tư Khoa ba điều kiện tiên quyết cho việc cải thiện các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết.  Ba điều kiện tiên quyết này gồm: 1) triệt thoái bộ đội Sô Viết ra khỏi biên giới Trung Quốc – Sô Viết và Mông Cổ, 2) triệt thoái binh sĩ Sô Viết ra khỏi A Phú Hãn, và 3) đình chỉ sự ủng hộ của Sô Viết cho sự xâm nhập của Việt Nam vào Căm Bốt.  (Yao Wengin, “Soviet Military Deployments in the Asia-Pacific Region: Implications for China’s Security”, trong sách đồng biên tập bởi Richard H. Solomon và Masataka Kosaka, The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA., Auburn House Publishing Company, 1986), 103.)
Vì thế, ngoài việc chấp nhận một vị thế khẳng định hơn trong các quan hệ của nó với LBSV, các lân bang phía nam của Trung Quốc cũng buộc phải đối xử với Trung Quốc với nhiều sự nể trọng hơn; theo một báo cáo năm 1986, bởi Hà Nội bị thua ván cờ năm 1979 rằng Bắc Kinh sẽ không bao giờ thực sự tấn công, Việt Nam, “bị trừng phạt bởi kinh nghiệm năm 1979, giờ đây đồn trú 700,000 quân chiến đấu tại phần phía bắc của xứ sở”. (Karl D. Jackson, “Indochina, 1982-1985: Peace Yields to War”, trong sách đồng biên tập bởi Richard H. Solomon và Masataka Kosaka, The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA., Auburn House Publishing Company, 1986), 206.)
Vai trò khẳng định hơn của Trung Quốc tại Á Châu trong suốt thập niên 1980 vì thế khiên ta nghĩ rằng Bắc Kinh đã thực sự tin tưởng rằng nó đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh Trung – Việt năm 1979.  Chính từ đó, mặc dù tác giả Nayan Chanda và các tác giả khác cảnh cáo rằng các lời tuyên bố của Trung Quốc rằng LBSV đã chỉ là một “con gấu bắc cực bằng giấy” có thể hoàn toàn là sự tuyên truyền, các hành động của chính Bắc Kinh cho thấy rằng họ tin tưởng một cách vững chắc quan điểm này.  Chính vì lý do này mà các cuộc thảo luận gần đây về thời điểm khi mà Cuộc Chiến Tranh Lạnh thực sự được chấm dứt sẽ rõ ràng có một sự liên quan trực tiếp đến sự xác quyết năm 1979 của Bắc Kinh rằng Mạc Tư Khoa đã sẵn quá yếu kém để giao chiến.  Trong thực tế, theo cái nhìn của Trung Quốc, sự thất bại của LBSV không can thiệp nhân danh Việt Nam trong năm 1979 đã là bằng chứng tích cực rằng Mạc Tư Khoa đã không còn lòng dạ để chiến đấu một cuộc chiến tranh quan trọng; nói cách khác, kỷ nguyên nguy hiểm nhất của Chiến Tranh Lạnh đã sẵn qua đi.
Cho đến nay, cuộc thảo luận phổ quát rằng liệu Cuộc Chiến Tranh Lạnh đã thực sự bị vượt qua sớm hơn sự sụp đổ của Bức Tưiờng Bá Linh năm 1989 vốn xoay quanh các lời tuyên bố được đưa ra bởi viên Tướng 4 Sô Viết bốn sao Anatoly Gribkov, cựu tham mưu trưởng Thỏa Ước Warsaw hồi đầu thập niên 1980.  Gribkov đặt các lập luận của ông trên sự kiện rằng vào Tháng Mườì Hai năm 1981, Bộ Chính Trị Sô Viết rõ ràng đã đánh mất ý chí chính trị để sử dụng vũ lực nhằm giữ vững sự kiểm soát đế quốc mở rộng của họ.  Sự lượng định này được dựa tre6n sự từ khước của Bộ Chính Trị không gửi binh sĩ đến Ba Lan để phá tan một sự nắm quyền bính của phe dân chủ, một dấu hiệu của sự suy yếu mà Gribkov vạch ra như bằng chứng rằng LBSV đã thực sự “thua” Cuộc Chiến Tranh Lạnh ngay từ 1981.  (The Two Trillion Dollar Mistake”, Worth, (February 1996), 78-83/128-129.)
Biên bản một phiên họp của Bộ Chính Trị Sô Viết từ ngày 10 Tháng Mười Hai 1981 được giải mật gần đây có khuynh hướng hậu thuẫn cho sự tuyên xác của Gribkov, qua việc phô bày rằng giải pháp gửi binh sĩ chống lại đảng “Liên Đới: Solidarity” của Ba Lan được bác bỏ một cách nhất trí bởi Mạc Tư Khoa vì có sự bất trắc quá to lớn.  (Cold War International History Project Bulletin, Issue 5 (spring 1995), 135-137).  Ngoài ra, các biên bản này cũng tiết lộ rằng Bộ Chính Trị đã cứu xét một cách nghiêm trọng sự thoái bộ tại vùng Viễn Đông qua việc ra lệnh rút quân Sô Viết ra khỏi Mông Cổ; nếu Mạc Tư Khoa thực sự thi hành kế hoạch này, khi đó nó đã nhượng bộ một trong ba điều kiện tiên quyết của Bắc Kinh cho việc cải thiện các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết.
Các tài liệu Sô Viết này, và các tài liệu khác tương tự như chúng, rõ ràng hậu thuẫn cho lời xác quyết của Gribkov rằng vào năm 1981 giới lãnh đạo Sô Viết đã sẵn mất khả năng sử dụng vũ lực hầu chống đỡ đế quốc Sô Viết đang tan tành.  Chính cùng lý luận này cũng có thể áp dụng cho cuộc xung đột Trung – Việt năm 1979, bởi cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam rõ ràng đặt ra một sư đe dọa thực sự cho an ninh và sự ổn định của khu vực ảnh hưởng của Sô Viết tại Đông Nam Á.  Chính sự kiện rằng Bộ Chính Trị Sô Viết từ khước không chu toàn các nghĩa vụ theo hiệp ước của nó với Việt Nam và đã từ chối can thiệp chống lại Trung Quốc khiến ta nghĩ rằng lập luận của Gribkov cho rằng Bộ Chính Trị Sô Viết đã mất ý chị chính trị để duy trì đế quốc của nó lại với nhau bằng vũ lực cũng có thể áp dụng một cách đồng cân sức – nếu không phải nhiều hơn – cho kết cuộc của cuộc chiến tranh Trung – Việt năm 1979. 
Sự sụp đổ của Bức Tường Bá Linh năm 1989 và sự tan rã không ngờ của LBSV năm 1991 đòi hỏi một sự lượng định mới về tác động của các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết trên cuộc xung đột Trung – Việt Tháng Hai 1979.  Một khía cạnh của sự lượng định này phải được cứu xét liệu lời tuyên xác năm 1979 của Trung Quốc rằng LBSV đã sẵn là một “con gấu bắc cực bằng giấy” giờ đây có vẻ khả tín hơn chiếu theo sự giải tán sau này của LBSV.  Mặc dù lời tuyên xác của Gribkov rằng Chiến Tranh Lạnh đã sằn bị vượt qua năm 1981 có thể sớm hơn nhiều thời hạn mà phần lớn các học giả Tây Phương sẵn lòng chấp nhận, nó đi sau vài năm theo cái nhìn của Trung Quốc.  Vì thế, trong sự hậu xét, hạn kỳ 1979 của Trung Quốc không chỉ có vẻ khả tín, mà đối với các học giả tương lai, một ngày nào  dó, thời điểm 1979 có thể chứng tỏ rằng còn chính xác hơn năm 1981.  Nếu như thế, khi đó Bắc Kinh phải được dành cho công lao thích đáng cho việc xác định một cách chính xác các triệu chứng Viễn Đông trong các nhược điểm nội tại của Mạc Tư Khoa sớm hơn hai năm trước khi các dấu hiệu tương tự trở nên nhận thức được bởi khối Tây.  Điều này khi đó nêu lên câu hỏi liệu “bước khởi đầu của sự kết thúc” Chiến Tranh Lạnh đã thực sự xảy ra trong năm 1979, do kết quả của sự từ khước của Mạc Tư Khoa chấp nhận sự thách đố trơ tráo của Bắc Kinh đối với ưu thế quân sự của LBSV tại Viễn Đông hay không.
Kết Luận
Các cuộc nghiên cứu trước đây về cuộc xung đột Trung – Việt ngày 17 Tháng Hai 1979 nói chung phác họa các hành động của Trung Quốc như một sự thất bại tuyệt đối.  Bài viết này, ngược lại, đã nỗ lực để tái lượng giá cuộc chiến tranh Trung – Việt dưới khía canh các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết bằng việc liên kết cuộc xung đột này với lần kỷ niệm 29 năm ngày ký kết Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Trung Quốc – Sô Viết hôm 14 Tháng Hai năm 1950.  Như một kết quả trực tiếp của quyết định của Sô Viết không can thiệp nhân danh Việt Nam, Trung Quốc trở nên tin tưởng rằng LBSV thiếu mất ý chí chính trị để vận dụng đến chiến tranh hầu chống đỡ khu vực ảnh hưởng của Sô Viết tại Á Châu.  Sự tin tưởng này đã dẫn dắt Bắc Kinh đến việc thông báo Mạc Tư Khoa hôm 3 Tháng Tư 1979 rằng Trung Quốc có ý định chấm dứt bản Hirệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 khi đạt tới hết thời hiệu 30 năm của nó vào năm 1980.
Từ 1950 cho đến 1979, Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh, và Trợ Giúp Hỗ Tương Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 đã là nền tảng trên đó các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết được đặt định.  Mặc dù các phần được công bố của bản hiệp ước này được cung cấp từ lâu, nội dung đích thực của các nghị định thư bí mật đính kèm bản hiệp ước này phần lớn vẫn chưa được hay biết.  Tuy nhiên, với các nghị định thư bí mật này liên hệ đến các sự tranh chấp lãnh thổ Trung Quốc – Sô Viết khá rõ ràng, và trong các thập niên 1950 và 1960 các sự tranh chấp biên giới thường xuyên giữa LBSV và Trung Quốc đã phản ảnh mức độ căng thẳng mà các nghị định thư bí mật đã sản sinh ra.  Mặc dù không có một trong các cuộc xung đột biên giới Trung Quốc – Sô Viết nào được phép để leo thang thành chiến tranh toàn diện, Bắc Kinh tiếp tục trắc nghiệm quyết tâm của LBSV để xem liệu nó có vận dụng đến vũ lực hầu chống đỡ cho các điều khoản của Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 hay không.  Chính từ đó, trong quan điểm của Bắc Kinh, bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 đã là công cụ trọng yếu qua đó Mạc Tư Khoa đã cố gắng để hành sử “bá quyền” của nó trên Trung Quốc và khắp phần còn lại của Á Châu.
Ngược lại, Mạc Tư Khoa rõ ràng quan tâm đến những gì có thể xảy ra khi Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết đạt tới thời hiệu 30 năm của nó.  Khởi sự trong năm 1969, LBSV thường xuyên thúc dục Trung Quốc thay thế bản hiệp ước này bằng một thỏa ước nới.  Để buộc Bắc Kinh lùi bước, Mạc Tư Khoa đã không chỉ gia cố các biên giới Trung Quốc – Sô Viết và Mông Cổ, nó còn thực hiện áp lực Trung Quốc từ phía nam, bằng việc hoàn tất một hiệp ước liên minh với Việt Nam.  Chính từ đó, sự cải thiện các quan hệ Sô Viết – Việt Nam, lên đến cực điểm với sự ký kết hiệp ước phòng thủ Sô Viết – Việt Nam hôm 3 Tháng Mườu Một 1978, có thể được nối kết một cách trực tiếp với các quan hệ đang tồi tệ của Trung Quốc với LBSV vào cuối thập niên 1970.  Tuy nhiên, thay vì lùi bước, Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam hôm 17 Tháng Hai, 1979, chỉ ba ngày sau lễ kỷ niệm thứ 29 ngày ký kết bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950.  Khi Mạc Tư Khoa từ khước can thiệp nhân danh Hà Nội, Bắc Kinh đã quyết định rằng Bộ Chính Trị Sô Viết sẽ không vận dụng đến chiến tranh để buộc Trung Quốc phải duy trì bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 và như thế đà mạnh dạn loan báo hôm 3 Tháng Tư 1980 rằng nó có ý định chấm dứt bản hiệp ước này.
Một trong các mục đích chính yếu của Bắc Kinh trong việc tấn công Việt Nam là nhằm bảo đảm rằng Trung Quốc không bị bao vây cả phía bắc lẫn phía nam bởi các lực lượng Sô Viết.  Cuộc xâm lăng năm 1979 của Trung Quốc vào Việt Nam, bất kể các sự khuyết điểm hiển nhiên của nó, đã đạt được mục tiêu chiến lược này bởi sự từ khước của LBSV để can thiệp nhân danh Việt Nam đã triệt hạ mối đe dọa một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận với LBSV và Việt Nam.  Trên bình diện ngoại giao, Trung Quốc cũng giành đạt được một chiến thắng rõ ràng chống lại các mưu toan của Sô Viết nhằm áp lực Trung Quốc tiến tới việc ký kết một hiệp ước mới để thay thế hay bổ túc bản Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh, và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Trung Quốc – Sô Viết ngày 14 Tháng Hai, 1950.  Sau cùng, khi nhìn lại sau này, sự tuyên bố của Trung Quốc rằng LBSV thực sự chỉ là một “con gấu bắc cực bằng giấy” rõ ràng khá chính xác, và chính vì thế tương trưng có lẽ cho dấu hiệu bên ngoài đầu tiên rằng đế quốc Sô Viết đã bị đe dọa bởi sự tan rã bên trong, một sự tan rã chỉ trở nên hiển hiện mười năm sau này với sự sụp đổ của Bức Tường Bá Linh và với sự giải tán của LBSV năm 1991./-   
Nguồn: Bài tham luận của tác giả Bruce Elleman, đọc tại Cuộc Hội Thảo 1996 Vietnam Symposium, “After the Cold War: Reassessing Vietnam”, được tổ chức vào các ngày 18-20 Tháng Tư, 1996 tại Vietnam Center, Texas Rech University, Lubbock, Texas

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét