Thứ Năm, 19 tháng 3, 2015

Giải trình việc lấy tên Hội PTHT Kinh tế Việt Nam-ASEAN

BÁO CÁO GIẢI TRÌNH VIỆC ĐỔI TÊN HỘI THÀNH HỘI PHÁT TRIỂN HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – ASEAN
***** 
Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia được thành lập năm 2008 trong bối cảnh quan hệ hợp tác kinh tế giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ hai nước Lào và Campuchia đang hết sức chặt chẽ với nhiều cơ hội đầu tư đang được mở ra cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư. Tuy nhiên, sau 7 năm hoạt động, cơ hội đầu tư tại hai nước bạn không còn nhiều trong khi với việc hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) từ tháng 12 năm 2015, nhiều thuận lợi lớn hơn sẽ được mở ra, đang khơi dậy nhiệt huyết đầu tư, hợp tác phát triển quốc tế của nhiều hội viên trong Hội, do đó đặt ra nhu cầu cấp thiết phải mở rộng phạm vi hoạt động của Hội sang tất cả các nước thuộc Cộng đồng kinh tế ASEAN. Điều này dẫn tới nhu cầu đổi tên Hội thành Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN.
I. Lịch sử hình thành và thực trạng hoạt động của Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia
1) Lịch sử hình thành
Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia được thành lập năm 2008 trong bối cảnh quan hệ hợp tác kinh tế giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ hai nước Lào và Campuchia đang hết sức chặt chẽ với nhiều cơ hội làm ăn cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư đã và đang được mở ra.

Việt Nam, Lào và Campuchia là ba nước láng giềng gần gũi, có quan hệ truyền thống đoàn kết, hữu nghị, hợp tác lâu đời, có đường biên giới chung chạy dài hàng nghìn km từ Bắc vào Nam. Do đó, nhu cầu hợp tác, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa ba nước đều rất lớn.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và X của Đảng đều khẳng định “coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng”. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã triển khai nhiều giải pháp nhằm tăng cường quan hệ kinh tế, xã hội giữa ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia, trong đó riêng ngành Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp chặt chẽ với ngành Kế hoạch và Đầu tư của hai nước bạn triển khai nhiều hoạt động có hiệu quả, từ đó góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội của ba nước cùng phát triển.
Trong khoảng 20 năm gần đây, quan hệ Việt Nam - Lào - Campuchia đã và đang không ngừng được củng cố và phát triển về mọi mặt. Các nhà lãnh đạo ba nước đã tăng cường nhiều cuộc trao đổi và hợp tác thông qua các cuộc viếng thăm nhau, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp hai nước thúc đẩy đầu tư và thương mại sang nhau. Đặc biệt, về phía Việt Nam, một mặt hàng năm Chính phủ và nhiều chính quyền địa phương đã dành những khoản ngân sách tương đối lớn hỗ trợ hai nước bạn; mặt khác Chính phủ Việt Nam đã liên tục cử nhiều chuyên gia sang giúp đỡ không chỉ ở phạm vi kinh tế, kỹ thuật cấp vi mô mà cả trong lĩnh vực quản lý kinh tế vĩ mô.
Nổi bật là theo đề nghị của Chính phủ Lào, trong giai đoạn 1998-2006, Chính phủ Việt Nam đã tổ chức Đoàn chuyên gia cấp cao sang giúp Lào về quản lý vĩ mô và kiềm chế lạm phát. Đoàn chuyên gia hoạt động thường xuyên tại Lào, định kỳ 3 tháng 1 lần ở cấp cao và hàng tháng ở cấp chuyên viên, vừa giúp Chính phủ, các bộ ngành của Lào về phân tích dự báo tình hình, đề ra các chính sách giải pháp cần thiết, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch hàng năm và 5 năm, vừa hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam triển khai các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh và thương mại tại Lào.
Giữa năm 2006, khi nền kinh tế Lào đã đi vào thế phát triển ổn định, có nền tảng phát triển vững chắc (thực tế tốc độ tăng trưởng của Lào trong khoảng 10 năm gần đây khá cao và ổn định, 8%/năm, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới khủng hoảng trầm trọng), theo thỏa thuận giữa Chính phủ hai nước, Đoàn chuyên gia cấp cao chính phủ Việt Nam đã kết thúc các hoạt động tại Lào.
Hoạt động của Đoàn chuyên gia cấp cao giúp Lào về quản lý vĩ mô và kiềm chế lạm phát đã mở ra một cơ hội mới cho các doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu phát triển hợp tác kinh tế và đầu tư với Lào. Chính vì vậy, sau khi Đoàn chuyên gia hoàn thành nhiệm vụ được giao và giải tán, rất nhiều cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có nguyện vọng thành lập một tổ chức phi chính phủ có chức năng tập hợp, đoàn kết các cơ quan, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp Việt Nam và kiều bào ở nước ngoài, hỗ trợ lẫn nhau phát triển và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế và đầu tư với Lào và Campuchia...
Đáp ứng nhu cầu này, được sự ủng hộ của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các Bộ, ngành liên quan, các thành viên chủ chốt của Đoàn chuyên gia cấp cao đã đứng ra vận động thành lập Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – Lào – Campuchia. Hội đã tổ chức đại hội thành lập tháng 5 năm 2008 và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 8 năm 2008 theo Quyết định số 1078/QĐ-BNV ngày 13 tháng 8 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc phê duyệt Điều lệ Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia.
2) Thực trạng hoạt động
Theo điều lệ được Bộ trưởng Bộ Nội vụ phê duyệt, Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia là một tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp Việt Nam đã, đang có đóng góp hoặc có nguyện vọng đóng góp vào sự nghiệp phát triển và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế và đầu tư giữa Việt Nam với Lào và Campuchia. Hội hoạt động trên phạm vi cả nước, được mở văn phòng đại diện, chi nhánh và tổ chức các hoạt động tại Lào và Campuchia ...
Từ khi được thành lập đến nay, Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia đã không ngừng phát triển về tổ chức cũng như các hoạt động. Nếu như lúc gửi hồ sơ đăng ký thành lập, Hội chỉ có 43 hội viên tổ chức, doanh nghiệp và khoảng 120 hội viên cá nhân; đến khi đại hội đã có khoảng 200 hội viên tổ chức, doanh nghiệp và khoảng 400 hội viên cá nhân, thì đến nay, theo đăng ký, Hội có khoảng 1100 hội viên chính thức, gồm khoảng 500 hội viên là các tổ chức, doanh nghiệp và khoảng 600 hội viên cá nhân.
Nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam đã đăng ký hội viên và tham gia tích cực vào các hoạt động của Hội như Tập đoàn đầu tư Sài Gòn, Tập đoàn đầu tư Việt Phương, Công ty hợp tác kinh tế quân khu IV, Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam, Công ty cổ phần đầu tư Tân Đức, Tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty hợp tác kinh tế Việt - Lào, Công ty cổ phần XNK tổng hợp và đầu tư TP HCM, Tổng công ty cổ phần xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam, Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1, Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 6, Tổng công ty đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp Việt Nam, Công ty vật tư công nghiệp quốc phòng, Công ty cổ phần xây dựng điện và mỏ Vinashin, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á, Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt, Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á, Tổng công ty cà phê Việt Nam, Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam... Một số Hội của doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động ở Lào và Campuchia đã đăng ký làm hội viên tập thể của Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào – Campuchia như Hội doanh nghiệp Việt Nam tại Campuchia, Hội doanh nghiệp Việt Nam hợp tác và đầu tư ở Lào (Viet – Lao BACI)...
Đặc biệt, Ban lãnh đạo và các hội viên nòng cốt hiện nay của Hội đều là những đồng chí có năng lực, có kinh nghiệm và tâm huyết với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng hợp tác quốc tế của đất nước. Nhiều đồng chí nguyên là Bộ trưởng, Thứ trưởng, Phó Chủ tịch Phân ban hợp tác Việt Nam - Lào, Phó Chủ tịch Phân ban hợp tác Việt Nam - Campuchia, Tham tán kinh tế - văn hóa Đại sứ quán Việt Nam tại Lào hoặc thành viên của Đoàn chuyên gia kinh tế cấp cao của Chính phủ Việt Nam tại Lào, các doanh nhân đại diện cho các tập đoàn kinh tế và ngân hàng lớn, các đồng chí đại diện cho các địa phương có nhiều hợp tác kinh tế và đầu tư quốc tế, các đồng chí đại diện cho giới khoa học - kỹ thuật.
Về tổ chức, ngoài các tổ chức, đơn vị trực thuộc ở Trung ương, Hội có 7 trung tâm hợp tác và làm dịch vụ hỗ trợ phát triển; 2 viện nghiên cứu làm nhiệm vụ đào tạo và tư vấn; 3 văn phòng đại diện (tại Lào, Campuchia và thành phố Hồ Chí Minh), 1 tờ báo và 1 tạp chí. Ngoài ra, Hội có 2 Hội thành viên địa phương tại Nghệ An và Hà Tĩnh. Tới đây nền kinh tế đi vào thế phát triển ổn định, khu vực doanh nghiệp được phục hồi, Hội sẽ tiếp tục hỗ trợ thành Hội thành viên địa phương tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Về hoạt động chuyên môn, căn cứ tôn chỉ mục đích và nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều lệ Hội, trong nhiệm kỳ đầu tiên, Hội thực hiện được nhiều hoạt động chuyên môn, hợp tác kinh tế và đầu tư, trong đó nổi bật là xuất bản nhiều các ấn phẩm hướng dẫn đầu tư sang Lào và Campuchia; tổ chức hàng năm nhiều diễn đàn, hội nghị, hội thảo, hội chợ với các chủ đề khác nhau để giới thiệu, phân tích, đánh giá về môi trường đầu tư, tình hình đầu tư, cơ chế chính sách đầu tư và các dự án kêu gọi đầu tư của Lào và Campuchia tại nhiều địa phương trên cả nước và tại hai nước bạn; chủ trì hoặc tham gia với các hội, hịêp hội và cơ quan khác tổ chức các chương trình trao các giải thưởng tôn vinh doanh nghiệp, doanh nhân tiêu biểu trong hợp tác Việt Nam, Lào và Campuchia...
Hàng năm, Hội đều có các hoạt động phản biện xã hội và tư vấn chính sách liên quan đến hợp tác kinh tế và đầu tư của nước ta với Lào và Campuchia. Từ năm 2011 đến 2014 đã chủ trì cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và ngân hàng Việt Á tổ chức hàng năm Chương trình Mê Kông dưới hình thức diễn đàn với nhiều chủ đề khác nhau. Mới nhất là Diễn đàn Mê Kông thường niên 2014 với chủ đề “Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015: Cơ hội và thách thức” vừa được tổ chức vào tháng 10/2014, thu hút hơn 200 khách tham dự. Kết thúc diễn đàn, đã xây dựng các kỷ yếu làm tài liệu cho các doanh nghiệp, các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách. Các thông tin, kiến nghị hữu ích được Hội tổng hợp gửi đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý.
 Hội đã tiến hành thu thập, cung cấp thông tin kinh tế, xã hội, môi trường, đặc biệt là các thông tin liên quan đến chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển hợp tác kinh tế của nước ta với Lào và Campuchia cũng như của Lào và Campuchia với nước ta. Trên cơ sở đó, đã triển khai có hiệu quả một số tư vấn chính sách cho Nhà nước, trước hết là Kế hoạch và Đầu tư.
Hội đã tổ chức nhiều lớp đào tạo, hướng dẫn nâng cao các kỹ năng chuyên môn,  trang bị kiến thức, hiểu biết về luật pháp, phong tục tập quán và cung cấp những thông tin khác về môi trường đầu tư của Lào và Campuchia cho các tổ chức, doanh nghiệp và nhà đầu tư Việt Nam.
Đã thực hiện một số dịch vụ tư vấn và trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp, nhà đầu đầu tư Việt Nam hoạt động sản xuất, đầu tư tại Lào và Campuchia. Đã phối hợp với các doanh nghiệp hội viên tổ chức nhiều đoàn sang khảo sát, giới thiệu đầu tư tại Lào và Campuchia. Đã tổ chức một số đoàn du lịch sang Lào và Campuchia đáp ứng yêu cầu của các hội viên...
Trong nhiệm kỳ 2008-2014, về đối ngoại trong nước, Hội đã xây dựng, từng bước mở rộng mối quan hệ hợp tác của Hội với các cơ quan, đơn vị thuộc ngành Kế hoạch và Đầu tư, với các Phân ban hợp tác Việt Nam - Lào, Phân ban hợp tác Việt Nam - Campuchia, với các Hội hữu nghị Việt Nam - Lào, Hội hữu nghị Việt Nam - Campuchia. Đã tạo lập quan hệ hợp tác với nhiều Hội, Hiệp hội khác cũng như một số tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trên cả nước.
Về đối ngoại ngòai nước, Hội đã duy trì tiếp xúc thường xuyên với các Đại sứ quán Lào, Campuchia, Myanmar tại Việt Nam và các Đại sứ quán Việt Nam tại Lào, Campuchia, Myanmar để thông báo về việc hình thành và phương hướng hoạt động của Hội, tạo cơ sở để giao lưu, hợp tác và trao đổi thông tin. Đã thiết lập quan hệ với một số cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tại ba nước này, đặc biệt với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc ngành Kế hoạch và Đầu tư của hai nước Lào và Campuchia.
Như vậy, Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia là một hội lớn với sự tham gia của một lực lượng đông đảo hội viên có năng lực, kinh nghiệm (nhất là các nhà khoa học, các nhà quản lý đã nghỉ hưu), có tiềm lực và nhiệt huyết (đặc biệt là các doanh nhân, doanh nghiệp). Vì vậy, nếu hoạt động của Hội chỉ bó hẹp trong phạm vi ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia thì sẽ không phát huy được sức mạnh tổng hợp của đông đảo hội viên.
II. Những khó khăn của Hội khi phạm vi hoạt động bó hẹp trên địa bàn Lào, Campuchia
1) Khó khăn do tiềm năng và trình độ phát triển của Lào và Campuchia tương đối hạn chế
a) Khó khăn do tiềm năng
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, trong thời gian vừa qua, hợp tác với Lào và Campuchia có một số thuận lợi cơ bản là chi phí vận tải và chi phí lao động thấp, nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú và dễ khai thác... Tuy nhiên, qua một số năm phát triển, những nhân tố thuận lợi để mở rộng hợp tác theo chiều rộng đã giảm đáng kể, trong khi điều kiện mở rộng hợp tác theo chiều sâu đang rất khó khăn.
Lào có địa hình đa dạng gồm cả đồng bằng nhưng núi và cao nguyên chiếm hơn 3/4 diện tích tự nhiên, trong đó riêng khu vực núi cao địa hình hiểm trở, chia cắt chiếm tỷ trọng lớn; thiên tai, lũ lụt thường xuyên xảy ra... Lào không có biển, giao thông đường thuỷ nội địa khó khăn, cơ sở hạ tầng của Lào tuy đã được tăng cường song còn yếu kém, không đồng bộ, nhất là về giao thông, thủy lợi, điện, thông tin liên lạc. Lào nằm xa các trung tâm kinh tế lớn, các trung tâm tăng trưởng của khu vực Đông Nam Á nên điều kiện, lợi thế để phát triển kinh tế hàng hoá gặp nhiều khó khăn; sức hút đối với các nhà đầu tư rất hạn chế. Đây là những khó khăn lớn nhất và mang tính dài hạn trong quá trình phát triển kinh tế Lào.
Địa hình ở Campuchia thuận lợi hơn để phát triển kinh tế vì đất nước này có bờ biển dài và khoảng 1/2 diện tích tự nhiên là đồng bằng, thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, nhất là trồng lúa nước. Tuy nhiên đồi núi cũng chiếm tỷ trọng khá lớn, khoảng 39% diện tích đất tự nhiên; còn lại là vùng duyên hải. Mặt khác, Một tỷ lệ không nhỏ đồng bằng của Campuchia đã trở thành vùng bảo tồn sinh quyển không được khai thác.
Tương tự như Lào, cơ sở hạ tầng của Campuchia còn rất yếu kém, đến năm 2013, chỉ có khoảng 12% trong số 35,769 km đường bộ của Campuchia được trải nhựa. Con đường tốt nhất là đường nối thủ đô Phnom Penh với cảng biển Sihanouk Ville. Đây là lý do vì sao có rất nhiều nhà máy được đặt dọc con đường này.
Ngoài đất để phát triển cây công nghiệp và trồng lúa, tài nguyên thiên nhiên chủ yếu của Lào và Campuchia là gỗ, thủy điện, khoáng sản và quặng kim loại. Riêng Campuchia có thêm tiềm năng dầu mỏ song trữ lượng dầu mỏ ở đây có thể không lớn trong khi hiệu quả kinh tế chưa được đánh giá cao vì địa tầng khai thác khó khăn.
Gỗ là nguồn lâm sản chính của hai nước Lào và Campuchia nhưng trữ lượng đang giảm nhanh vì rừng bị tàn phá nặng nề, môi trường sinh thái đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tỷ lệ đất trống đồi trọc ngày càng lớn. Do chính sách hạn chế khai thác rừng hiện nay và điều kiện trồng rừng khó khăn, khả năng hợp tác phát triển lâm nghiệp của doanh nghiệp Việt Nam với hai nước này đang hạn hẹp dần.
Trữ lượng các nguồn khoáng sản và quặng kim của Lào và Campuchia được đánh giá không lớn. Lào có khoảng 232 điểm quặng, mỏ phân bố rải rác trên mọi miền của đất nước, nhưng trữ lượng các loại hình khoáng sản cao nhất cũng chỉ vài chục triệu tấn (than đá, sắt, muối cứng, xi măng...) trong khi điều kiện khai thác, vận chuyển khó khăn, chi phí lớn. Campuchia có trữ lượng quặng sắt khoảng 8-10 triệu tấn và quặng Mangan khoảng 120 nghìn tấn trong khi một số khoáng sản quý khác như vàng, bạc, hồng ngọc... có trữ lượng khá thấp.
Tài nguyên nước của Lào và Campuchia khá lớn, nhất là tiềm năng thủy điện từ việc chặn hoặc thay đổi dòng chảy của sông Mê Kông. Tuy nhiên, việc khai thác tài nguyên nước sông Mê Kông cũng như một số nhánh lớn của con sông này để làm thủy điện đang đặt ra những thách thức đối với vấn đề môi trường và gây tranh cãi do ảnh hưởng tới cuộc sống của dân cư tại các nước hạ lưu.
b) Khó khăn do trình độ phát triển
Do điều kiện lịch sử, trong một khoảng thời gian khá dài nền kinh tế Lào và Campuchia phát triển khá chậm so với các nước trong khu vực và thế giới. Đến nay, hai nước vẫn thuộc danh sách những quốc gia nghèo. Theo số liệu của Liên hợp quốc, GDP đầu người năm 2013 của Lào là 1589 USD, đứng thứ 148/193 nước so sánh; của Campuchia là 1008 USD, đứng thứ 163/193 nước so sánh. Do quy mô dân số bé nên quy mô nền kinh tế, quy mô thị trường và sức mua của hai nước đều rất khiêm tốn.
Tính ổn định của hai nền kinh tế này đều chưa cao; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; trình độ kỹ thuật thấp. Trình độ phát triển giữa các vùng, giữa các bộ tộc chênh lệch lớn. Tỷ lệ đói nghèo cao. Các chỉ tiêu cân đối vĩ mô thường không ổn định; tỷ trọng thu ngân sách trên địa bàn để cân đối nhu cầu chi đạt rất thấp; vốn đầu tư hạn hẹp không đủ điều kiện và nguồn lực để khai thác, phát huy tiềm năng, thế mạnh.
Trình độ dân trí thấp; tỷ lệ mù chữ cao. Năng lực của đội ngũ lao động yếu, nhất là về kỹ năng sản xuất hàng hóa và tiếp thu tiến bộ khoa học công nghệ... Đội ngũ cán bộ yếu và thiếu cả số lượng và chất lượng. Thiếu cán bộ quản lý, chuyên gia, các nhà doanh nghiệp giỏi ở các ngành, các lĩnh vực.
Trong những năm gần đây, cùng chung hoàn cảnh với kinh tế thế giới, kinh tế hai nước Lào và Campuchia đều gặp khó khăn. Ở Campuchia, nếu như trong những năm 1996-2007 tốc độ tăng trưởng trung bình đạt trên 8%/năm thì 5 năm gần đây chỉ đạt khoảng 7-7,5%. Ở Lào, tốc độ tăng trưởng được duy trì khá (8%/năm) nhưng những khó khăn xuất hiện ngày càng lớn; ngoại thương và ngân sách mất cân đối trầm trọng trong khi nội lực phát triển cạn dần. Khó khăn ở hai nước này đã ảnh hưởng rất lớn tới động lực hợp tác kinh tế và đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam với hai nước bạn
2) Khó khăn gần đây của các hội viên đang triển khai các hoạt động kinh tế và đầu tư tại Lào và Campuchia
Theo phản ảnh của các hội viên, nhiều vấn đề tồn tại kéo dài tại hai nước Lào và Campuchia đang gây trở ngại cho việc tiếp tục triển khai và mở rộng các hoạt động kinh tế và đầu tư tại đây, trong đó nổi cộm là:
Hệ thống pháp luật của Lào và Campuchia tương đối thiếu và chưa rõ ràng, cụ thể. Một số đạo luật liên quan đến các hoạt động kinh tế được ban hành nhưng không hoặc chậm có nghị định hướng dẫn thực hiện. Luật pháp, chính sách của hai nước không ổn định, thường xuyên được bổ sung, hoàn thiện cũng gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi hợp tác kinh tế và đầu tư tại Lào và Campuchia so với tại các nước ASEAN khác.
Nhiều thủ tục đầu tư, kinh doanh tại hai nước bạn rất phức tạp, thiếu nhất quán, đặc biệt là trong quá trình triển khai trên thực tế như các thủ tục cho người qua lại và cư trú; thủ tục qua lại cho phương tiện, vật tư hàng hoá; thủ tục quá cảnh hàng hoá; quy định thuế, phí và lệ phí; thủ tục thanh toán, chuyển tiền; thủ tục kiểm tra, kiểm soát...
Hệ thống các chính sách và biện pháp hỗ trợ của chính phủ Việt Nam đối với các doanh nghịêp đầu tư sang Lào vào Campuchia chưa lớn; cam kết nhiều nhưng cụ thể hóa trong thực tế rất ít.
Cơ sở hạ tầng tại hai nước bạn rất yếu kém. Chi phí đầu tư, chi phí lao động tại hai nước tăng lên khá nhanh, nhất là tại các vùng khó khăn, vùng biên giới với Việt Nam. Giá cả sinh hoạt cũng như nhiều loại đầu vào phục vụ sản xuất như điện, nước, viễn thông và vận tải tại hai nước thường cao hơn đáng kể so với Việt Nam và các nước trong khu vực ASEAN. Nhiều loại thuế, phí được đặt ra nhưng quy định không rõ ràng và thực hiện thiếu nhất quán, đồng bộ.
Sự yếu kém về quản lý, hành chính quan liêu và tham nhũng là những vấn đề rất nổi cộm cũng làm tăng chi phí đầu tư và làm nhiều doanh nghịêp Việt Nam mất cơ hội kinh doanh ở hai nước này.
Công tác thông tin, tư vấn của hai nước dành cho các doanh nghiệp Việt Nam rất hạn chế. Hiện vẫn chưa có các giải pháp hữu hiệu để thu thập, biên dịch, in ấn, cung cấp các văn bản pháp luật cũng như các thông tin thị trường của hai nước bạn đến với các doanh nghiệp Việt Nam.
Do điều kiện kinh doanh thiếu minh bạch tại hai nước bạn, các doanh nghiệp rất cần sự bảo vệ, bảo hộ của Chính phủ Việt Nam khi hoạt động ở nước ngoài; song công tác này được thực hiện rất kém nếu như không nói là hầu như không đáng kể. Các cơ quan ngoại giao, tham tán kinh tế, thương mại chưa thực sự chủ động, tích cực bảo vệ, bảo hộ các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, mối quan hệ giữa cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ ta ở nước ngoài với doanh nghiệp trong nước có đầu tư ra nước ngoài còn rất lỏng lẻo, hình thức nên khi có vụ việc tranh chấp xảy ra, hầu như không có sự hỗ trợ kịp thời và hiệu quả của cơ quan nhà nước. Vai trò của các Hội, Hiệp hội cũng rất yếu.
Tình hình trên đây cho thấy hội viên của Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia đang gặp rất nhiều khó khăn khi muốn mở rộng hợp tác kinh tế và đầu tư ra nước ngoài trong khi hoạt động của Hội lại bị bó hẹp trong phạm vi hoạt động trên địa bàn hai nước Lào và Campuchia. Tình hình này càng trở nên bức xúc vì họ đã nhìn thấy nhiều cơ hội mới, rất thuận lợi đang được mở ra khi Cộng đồng kinh tế ASEAN chính thức được thành lập vào cuối năm 2015.
III. Cộng đồng kinh tế ASEAN: nhiều cơ hội mới đang được mở ra cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) dự kiến sẽ được thành lập vào cuối năm 2015 được xem là một bước ngoặt đánh dấu sự hòa nhập toàn diện của các nền kinh tế Đông Nam Á. Điều này đồng nghĩa với việc mở ra cơ hội to lớn về hợp tác và tăng trưởng kinh tế, tạo môi trường thuận lợi về thương mại và đầu tư cho các quốc gia ASEAN và các nước đối tác.
Với việc thành lập AEC, từ năm 2015 ASEAN sẽ trở thành: (i) Một thị trường duy nhất và một cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề; (ii) Một khu vực kinh tế có sức cạnh tranh cao; (iii) Một khu vực phát triển kinh tế đồng đều, nhất là thực hiện có hiệu quả Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI); (iv) Một khu vực ASEAN hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu. Đồng thời, ASEAN cũng nhất trí xác định 12 lĩnh vực ưu tiên đẩy nhanh liên kết, đó là: Hàng nông sản; Ô tô; Điện tử; Nghề cá; Các sản phẩm từ cao su; Dệt may; Các sản phẩm từ gỗ; Vận tải hàng không; Thương mại điện tử ASEAN; Chăm sóc sức khoẻ; Du lịch; và Logistics.
Một trong các đặc trưng của AEC là xây dựng một khu vực có sự phát triển kinh tế cân bằng với hai yếu tố: Phát triển các DN nhỏ và vừa (DNNVV) và Sáng kiến hội nhập ASEAN nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển ở cấp độ DNNVV cũng như thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế của các nước trong khu vực để phát triển theo một định hướng thống nhất và tăng cường khả năng cạnh tranh của cả khu vực, giúp các nước tận dụng được cơ hội do quá trình hội nhập AEC mang lại.
Tuy nhiên, mỗi quốc gia với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, sẽ đối mặt với những khó khăn thách thức khác nhau. Việt Nam là quốc gia với xuất phát điểm là nền kinh tế phát triển thấp so với các nước trong khu vực, đồng nghĩa sẽ đương đầu với nhiều thách thức hơn so với các quốc gia khác.
Bên cạnh những thách đặt ra, AEC cũng sẽ mở ra nhiều cơ hôi mới cho các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam vừa có cơ hội lớn hơn trong việc mở rộng thị trường với 600 triệu dân, đồng thời vừa có cơ hội tiếp cận với thị trường rộng lớn hơn là những đối tác của ASEAN, vì ASEAN có một số hiệp định thương mại tự do với các đối tác như Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và một số nước khác thông qua các thỏa thuận Thương mại tự do (FTAs) riêng rẽ.
Khi AEC được thành lập, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tiếp cận thị trường của Việt Nam sẽ được cải thiện bởi môi trường thương mại hiệu quả, minh bạch và dễ dự đoán, cùng với việc đơn giản hóa thủ tục hải quan, giảm thiểu chi phí cho các giao dịch thương mại quốc tế sẽ góp phần tạo dựng một môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh.
Cơ hội tiếp cận thị trường mới dành cho các nhà xuất khẩu Việt Nam được mở rộng với việc loại bỏ các rào cản thương mại và dịch vụ. Quy tắc xuất xứ linh hoạt, hiện đại, tính minh bạch hóa cao là một số trong nhiều yếu tố thuận lợi hóa. Ví dụ như, trong ASEAN có chứng nhận xuất xứ hàng hóa, với 60% sản phẩm được sản xuất từ ASEAN thì được chứng nhận là sản phẩm trong ASEAN, do đó sẽ được hưởng lợi thế trong các hiệp định thương mại tự do trong ASEAN, nhất là thương mại liên quan đến hội nhập kinh tế.
Cắt giảm thuế quan là một thuận lợi giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Thuế suất trong ASEAN sẽ về từ 0% - 5%, nếu sản xuất để xuất khẩu thì sẽ không phải chịu thuế suất hoặc thuế suất thấp. Đồng thời, nhập khẩu máy móc cũng không phải chịu thuế suất, điều này sẽ tạo điều kiện cho việc hạ giá thành và tăng chất lượng của sản phẩm cũng như tăng tính cạnh tranh của hàng hóa.
Đặc biệt, tham gia vào môi trường AEC sẽ buộc Việt Nam đẩy mạnh cải cách trong nước, đặc biệt là hoàn thiện thể chế kinh tế và hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong bối cảnh mới. Đồng thời, Việt Nam có cơ hội đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào nền hành chính điện tử theo quy định của Hiệp định khung e-ASEAN đã được ký kết. Do đó, khuyến khích sự tăng trưởng của thương mại điện tử trong khu vực ASEAN, tự do hóa thương mại trong các sản phẩm công nghệ thông tin, dịch vụ và đầu tư, và phát triển một xã hội điện tử trong ASEAN.
Hiện tại, nhiều cơ hội đã được mở ra, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp của Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia nói riêng cần phải khẩn trương hành động để trước mắt phải giữ được thị trường trong nước, tiếp đó là mở rộng thị trường sang các nước ASEAN.
Sức ép đặt ra đối với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đang rất lớn. Nếu khẩn trương hành động, Việt Nam sẽ trở thành công xưởng thế giới, là nơi thu hút các nguồn vốn đầu tư quốc, tạo ra nhiều sản phẩm mang thương hiệu Việt để xuất khẩu đến các nước ASEAN và nhiều nước khác trên thế giới. Đồng thời với mở rộng xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam có thể mở rộng hợp tác kinh tế và đầu tư sang địa bàn các nước ASEAN dựa trên lợi thế của chính mình.
Ngược lại, nếu các doanh nghiệp Việt Nam do dự, chậm hành động thì sẽ nhanh chóng suy giảm sức cạnh tranh và năng lực sản xuất, tự để đất nước trở thành thị trường tiêu thụ sản phẩm màu mỡ cho các nước ASEAN khác.
Chính vì vậy, để tồn tại, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp của Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia nói riêng đang rất cần đoàn kết, liên kết với nhau, phát huy sức mạnh cộng đồng, tận dụng tốt những cơ hội hợp tác kinh tế và đầu tư mới do việc hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN đem lại để cùng nhau vượt qua thử thách, đưa nền kinh tế và đất nước tiếp tục phát triển.
Xuất phát từ những khó khăn của Hội khi phạm vi hoạt động bị bó hẹp trên địa bàn Lào, Campuchia và trong bối cảnh Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ được thành lập vào tháng 12 năm 2015, các hội viên Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào – Campuchia nhất trí kiến nghị cần sớm đổi tên Hội thành Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN để có thêm năng lực hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp hội viên.
IV. Một số yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra cho Hội sau khi đổi tên thành Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN
1) Các yêu cầu đặt ra
Căn cứ vào bối cảnh kinh tế quốc tế và khu vực trong giai đoạn từ nay tới năm 2020, hòa nhịp đi lên cùng cả nước và toàn thể cộng đồng doanh nghiệp, dự kiến sau khi trở thành Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN, hoạt động của Hội phải đáp ứng một số yêu cầu sau:
Một là tăng mạnh tính chuyên nghiệp và uy tín của Hội, làm cho Hội thực sự là một tổ chức vững mạnh, đại diện xứng đáng cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế ASEAN. Tập hợp, huy động trí tuệ, năng lực của các hội viên để khai thác các nguồn tài chính, làm ra những sản phẩm có giá trị đáp ứng yêu cầu của Đảng, Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp; giúp doanh nghiệp, sản phẩm hàng hóa Việt Nam có chỗ đứng vững chắc, có sức cạnh tranh trong Cộng đồng kinh tế ASEAN. Tạo dựng quan hệ hợp tác kinh tế và đầu tư giữa các doanh nghịêp hội viên và làm cầu nối giữa các doanh nghịêp Việt Nam với các doanh nghịêp ASEAN và các nước khác. Tăng cường phổ biến thông tin, tuyên truyền quảng bá thương hiệu, tư vấn pháp lý và các hình thức hỗ trợ khác nhằm bảo vệ, giúp đỡ các hội viên và các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang các nước ASEAN và hỗ trợ các doanh nghiệp ASEAN đầu tư vào Việt Nam. Chủ động xây dựng các nguồn thu ổn định từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật để tự trang trải kinh phí hoạt động.
Hai là giữ vững và tăng cường mối liên lạc, hợp tác thường xuyên, có hiệu quả giữa Trung ương Hội và các hội viên; mở rộng mạng lưới hội viên ở các ngành, lĩnh vực và các hội địa phương. Chú trọng kết nạp hội viên là các doanh nghiệp có quy mô lớn và vừa, các doanh nhân, nhà khoa học, nhà quản lý đương chức hoặc đã về hưu có trình độ, có kinh nghiệm, có khả năng và nhiệt tình tham gia phát triển Hội. Phát triển hình thức hội viên tập thể ở các địa phương và hội thành viên là các doanh nghịêp Việt Nam ở nước ngòai với cơ chế, hình thức thích hợp. Nghiên cứu đổi mới mô hình hoạt động của Hội phù hợp với tình hình và đặc điểm của từng loại hội viên để mang lại hiệu quả thiết thực cho họ. Mở rộng hợp tác với các hội ngành nghề khác.
Ba là phát triển các nhóm nghiên cứu kinh tế vĩ mô và vi mô trong Hội, tiến tới tổ chức hội thảo, diễn đàn hàng năm về tình hình và triển vọng kinh tế vĩ mô Việt Nam - ASEAN, qua đó đóng góp ý kiến với Đảng và Nhà nước, hội thảo hàng năm về kinh tế vi mô để gợi mở phương hướng đầu tư, lĩnh vực, sản phẩm, địa bàn đầu tư cho các doanh nghiệp. Tiếp tục tham gia có hiệu quả các đề tài, dự án hợp tác với các cơ quan nhà nước và tổ chức các hội thảo, hội nghị lấy ý kiến các hội viên về sửa đổi, bổ sung chính sách hợp tác với Lào, Campuchia và các nước ASEAN khác, báo cáo các cơ quan hữu quan của Đảng và Nhà nước...
2) Những nhiệm vụ trọng tâm trong Chương trình hoạt động nhiệm kỳ 2015-2020
Một là nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện quy chế hoạt động và cơ cấu tổ chức của Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN. Phấn đấu trong khoảng 3 tháng kể từ kết thúc Đại hội sẽ xây dựng được một bộ tương đối hoàn chỉnh các quy chế hoạt động của Hội.
Sắp xếp, tổ chức lại một số cơ quan chuyên môn ở Trung ương Hội và các tổ chức khác thuộc Hội như các trung tâm đào tạo, tư vấn và cung cấp thông tin hỗ trợ các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong quá trình đẩy mạnh hợp tác kinh tế và đầu tư giữa Việt Nam và các nước ASEAN.
Xúc tiến hình thành một số Hội ở địa phương; các chi hội ngành nghề tại những tổ chức, doanh nghiệp và địa phương... có nhu cầu và điều kiện thuận lợi, tập trung vào các tổ chức, doanh nghiệp, địa phương đang có nhiều hoạt động hợp tác kinh tế và đầu tư lớn với các nước ASEAN. Tổ chức văn phòng đại diện hoặc cá nhân đại diện tại một số nước ASEAN căn cứ vào nhu cầu và khi điều kiện tài chính cho phép.
Hai là đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá Hội và phát triển hội viên. Tổ chức một số đợt tuyên truyền, vận động với quy mô lớn nhằm quảng bá tôn chỉ mục đích, vai trò, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động của Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN tới các đối tượng đang có các quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư với các nước ASEAN hoặc quan tâm tới phát triển quan hệ hợp tác kinh tế và đầu tư với các nước ASEAN. In tờ rơi quảng bá về Hội để giới thiệu với các đối tác. Hoàn thiện, tiến tới đăng ký chính thức website của Hội với cơ quan nhà nước. Đăng ký chính thức website cho tờ báo Mê Kông của Hội.
Phát huy năng lực, trí tuệ của các hội viên. Nghiên cứu các hình thức phù hợp để giữ mối liên lạc thường xuyên giữa Trung ương Hội và các hội viên. Cần định kỳ cung cấp thông tin cho hội viên để hội viên biết Hội đang làm gì, cần sự tham gia của hội viên như thế nào... Ngược lại, hội viên cũng có thể mang lại cho Hội những dự án tài chính hay quan điểm ý kiến phản biện có giá trị.
Đẩy mạnh công tác phát triển hội viên; phát triển mạng lưới hội viên ở các ngành, lĩnh vực và các hội địa phương. Chú trọng kết nạp hội viên là các doanh nghiệp có quy mô lớn và vừa, các doanh nhân, nhà khoa học, nhà quản lý đương chức hoặc đã về hưu có trình độ, có kinh nghiệm và có khả năng tham gia phát triển Hội. Nghiên cứu tổ chức các hình thức hoạt động của Hội phù hợp với tình hình và đặc điểm của từng loại hội viên để mang lại hiệu quả thiết thực cho họ.
Từng bước mở rộng mối quan hệ hợp tác của Hội với các tổ chức, hội, hiệp hội, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước có nhiều quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ASEAN.
Khuyến khích hội viên tuyên truyền, quảng bá rộng rãi các thông tin về Hội. Khuyến khích hội viên sử dụng tên và biểu tượng của Hội trong các hoạt động có liên quan đến thực hiện tôn chỉ, mục đích của Hội. Khuyến khích hội viên dùng danh nghĩa là hội viên của Hội để thực hiện và công bố các công trình nghiên cứu khoa học...
Ba là nâng cao tính chuyên nghiệp và uy tín của Hội, làm cho Hội thực sự là một tổ chức vững mạnh, đáng tin cậy, hữu ích và cần thiết đối với các hội viên, cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức trong nước và khu vực.
Mục tiêu then chốt của Hội trong nhiệm kỳ này là nâng cao tính chuyên nghiệp và uy tín của Hội, làm sao để các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thấy cần phải tham khảo ý kiến, quan điểm của Hội trong các hoạt động kinh tế, nhất là trong hợp tác với các nước ASEAN và cộng đồng kinh tế ASEAN.
Về tài chính, từng bước thiết lập được các nguồn thu ổn định, chủ động từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật để đảm bảo tự trang trải kinh phí hoạt động thường xuyên, tiến tới tự chủ nguồn tài chính để đầu tư tiếp tục phát triển.
Về hoạt động chuyên môn, hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư, tăng cường các hoạt động tư vấn và tham gia phản biện, giám định xã hội theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước và các tổ chức khác có thẩm quyền. Chủ trì hoặc tham gia phối hợp với các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến cơ sở thuộc ngành Kế hoạch và Đầu tư, với Phân ban hợp tác Việt Nam - Lào, Phân ban hợp tác Việt Nam - Campuchia và với các cơ quan, tổ chức khác trong nước và quốc tế tổ chức một số cuộc hội thảo, hội nghị, diễn đàn, triển lãm, hội chợ trong nước và quốc tế về phát triển và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế và đầu tư Việt Nam - ASEAN, tuyên truyền về Cộng đồng kinh tế ASEAN... tạo cơ hội cho các hội viên được gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và thông tin hợp tác kinh tế và đầu tư với các nước ASEAN.
Các nội dung có thể kêu gọi tài trợ để tập trung thực hiện hàng năm là:
- Chủ trì tổ chức diễn đàn hàng năm về tình hình và triển vọng kinh tế vĩ mô của Việt Nam và các nước ASEAN (Diễn đàn kinh tế ASEAN I), qua đó đóng góp ý kiến với Đảng và Nhà nước về cơ chế chính sách và phương hướng hợp tác kinh tế với các nước này.
- Chủ trì tổ chức diễn đàn hàng năm về tình hình và triển vọng của một số ngành, sản phẩm quan trọng của Việt Nam và các nước ASEAN (Diễn đàn kinh tế ASEAN II hay Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam - ASEAN), qua đó đề xuất, gợi mở phương hướng hợp tác thương mại, đầu tư sang các nước ASEAN cho các doanh nghiệp Việt Nam và cho các doanh nghiệp ASEAN muốn hợp tác thương mại, đầu tư với Việt Nam.
- Tiếp tục tham gia có hiệu quả các đề tài, dự án hợp tác với các cơ quan nhà nước; tổ chức các hội thảo, hội nghị lấy ý kiến các hội viên về sửa đổi, bổ sung chính sách hợp tác với các nước ASEAN, báo cáo các cơ quan hữu quan của Đảng và Nhà nước...
- Chủ trì tổ chức hoặc tham gia tổ chức định kỳ hội chợ kết hợp triển lãm thành tựu phát triển hợp tác kinh tế và đầu tư giữa Việt Nam với các nước ASEAN, trước hết tại Việt Nam, từng bước luân phiên tại các nước ASEAN khác, đồng thời trao các giải thưởng tôn vinh các hội viên, sản phẩm, địa phương... tiêu biểu của Việt Nam và các nước ASEAN trong sự nghiệp này. Liên kết với một số cơ quan nhà nứơc, tổ chức xã hội - nghề nghiệp xây dựng tiêu chuẩn, lô gô (biểu tượng) sản phẩm ASEAN để trao tặng cho các loại sản phẩm thương mại trên thị trường ASEAN đạt được tiêu chuẩn này.
- Thực hiện các hoạt động tư vấn, chuyên môn để vừa tạo nguồn thu tài chính cho Hội, vừa tạo điều kiện cho các hội viên đem kiến thức và kinh nghiệm giúp Chính phủ, tổ chức, doanh nghiệp, địa phương và nhân dân các nước ASEAN phát triển hợp tác kinh tế và đầu tư đa phương và song phương, tập trung vào:
- Thu thập, cung cấp thông tin kinh tế, xã hội, môi trường, đặc biệt là các thông tin liên quan đến chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển hợp tác kinh tế của nước ta với các nước ASEAN cũng như của các nước ASEAN với nước ta.
- Tổ chức giảng dạy, đào tạo, hướng dẫn nâng cao các kỹ năng chuyên môn, trang bị kiến thức, hiểu biết về luật pháp, phong tục tập quán và cung cấp những thông tin khác về môi trường đầu tư của các nước ASEAN cho các tổ chức, doanh nghiệp và nhà đầu tư Việt Nam; đồng thời cũng cung cấp các dịch vụ tương tự cho các tổ chức, doanh nghiệp, nhà đầu tư các nước ASEAN khi tiến hành các hoạt động hợp tác kinh tế và đầu tư với Việt Nam.
- Tìm nguồn tài trợ và tổ chức thực hiện các dự án, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho hội viên và các tổ chức, cá nhân quan tâm nhằm nâng cao năng lực trong xóa đói, giảm nghèo, tăng sức cạnh tranh, tăng năng lực chuyên môn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hợp tác với các cơ quan kế hoạch và đầu tư, với các địa phương, các cơ quan, tổ chức khác và các doanh nghiệp, cá nhân của Việt Nam và các nước ASEAN tiến hành điều tra thu thập và cung cấp thông tin chuyên sâu về địa bàn, lĩnh vực đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam và các nước ASEAN theo yêu cầu riêng của doanh nghiệp và nhà đầu tư Việt Nam và các nước ASEAN.
- Tham gia đấu thầu và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu khoa học, giáo dục đào tạo... với các cơ quan nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp... trong cộng đồng ASEAN và với các tổ chức quốc tế và các quốc gia khác.
- Thực hiện các dịch vụ tư vấn và trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp, nhà đầu đầu tư Việt Nam hoạt động sản xuất, đầu tư tại các nước ASEAN và các doanh nghiệp, nhà đầu tư các nước ASEAN hoạt động sản xuất, đầu tư tại Việt Nam phù hợp với pháp luật của Việt Nam, các nước ASEAN và thông lệ quốc tế. Ưu tiên cung cấp các dịch vụ tư vấn, chuyên môn và trợ giúp pháp lý đối với các hội viên của Hội.
- Hỗ trợ các hội viên khi hội viên tham gia các hoạt động sản xuất, đầu tư, thương mại, công tác, du lịch... tại các nước ASEAN. Ví dụ hỗ trợ tìm dự án, địa điểm, thị trường, phương hướng đầu tư, giúp đỡ để tiếp xúc với các đối tác, cơ quan, tổ chức nước bạn...
- Tổ chức lại các hoạt động xuất bản của Hội; nâng cao chất lượng, uy tín của tạp chí Hợp tác và Phát triển, Thời báo Mê Kông, cổng thông tin điện tử. Thường xuyên công bố các hoạt động của Hội trên các phương tiện thông tin của Hội. Nghiên cứu xây dựng Cổng thông tin phát triển hợp kinh tế Việt Nam – ASEAN về kinh tế, thương mại và đầu tư.
Bốn là, tổ chức các hoạt động đối ngoại, nâng cao uy tín quốc tế của Hội, làm cho Hội thực sự là một tổ chức đại diện xứng đáng cho các doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế ASEAN.
Duy trì, phát triển quan hệ của Hội với các cơ quan Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức, các hiệp hội và các hội xã hội - nghề nghịêp trong nước. Thiết lập quan hệ với một số địa phương, nhất là các địa phương có khả năng thành lập các chi hội phát triển hợp tác kinh tế với các nước ASEAN, các địa phương có biên giới với Lào và Campuchia.
Thường xuyên tiếp xúc với các Đại sứ quán các nước ASEAN tại Việt Nam và Đại sứ quán Việt Nam tại các nước ASEAN để thông báo về tình hình và phương hướng hoạt động Hội, tạo cơ sở để giao lưu, hợp tác và trao đổi thông tin. Thiết lập quan hệ với một số cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tại các nước ASEAN, trước hết với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc ngành Kế hoạch và Đầu tư của các nước ASEAN.
Tổ chức các hoạt động giao lưu với các cơ quan, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và cá nhân của Việt Nam và các nước ASEAN trên cơ sở tuân thủ quy định pháp luật của mỗi nước để thực hiện tôn chỉ, mục đích của Hội nhằm góp phần tăng cường sự hợp tác kinh tế giữa các nước ASEAN, đồng thời phát huy khả năng của các tổ chức ASEAN để hỗ trợ quá trình phát triển kinh tế và đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sang các nước này phù hợp với nhu cầu của họ và phù hợp với đường lối hợp tác kinh tế với các nước ASEAN của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Tìm hiểu khả năng và đăng ký gia nhập một số tổ chức quốc tế phù hợp với tôn chỉ mục đích của Hội; tham gia ký kết các thỏa thuận hợp tác quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và với sự đồng ý của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Động viên trí tuệ, năng lực, kinh nghiệm của các hội viên nhằm tìm nhiều dự án và các nguồn tài chính trong và ngòai nước cho Hội. In các tờ rơi giới thiệu về Hội, dịch các kết quả nghiên cứu kinh tế vĩ mô và vi mô và các kết quả khác... để trao đổi với các đối tác ASEAN. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tiến tới thành lập văn phòng đại diện của Hội tại các nước ASEAN.
*****

Trên đây là một số nội dung giải trình, báo cáo Đại hội để Đại hội xem xét ra Nghị quyết đổi tên Hội thành Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN. Sau Đại hội, những nội dung này sẽ được biên tập, báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ để giải trình, đề nghị cho phép Hội được chính thức đổi tên.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét