Thứ Năm, 19 tháng 3, 2015

Báo cáo công tác nhiệm kỳ I, kế hoạch nhiệm kỳ II

BÁO CÁO TỔNG KẾT CÔNG TÁC NHIỆM KỲ 2008-2014 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG NHIỆM KỲ 2015-2020
(DỰ THẢO LẦN 1)
 Phần I
Tình hình hoạt động của Hội trong nhiệm kỳ 2008-2014
Hoạt động của Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia nhiệm kỳ I (2008-2014) đã diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp. Bên cạnh những diễn biến bất lợi về địa chính trị, chiến tranh, khủng bố, thời tiết, dịch bệnh và môi trường, về kinh tế, từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ cuối năm 2008, nền kinh tế thế giới rơi vào cuộc khủng hoảng sâu sắc nhất kể từ đại khủng hoảng 1929-1933, làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới tụt từ 5,7%/năm trong 2 năm 2006-2007 xuống còn 3% năm 2008 rồi 0% năm 2009 và mới phục hồi về khoảng 3,3%/năm trong 3 năm gần đây. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của các nước đang phát triển châu Á nói chung, khu vực ASEAN nói riêng cũng đều chậm lại đáng kể, từ khoảng 8% trước kia xuống còn khoảng 6,6% trong 3 năm gần đây.

Cùng chung hoàn cảnh với kinh tế thế giới, kinh tế ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đều gặp khó khăn; tốc độ tăng trưởng kinh tế đều giảm. Ở Campuchia, nếu như trong những năm 1996-2007 tốc độ tăng trưởng trung bình đạt trên 8%/năm thì 5 năm gần đây chỉ đạt khoảng 7-7,5%. Ở nước ta, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm mạnh hơn, từ 7,1%/năm xuống chỉ còn khoảng 5,5%. Riêng ở Lào, tốc độ tăng trưởng được duy trì khá (8%/năm) nhưng những khó khăn xuất hiện ngày càng lớn; ngoại thương và ngân sách mất cân đối trầm trọng trong khi nội lực phát triển cạn dần.
Bối cảnh khó khăn trên đã đặt Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia và các hội viên, đặc biệt là các hội viên doanh nghiệp, trước rất nhiều thử thách quyết liệt, có lúc tưởng chừng như không thể vượt qua. Tuy nhiên, nhờ những nỗ lực của Ban lãnh đạo Trung ương Hội và toàn tập thể hội viên, Hội vẫn duy trì được họat động, có bước trưởng thành, trên một số mặt đã đạt được những kết quả quan trọng. Dưới đây, xin kiểm điểm lại một số kết quả thực hiện Chương trình hoạt động đã được Đại hội nhiệm kỳ I (2008-2014) của Hội thông qua.
1) Về xây dựng, tổ chức hoạt động Hội
Đến nay, gần 7 năm sau Đại hội thành lập, tổ chức và hoạt động của Hội đã tương đối ổn định và đi vào nề nếp. Đã xây dựng nhiều quy chế hoạt động trong Hội như quy chế hoạt động của các cơ quan lãnh đạo; quy chế thành lập, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quy chế hoạt động của các cơ quan và tổ chức trực thuộc; quy chế quản lý tài chính, kế toán; quy chế tuyển dụng, sử dụng lao động, chế độ tiền lương và các chế độ chính sách đối với người lao động làm việc cho Hội...
Trong nhiệm kỳ I, Hội đã thành lập nhiều tổ chức trực thuộc nhưng do điều kiện hoạt động khó khăn nên đã có một số tổ chức phải giải thể. Một số tổ chức trực thuộc Hội cũng phải điều chỉnh cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đến nay, ngoài các Ban và Văn phòng ở Trung ương Hội, cơ cấu tổ chức Hội gồm 7 trung tâm hợp tác và làm dịch vụ hỗ trợ phát triển; 2 viện nghiên cứu, đào tạo, tư vấn; 2 hội địa phương, 3 văn phòng đại diện (tại Lào, Campuchia và thành phố Hồ Chí Minh), 1 tờ báo và 1 tạp chí.
Thuận lợi lớn nhất của Hội trong giai đoạn vừa qua là có sự quan tâm, ủng hộ của các cơ quan Trung ương và nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong đó trực tiếp là các đồng chí Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc, Bùi Quang Vinh các đồng chí Thứ trưởng, nguyên Thứ trưởng, các đồng chí lãnh đạo một số Cục, Vụ, Viện và Văn phòng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Nhờ đó, Hội vẫn duy trì được hoạt động thường xuyên, làm được nhiều việc theo tôn chỉ mục đích của Hội, đóng góp với Đảng, Chính phủ và hỗ trợ cho nhiều hội viên trong lĩnh vực hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch với các nước Lào, Campuchia và Myanmar.
Về nhân sự lãnh đạo, tháng 3/2012, vì lý do sức khỏe, ông Lại Quang Thực đã thôi không làm Chủ tịch Hội. Ban chấp hành Hội đã bầu ông Phương Hữu Việt, Chủ tịch Ngân hàng Việt Á, làm Chủ tịch.
2) Hoạt động tuyên truyền về Hội và phát triển hội viên:
Hội đã tổ chức một số đợt tuyên truyền, quảng bá về Hội tại ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Ngay sau khi thành lập, Trung ương Hội đã tổ chức nhiều đoàn công tác sang Lào, Campuchia tiếp xúc với lãnh đạo cấp cao và cộng đồng doanh nghiệp của hai nước để quảng bá về Hội và tạo mối quan hệ hợp tác. Hiện nay, đã có nhiều tổ chức, cá nhân ở hai nước này tham gia hợp tác với Hội.
Ở trong nước, Hội chú trọng phát triển hội viên trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, địa phương đang hoặc thực sự mong muốn triển khai hoạt động hợp tác kinh tế và đầu tư với Lào và Campuchia. Nếu như lúc đầu gửi đăng ký tới Bộ Nội vụ xin thành lập, Hội chỉ có 43 hội viên tổ chức, doanh nghiệp và khoảng 120 hội viên cá nhân thì đến nay, theo đăng ký, Hội có khoảng 1100 hội viên chính thức, gồm khoảng 500 hội viên là các tổ chức, doanh nghiệp và khoảng 600 hội viên cá nhân. Nhiều hội viên là các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đóng vai trò hàng đầu trong hợp tác kinh tế và đầu tư của nước ta với hai nước Lào và Campuchia. Một số Hội của doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động ở Lào và Campuchia đã đăng ký làm hội viên tập thể của Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia  như Hội doanh nghiệp Việt Nam tại Campuchia, Hội doanh nghiệp Việt Nam hợp tác và đầu tư ở Lào (Viet – Lao BACI)...
Để cung cấp thông tin cho hội viên, cũng trong năm 2008, Hội đã xây dựng được trang thông tin điện tử và bản tin của Hội; đến nay, Hội đã có trang web tương đối tốt, đã có tờ báo và tạp chí riêng (thời báo Mêkông và tạp chí Hợp tác và Phát triển). Những năm gần đây hội có tổ chức một hoạt động phát triển hội viên ở qui mô nhỏ.
Hội đã tổ chức nhiều hoạt động xã hội khác để quảng bá hội như tổ chức đòan xe đạp từ Hà Nội đi Viêng Chăn trong Chương trình hưởng ứng năm hữu nghị Việt Nam – Lào (2012); chủ trì phối hợp với Hội doanh nghịêp Việt Nam hợp tác và đầu tư ở Lào và Bộ Kế hoạch và Đầu tư... tổ chức thành công Chương trình chào mừng kỷ niệm 450 năm thủ đô Viêng Chăn, 1000 năm Thăng Long – Hà Nội tại thủ đô Viêng Chăn (2010); tổ chức giao lưu hội viên nhân kỷ niệm 3 năm thành lập Hội (2011)... Ngòai ra Hội cũng chủ trì hoặc tham gia tổ chức nhiều đợt làm thiện nguyện tại các tỉnh Việt Nam và Lào có chung đường biên giới...
3) Triển khai một số hoạt động chuyên môn, hợp tác kinh tế và đầu tư
Căn cứ tôn chỉ mục đích và nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều lệ Hội, trong nhiệm kỳ đầu tiên, Hội thực hiện được nhiều hoạt động chuyên môn, hợp tác kinh tế và đầu tư, trong đó nổi bật là:
Xuất bản các ấn phẩm hướng dẫn đầu tư sang Lào và Campuchia như sách “Hệ thống các văn bản pháp quy đầu tư vào Lào”, “Văn bản hướng dẫn hợp tác kinh tế, đầu tư, thương mại với Campuchia” (2008, 2009), bộ sách 3 tập “Văn bản hợp tác Việt Nam – Lào” (2000-2012), hợp tác với Cục Đầu tư nước ngòai Bộ Kế hoạch và Đầu tư xuất bản 2 tài liệu “Hướng dẫn đầu tư, thương mại vào Campuchia và Lào” (2010); Báo cáo “Tình hình đầu tư của Việt Nam vào Lào và Campuchia 2013”...
Đã tổ chức hàng năm nhiều diễn đàn, hội nghị, hội thảo, hội chợ với các chủ đề khác nhau để giới thiệu, phân tích, đánh giá về môi trường đầu tư, tình hình đầu tư, cơ chế chính sách đầu tư và các dự án kêu gọi đầu tư của Lào và Campuchia tại nhiều địa phương trên cả nước và tại hai nước bạn, như các Hội nghị góp ý về đầu tư vào Lào và Campuchia (2010, 2011), Tọa đàm về cơ chế chính sách đầu tư thương mại Việt Nam – Lào – Campuchia năm (2011, 2013); Diễn đàn hợp tác phát triển và hội chợ quốc tế thương mại và đầu tư tiểu vùng Mê Kông thường xuyên luân phiên tại ba nước (từ 2009 đến 2013); Tọa đàm giới thiệu đầu tư vào một số tỉnh ở Lào và Campuchia (2010, 2012); Đối thoại doanh nghiệp ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia; Hội thảo về hợp tác 6 nước tiểu vùng sông Mê Kông...
Chủ trì hoặc tham gia với các hội, hịêp hội và cơ quan khác tổ chức các chương trình trao các giải thưởng tôn vinh doanh nghiệp, doanh nhân tiêu biểu trong hợp tác Việt Nam, Lào và Campuchia. Trong 2 năm gần đây (2013-2014) đã mở rộng các hoạt động sang Myanmar. Đặc biệt năm 2013 đã tổ chức rất thành công “Tọa đàm Myanmar – thị trường mới nổi”, thu hút rất đông các đối tượng tham gia.
Hàng năm, Hội đều có các hoạt động phản biện xã hội và tư vấn chính sách liên quan đến hợp tác kinh tế và đầu tư của nước ta với Lào và Campuchia. Gần đây nhất là góp ý sửa đổi Nghị định 78/2006/NĐ-CP của Chính phủ về đầu tư trực tiếp ra nước ngòai, góp ý sửa đổi “Luật đầu tư” (2014), dưới hình thức hội nghị và báo cáo gửi Chính phủ, được đánh giá cao.
Từ năm 2011 đến 2014 đã chủ trì cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và ngân hàng Việt Á tổ chức hàng năm Chương trình Mê Kông dưới hình thức diễn đàn với nhiều chủ đề khác nhau. Mới nhất là Diễn đàn Mê Kông thường niên 2014 với chủ đề “Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015: Cơ hội và thách thức” vừa được tổ chức vào tháng 10/2014, thu hút hơn 200 khách tham dự. Kết thúc diễn đàn, đã xây dựng các kỷ yếu làm tài liệu cho các doanh nghiệp, các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách. Các thông tin, kiến nghị hữu ích được Hội tổng hợp gửi đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý.
 Hội đã tiến hành thu thập, cung cấp thông tin kinh tế, xã hội, môi trường, đặc biệt là các thông tin liên quan đến chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển hợp tác kinh tế của nước ta với Lào và Campuchia cũng như của Lào và Campuchia với nước ta. Trên cơ sở đó, đã triển khai có hiệu quả một số tư vấn chính sách cho Nhà nước, trước hết là Kế hoạch và Đầu tư, như hòan thành báo cáo “Chiến lược đầu tư vào Campuchia đến năm 2015, tầm nhìn 2020”, “Chiến lược hợp tác kinh tế và đầu tư vào Lào đến năm 2015, tầm nhìn 2020”, chuyên đề “Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia”, Báo cáo “Tình hình đầu tư vào Lào và Campuchia”...
Đã tổ chức nhiều lớp đào tạo, hướng dẫn nâng cao các kỹ năng chuyên môn,  trang bị kiến thức, hiểu biết về luật pháp, phong tục tập quán và cung cấp những thông tin khác về môi trường đầu tư của Lào và Campuchia cho các tổ chức, doanh nghiệp và nhà đầu tư Việt Nam. Trong các năm 2013-2014 đã tham gia thực hiện Dự án đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các doanh nghịêp vừa và nhỏ, Dự án đào tạo cán bộ hợp tác xã...
Đã thực hiện một số dịch vụ tư vấn và trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp, nhà đầu đầu tư Việt Nam hoạt động sản xuất, đầu tư tại Lào và Campuchia. Đã phối hợp với các doanh nghiệp hội viên tổ chức nhiều đoàn sang khảo sát, giới thiệu đầu tư tại Lào và Campuchia. Đã tổ chức một số đoàn du lịch sang Lào và Campuchia đáp ứng yêu cầu của các hội viên...
4) Tổ chức các hoạt động đối ngoại
Trong nhiệm kỳ 2008-2014, về đối ngoại trong nước, Hội đã xây dựng, từng bước mở rộng mối quan hệ hợp tác của Hội với các cơ quan, đơn vị thuộc ngành Kế hoạch và Đầu tư, với các Phân ban hợp tác Việt Nam - Lào, Phân ban hợp tác Việt Nam - Campuchia, với các Hội hữu nghị Việt Nam - Lào, Hội hữu nghị Việt Nam - Campuchia. Đã tạo lập quan hệ hợp tác với nhiều Hội, Hiệp hội khác cũng như một số tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trên cả nước.
Về đối ngoại ngòai nước, Hội đã duy trì tiếp xúc thường xuyên với các Đại sứ quán Lào, Campuchia, Myanmar tại Việt Nam và các Đại sứ quán Việt Nam tại Lào, Campuchia, Myanmar để thông báo về việc hình thành và phương hướng hoạt động của Hội, tạo cơ sở để giao lưu, hợp tác và trao đổi thông tin. Đã thiết lập quan hệ với một số cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tại ba nước này, đặc biệt với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc ngành Kế hoạch và Đầu tư của hai nước Lào và Campuchia.
Nhìn chung lại chặng đường gần 7 năm vừa qua có thể nói tuy mới ra đời và phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức rất gay gắt, nhưng Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia đã làm được khá nhiều việc theo đúng tôn chỉ mục đích đề ra, thực hiện được hầu hết các nhiệm vụ đề ra trong Chương trình hoạt động nhiệm kỳ I (2008-2014).
Tuy nhiên, so với mục tiêu của Chương trình hoạt động đề ra, số lượng công việc thực hiện thì nhiều nhưng kết quả và chất lượng thu được còn tương đối khiêm tốn. Vai trò và ảnh hưởng của Hội tới cộng đồng doanh nghịêp có hợp tác kinh tế và đầu tư với hai nước Lào va Campuchia còn thấp, chưa tương xứng với mục tiêu đề ra.
Nhiều việc Hội có thể làm được nhưng do khó khăn về tài chính, nhân sự nên chưa thể triển khai. Cơ sở vật chất và nguồn thu tài chính rất hạn hẹp; có những lúc không đủ nguồn thu để duy trì bộ máy hoạt động.
Do bối cảnh khó khăn chung của toàn nền kinh tế, của các doanh nghiệp hội viên và bản thân Trung ương hội nên trong nhiệm kỳ qua quan hệ giữa Hội và các doanh nghiệp nói chung, các hội viên nói riêng không được duy trì thường xuyên. Hội cũng chưa có nhiều họat động có tác dụng thiết thực với hội viên nên nhiều hội viên không quan tâm tới Hội. Số hội viên đông nhưng sinh hoạt rời rạc, đơn điệu. Chỉ có một tỷ lệ nhỏ hội viên tham gia đóng hội phí.
Nhiều doanh nghiệp hội viên tiến hành các họat động hợp tác với Lào và Campuchia không nhờ đến kênh hỗ trợ của hội và cũng không thông báo hoạt động cho Hội. Trang thông tin điện tử và báo, tạp chí của Hội xuất bản không thường xuyên, cũng không đưa được nhiều tin về họat động của Hội để hội viên biết.
Từ những việc làm được và chưa làm được trong nhiệm kỳ vừa qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm cho nhiệm kỳ tới:
Hai là, cần tăng mạnh tính chuyên nghiệp trong họat động Hội, trước hết là tạo ra những sản phẩm đặc trưng dài hạn của Hội từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật, từ đó chủ động được các nguồn thu ổn định để tự trang trải kinh phí hoạt động. Khuyến khích, tạo điều kiện để các đơn vị, tổ chức trực thuộc và hội viên đẩy mạnh các hoạt động, trên cơ sở đó có thu nhập và đóng góp ổn định cho Trung ương Hội.
Ba là, cần đặc biệt chú trọng công tác hội viên, coi hội viên là nguồn nội lực quan trọng nhất để phát triển Hội. Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để hội viên phát huy được năng lực, kinh nghiệm của mình cho họat động của hội. Phải xây dựng, duy trì quan hệ chặt chẽ giữa Trung ương Hội và một số hội viên có tâm huyết với Hội, với hợp tác Việt-Lào-Campuchia, trước hết là các hội viên doanh nghịêp quy mô vừa đang có nhiều họat động kinh tế, đầu tư, thương mại với các nước bạn.
Bốn là, nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan trung ương Hội để luôn luôn có những sáng kiến tạo công ăn việc làm và hỗ trợ, phối hợp được các hội viên, mang lại những cơ hội và lợi ích thiết thực cho các hội viên. Có thể nói đây luôn luôn là nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển của Hội trong nhiệm kỳ tới.
Năm là, tiếp tục tranh thủ tối đa sự giúp đỡ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, của các cơ quan chính phủ và của một số doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với Hội. Hợp tác với các Bộ, cơ quan chính phủ không chỉ nhằm tạo ra nguồn thu tài chính cho hội mà còn là con đường ngắn nhất để Hội đóng góp với Đảng và Nhà nước về đổi mới các cơ chế chính sách, luật pháp trong hợp tác với Lào, Campuchia và các nước khác.



Phần II
Phương hướng hoạt động của
Hội trong nhiệm kỳ 2015-2020

1) Dự báo bối cảnh kinh tế quốc tế, trong nước
Nhìn chung, trong giai đoạn 2015-2020, dự báo kinh tế thế giới sẽ có nhiều đặc điểm nổi bật như: (1) Toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày càng mạnh mẽ ; (2) Các liên kết kinh tế song phương, khu vực và đa phương tiếp tục được mở rộng, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế khu vực và thế giới ; (3) Khoa học - công nghệ ngày càng khẳng định vai trò là một trong những lực lượng sản xuất trực tiếp quan trọng nhất của nền kinh tế thế giới ; (4) Kinh tế thế giới vẫn chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn do tác động của những nhân tố địa chính trị, xung đột sắc tộc, tranh chấp tài nguyên và môi trường sống, phân biệt giầu nghèo ; (5) Hoạt động kinh tế thế giới dần chuyển sang khu vực châu Á, biến khu vực này thành một trung tâm kinh tế mới bên cạnh những trung tâm kinh tế đã phát triển mạnh như Mỹ, EU và Nhật Bản ; (6) Các nước đang phát triển ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới.
Trên cơ sở những nhận định trên và căn cứ những xu hướng phục hồi kinh tế gần đây của các nền kinh tế lớn, dự báo tình hình kinh tế thế giới giai đoạn 2015-2020 sẽ lạc quan hơn so với khoảng chục năm vừa qua. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới dự báo đạt khoảng 4%/năm trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. Thương mại và đầu tư thế giới dự báo sẽ tăng trưởng nhanh hơn. Đặc biệt khu vực các nước ASEAN sẽ có nhiều chuyển biến lớn với sự hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015. Đây sẽ là một thị trường duy nhất và một cơ sở sản xuất duy nhất, trong đó hàng hóa, dịch vụ, vốn đầu tư và nhân công có trình độ sẽ được tự do lưu thông giữa tất cả các nước. Do vậy, nhiều cơ hội mới sẽ được mở ra. Tự do hoá kinh tế trong nội bộ khối sẽ làm cho nhiều loại chi phí giảm mạnh và các luồng vốn di chuyển giữa các quốc gia ASEAN ngày càng dễ dàng hơn; sự dịch chuyển các luồng vốn giữa các quốc gia trong khu vực sẽ tăng mạnh, đặc biệt là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Ở trong nước, dự báo tình hình năm 2015 nền kinh tế vẫn tương đối trì trệ, nhưng từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng được tổ chức vào đầu năm 2016, đất nước và nền kinh tế sẽ có bước khởi sắc. Về bối cảnh, có thể nói 2015 sẽ là năm bản lề cho tương lai của nền kinh tế Việt Nam, bởi đây sẽ là năm hình thành nhiều khối tự do mậu dịch mà Việt Nam sẽ tham gia, trước hết là ba khối: Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Liên hiệp châu Âu (Việt Nam – EU AFTA) và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Riêng với hợp tác ASEAN, trong năm 2015, Việt Nam sẽ phải đẩy mạnh việc thực hiện những sáng kiến kinh tế hiện có, đặc biệt là: (i) Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, Hiệp định Khung ASEAN về Dịch vụ và Khu vực Đầu tư ASEAN; (ii) thúc đẩy hội nhập khu vực trong các ngành ưu tiên; (iii) tạo thêm nhiều thuận lợi cho việc đi lại của doanh nhân, lao động lành nghề và nhân tài giữa các nước ASEAN...
Những áp lực của hội nhập, cạnh tranh quốc tế, khu vực cùng với những chủ trương chính sách mới được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng đầu năm 2016 chắc chắn sẽ đòi hỏi Chính phủ cũng như từng doanh nghiệp, cá nhân phải hành động quyết liệt hơn. Thuận lợi và khó khăn đan xen nhau; khó khăn cũng có mặt tích cực là tạo sức ép để phải đổi mới, phải hành động. Thực tiễn cho thấy càng bị đẩy vào hoàn cảnh khó khăn, người Việt và doanh nhân Việt càng trở lên mạnh mẽ. Do vậy, nhìn chung, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016-2020 dự báo sẽ cao hơn so với giai đoạn 2011-2015. Năng suất, chất lượng, hiệu quả dự báo sẽ có bước cải thiện.
2) Nhiệm vụ đặt ra cho Hội
Căn cứ vào bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước nêu trên, hòa nhịp đi lên cùng cả nước và toàn thể cộng đồng doanh nghiệp, hướng tới năm 2015 và những năm tiếp theo, dự kiến Hội sẽ tập trung thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là tổ chức thành công Đại hội đại biểu hội viên toàn quốc lần thứ 2 của Hội. Tại đại hội, để đáp ứng yêu cầu hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN của các doanh nghiệp hội viên và phù hợp với triển vọng mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế của cả nước, dự kiến Hội sẽ được đổi tên thành Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN. Dự kiến viết tắt là VASEAN (đọc là Va xin). Dự kiến giữ nguyên biểu tượng cũ của hội, nhưng thay cụm từ VILACAED bằng VASEAN, tức là thay ILACAED bằng ASEAN còn chữ V to giữ nguyên như trong biểu tượng cũ.
Trong trường hợp không được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép đổi tên hội thành Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN, đề nghị tiếp tục giữ tên Hội hiện nay, nhưng mở rộng phạm vi hoạt động của Hội sang tất cả các nước thuộc Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Khi đó trong các văn bản đã chuẩn bị trình Đại hội, thay cụm từ “hợp tác Việt Nam – ASEAN” bằng cụm từ “hợp tác Việt Nam, Lào, Campuchia và các nước trong khu vực ASEAN”.
Hai là tăng mạnh tính chuyên nghiệp và uy tín của Hội, làm cho Hội thực sự là một tổ chức vững mạnh, đại diện xứng đáng cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế ASEAN. Tập hợp, huy động trí tuệ, năng lực của các hội viên để khai thác các nguồn tài chính, làm ra những sản phẩm có giá trị đáp ứng yêu cầu của Đảng, Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp; giúp doanh nghiệp, sản phẩm hàng hóa Việt Nam có chỗ đứng vững chắc, có sức cạnh tranh trong Cộng đồng kinh tế ASEAN. Tạo dựng quan hệ hợp tác kinh tế và đầu tư giữa các doanh nghịêp hội viên và làm cầu nối giữa các doanh nghịêp Việt Nam với các doanh nghịêp ASEAN và các nước khác. Tăng cường phổ biến thông tin, tuyên truyền quảng bá thương hiệu, tư vấn pháp lý và các hình thức hỗ trợ khác nhằm bảo vệ, giúp đỡ các hội viên và các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang các nước ASEAN và hỗ trợ các doanh nghiệp ASEAN đầu tư vào Việt Nam. Chủ động xây dựng các nguồn thu ổn định từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật để tự trang trải kinh phí hoạt động.
Ba là giữ vững và tăng cường mối liên lạc, hợp tác thường xuyên, có hiệu quả, giữa Trung ương Hội và các hội viên; mở rộng mạng lưới hội viên ở các ngành, lĩnh vực và các hội địa phương. Chú trọng kết nạp hội viên là các doanh nghiệp có quy mô lớn và vừa, các doanh nhân, nhà khoa học, nhà quản lý đương chức hoặc đã về hưu có trình độ, có kinh nghiệm, có khả năng và nhiệt tình tham gia phát triển Hội. Phát triển hình thức hội viên tập thể ở các địa phương và hội thành viên là các doanh nghịêp Việt Nam ở nước ngòai với cơ chế, hình thức phù hợp. Nghiên cứu đổi mới mô hình hoạt động của Hội phù hợp với tình hình và đặc điểm của từng loại hội viên để mang lại hiệu quả thiết thực cho họ. Mở rộng hợp tác với các hội ngành nghề khác.
Bốn là phát triển các nhóm nghiên cứu kinh tế vĩ mô và vi mô trong Hội, tiến tới tổ chức hội thảo, diễn đàn hàng năm về tình hình và triển vọng kinh tế vĩ mô Việt Nam - ASEAN, qua đó đóng góp ý kiến với Đảng và Nhà nước, hội thảo hàng năm về kinh tế vi mô để gợi mở phương hướng đầu tư, lĩnh vực, sản phẩm, địa bàn đầu tư cho các doanh nghiệp. Tiếp tục tham gia có hiệu quả các đề tài, dự án hợp tác với các cơ quan nhà nước và tổ chức các hội thảo, hội nghị lấy ý kiến các hội viên về sửa đổi, bổ sung chính sách hợp tác với Lào, Campuchia và các nước ASEAN khác, báo cáo các cơ quan hữu quan của Đảng và Nhà nước...
3) Chương trình hoạt động nhiệm kỳ 2015-2020 của hội
1) Nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện quy chế hoạt động và cơ cấu tổ chức của Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN
Do đổi tên (nếu được phép), sửa đổi điều lệ, bổ sung chức năng nhiệm vụ, bỏ cấp Thường trực Trung ương Hội (chỉ giữ cấp Ban chấp hành và Ban Thường vụ) và Hội sẽ hoạt động trong bối cảnh mới, việc hoàn thiện hoặc xây dựng mới các quy chế hoạt động, cơ cấu tổ chức của Hội cần được triển khai ngay sau Đại hội và theo đúng các quy định trong Điều lệ Hội (sửa đổi).
a) Về xây dựng các quy chế hoạt động
Phấn đấu trong khoảng 3 tháng kể từ kết thúc Đại hội sẽ xây dựng được một bộ tương đối hoàn chỉnh các quy chế hoạt động của Hội, trong đó tập trung vào 6 nhiệm vụ sau:
(1) Xây dựng chức năng, nhiệm vụ và quy chế hoạt động của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Ban Kiểm tra và Văn phòng Trung ương Hội.
So với Điều lệ cũ, trong điều lệ mới dự kiến sẽ bỏ cấp Thường trực trung ương Hội. Điều lệ mới dự kiến bố trí Ban Chấp hành trung ương Hội khoảng 18-21 thành viên, Ban Thường vụ trung ương Hội khoảng 6-7 thành viên. Thành viên Ban Thường vụ trung ương Hội gồm Chủ tịch và các Phó chủ tịch Hội.
(2) Xây dựng quy chế thành lập, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quy chế hoạt động của Chi hội, Phân hội, các Ban chuyên môn của Hội, Cơ quan ngôn luận của Trung ương Hội, Văn phòng đại diện, chi nhánh tại các địa phương và tại Lào và Campuchia, các tổ chức pháp nhân và các tổ chức khác trực thuộc Trung ương Hội.
(3) Xây dựng quy chế quản lý tài chính, kế toán; quy chế tuyển dụng, sử dụng lao động, chế độ tiền lương và các chế độ chính sách đối với người lao động làm việc cho Hội...
(4) Xây dựng quy chế hợp tác với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các đơn vị và cá nhân thuộc hệ thống ngành Kế hoạch và Đầu tư; Quy chế hợp tác với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân khác trong nước và quốc tế.
(5) Xây dựng quy chế thoả thuận về đạo đức nghề nghiệp của hội viên khi tham gia hợp tác kinh tế và đầu tư với các đối tác tại các nước ASEAN.
(6) Xây dựng quy chế khen thưởng, kỷ luật; quy chế bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh Lãnh đạo Hội và các chức danh khác trong Hội;
b) Về tổ chức Hội, sẽ tập trung vào 6 nhiệm vụ:
(1) Sắp xếp, tổ chức lại một số cơ quan chuyên môn ở Trung ương Hội và các tổ chức khác thuộc Hội như các trung tâm đào tạo, tư vấn và cung cấp thông tin hỗ trợ các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong quá trình đẩy mạnh hợp tác kinh tế và đầu tư giữa Việt Nam và các nước ASEAN.
Các cơ quan chuyên môn ở Trung ương Hội dự kiến gồm 3 đơn vị là: (i) Văn phòng Trung ương Hội (trực tiếp phụ trách công tác hội viên); (ii) Ban hỗ trợ phát triển; (iii) Ban thông tin - tuyên truyền, làm Cơ quan ngôn luận của Trung ương Hội, trực tiếp quản lý trang web và tạp chí Hội nhập và Phát triển của Hội. Ngoài ra, có thể nghiên cứu, chuẩn bị điều kiện để khi thời cơ thích hợp sẽ hình thành Trung tâm thông tin kinh tế - xã hội Việt Nam - ASEAN.
Sắp xếp tinh giản bộ máy cơ quan trung ương Hội theo hướng kiêm nhiệm, ít mà tinh thông, hiệu quả. Bổ sung, nâng cấp cơ sở vật chất cho cơ quan trung ương Hội.
(2) Xúc tiến hình thành một số Hội ở địa phương; các chi hội ngành nghề tại những tổ chức, doanh nghiệp và địa phương... có nhu cầu và điều kiện thuận lợi, tập trung vào các tổ chức, doanh nghiệp, địa phương đang có nhiều hoạt động hợp tác kinh tế và đầu tư lớn với các nước ASEAN.
(3) Tổ chức văn phòng đại diện hoặc cá nhân đại diện tại một số nước ASEAN căn cứ vào nhu cầu và khi điều kiện tài chính cho phép.
(4) Giữ nguyên Biểu tượng Hội, nghiên cứu thiết kế, thủ tục trao Thẻ hội viên, Giấy chứng nhận hội viên và các mẫu văn bản khác của Hội.
(5) Mở tài khoản của Hội tại ngân hàng, đăng ký mã số thuế cho Hội. Khi cần thiết sẽ tuyển dụng nhân viên kế tóan chuyên nghiệp làm việc một số giờ, ngày mỗi tuần (part-time) cho Hội.
(6) Đăng ký để Hội trở thành thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
2) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá Hội và phát triển hội viên
Hoạt động tuyên truyền, quảng bá Hội và phát triển hội viên trong nhiệm kỳ thứ 2 tập trung vào 4 nội dung cụ thể sau:
(1) Tổ chức một số đợt tuyên truyền, vận động với quy mô lớn nhằm quảng bá tôn chỉ mục đích, vai trò, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động của Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN tới các đối tượng đang có các quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư với các nước ASEAN hoặc quan tâm tới phát triển quan hệ hợp tác kinh tế và đầu tư với các nước ASEAN. In tờ rơi quảng bá về Hội để giới thiệu với các đối tác.
(2) Hoàn thiện, tiến tới đăng ký chính thức website của Hội với cơ quan nhà nước. Đăng ký chính thức website cho tờ báo Mê Kông của Hội.
(3) Phát huy năng lực, trí tuệ của các hội viên. Nghiên cứu các hình thức phù hợp để giữ mối liên lạc thường xuyên giữa Trung ương Hội và các hội viên. Cần định kỳ cung cấp thông tin cho hội viên để hội viên biết Hội đang làm gì, cần sự tham gia của hội viên như thế nào... Ngược lại, hội viên cũng có thể mang lại cho Hội những dự án tài chính hay quan điểm ý kiến phản biện có giá trị.
(4) Đẩy mạnh công tác phát triển hội viên; phát triển mạng lưới hội viên ở các ngành, lĩnh vực và các hội địa phương. Chú trọng kết nạp hội viên là các doanh nghiệp có quy mô lớn và vừa, các doanh nhân, nhà khoa học, nhà quản lý đương chức hoặc đã về hưu có trình độ, có kinh nghiệm và có khả năng tham gia phát triển Hội. Nghiên cứu tổ chức các hình thức hoạt động của Hội phù hợp với tình hình và đặc điểm của từng loại hội viên để mang lại hiệu quả thiết thực cho họ.
(5) Từng bước mở rộng mối quan hệ hợp tác của Hội với các tổ chức, hội, hiệp hội, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước có nhiều quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ASEAN.
(6) Khuyến khích hội viên tuyên truyền, quảng bá rộng rãi các thông tin về Hội. Khuyến khích hội viên sử dụng tên và biểu tượng của Hội trong các hoạt động có liên quan đến thực hiện tôn chỉ, mục đích của Hội. Khuyến khích hội viên dùng danh nghĩa là hội viên của Hội để thực hiện và công bố các công trình nghiên cứu khoa học...
3) Nâng cao tính chuyên nghiệp và uy tín của Hội, làm cho Hội thực sự là một tổ chức vững mạnh, đáng tin cậy, hữu ích và cần thiết đối với các hội viên, cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức trong nước và khu vực.
Mục tiêu then chốt của Hội trong nhiệm kỳ này là nâng cao tính chuyên nghiệp và uy tín của Hội, làm sao để các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thấy cần phải tham khảo ý kiến, quan điểm của Hội trong các hoạt động kinh tế, nhất là trong hợp tác với các nước ASEAN và cộng đồng kinh tế ASEAN.
Về tài chính, Hội phải thiết lập được các nguồn thu ổn định, chủ động từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật để đảm bảo tự trang trải kinh phí hoạt động thường xuyên, tiến tới tự chủ nguồn tài chính để đầu tư tiếp tục phát triển. Nhiệm vụ trung tâm là phát triển các nguồn thu từ dịch vụ tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang các nước ASEAN và các doanh nghiệp ASEAN đầu tư vào Việt Nam.
Căn cứ tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định tại Điều lệ Hội (sửa đổi), căn cứ đặc thù về chính trị nghề nghiệp và quan hệ quốc tế của Hội, trong nhiệm kỳ 2015-2020, Hội tập trung thực hiện một số hoạt động chuyên môn, hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư sau:
(1) Tăng cường các hoạt động tư vấn và tham gia phản biện, giám định xã hội theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước và các tổ chức khác có thẩm quyền.
- Thường xuyên gặp gỡ, liên lạc với các hội viên nòng cốt để thu thập, tổng hợp ý kiến hội viên về tình hình phát triển của đất nước, của các doanh nghiệp cũng như tâm tư, nguyện vọng của hội viên muốn đề xuất, phản ánh với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Tư vấn và tham gia phản biện, giám định việc xây dựng, bổ sung, sửa đổi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các chính sách phát triển hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư của Đảng và Nhà nước với các nước ASEAN. Đề xuất và tham gia với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng, thực hiện Chiến lược hợp tác kinh tế và đầu tư với các nước ASEAN để đảm bảo lợi ích của đất nước trong hội nhập kinh tế với các nước ASEAN.
- Tư vấn và tham gia phản biện, giám định các chương trình, dự án của Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương nước ta hợp tác với các nước ASEAN cũng như của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương các nước ASEAN có hợp tác kinh tế và đầu tư với nước ta.
- Tư vấn và tham gia phản biện, giám định các dự án đầu tư của các tổ chức, doanh nghiệp và các nhà đầu tư nước ta với các nước ASEAN và của các tổ chức, doanh nghiệp, nhà đầu tư các nước ASEAN với nước ta.
(2) Chủ trì hoặc tham gia phối hợp với các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến cơ sở thuộc ngành Kế hoạch và Đầu tư, với Phân ban hợp tác Việt Nam - Lào, Phân ban hợp tác Việt Nam - Campuchia và với các cơ quan, tổ chức khác trong nước và quốc tế tổ chức một số cuộc hội thảo, hội nghị, diễn đàn, triển lãm, hội chợ trong nước và quốc tế về phát triển và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế và đầu tư Việt Nam - ASEAN, tuyên truyền về Cộng đồng kinh tế ASEAN... tạo cơ hội cho các hội viên được gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và thông tin hợp tác kinh tế và đầu tư với các nước ASEAN.
Bốn nội dung có thể kêu gọi tài trợ để tập trung thực hiện hàng năm là:
- Chủ trì tổ chức diễn đàn hàng năm về tình hình và triển vọng kinh tế vĩ mô của Việt Nam và các nước ASEAN (Diễn đàn kinh tế ASEAN I), qua đó đóng góp ý kiến với Đảng và Nhà nước về cơ chế chính sách và phương hướng hợp tác kinh tế với các nước này.
- Chủ trì tổ chức diễn đàn hàng năm về tình hình và triển vọng của một số ngành, sản phẩm quan trọng của Việt Nam và các nước ASEAN (Diễn đàn kinh tế ASEAN II hay Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam - ASEAN), qua đó đề xuất, gợi mở phương hướng hợp tác thương mại, đầu tư sang các nước ASEAN cho các doanh nghiệp Việt Nam và cho các doanh nghiệp ASEAN muốn hợp tác thương mại, đầu tư với Việt Nam.
- Tiếp tục tham gia có hiệu quả các đề tài, dự án hợp tác với các cơ quan nhà nước; tổ chức các hội thảo, hội nghị lấy ý kiến các hội viên về sửa đổi, bổ sung chính sách hợp tác với các nước ASEAN, báo cáo các cơ quan hữu quan của Đảng và Nhà nước...
- Chủ trì tổ chức hoặc tham gia tổ chức định kỳ hội chợ kết hợp triển lãm thành tựu phát triển hợp tác kinh tế và đầu tư giữa Việt Nam với các nước ASEAN, trước hết tại Việt Nam, từng bước luân phiên tại các nước ASEAN khác, đồng thời trao các giải thưởng tôn vinh các hội viên, sản phẩm, địa phương... tiêu biểu của Việt Nam và các nước ASEAN trong sự nghiệp này. Liên kết với một số cơ quan nhà nứơc, tổ chức xã hội - nghề nghiệp xây dựng tiêu chuẩn, lô gô (biểu tượng) sản phẩm ASEAN để trao tặng cho các loại sản phẩm thương mại trên thị trường ASEAN đạt được tiêu chuẩn này.
(3) Trung ương và các cơ quan, tổ chức của Hội thường xuyên liên lạc với hội viên để động viên trí tuệ, năng lực của các hội viên nhằm tìm nhiều dự án và các nguồn tài chính trong và ngòai nước cho Hội. Tổ chức thực hiện tốt các dự án, hợp đồng, làm ra những sản phẩm có giá trị đáp ứng yêu cầu của Đảng, Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và các nước ASEAN.
(4) Tổ chức một số sự kiện khác để tạo nguồn thu như:
- Tìm kiếm các nhà bảo trợ, tiến tới tổ chức đua xe đạp truyền thống 2-3 năm 1 lần vòng quanh ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia.
- Tổ chức quảng cáo cho các doanh nghiệp, địa phương... trên các phương tiện truyền thông của Hội.
- Tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, văng nghệ, thể thao với các đối tác ASEAN.
- Tùy điều kiện tài chính, có thể định kỳ tổ chức một số cuộc điều tra, đánh giá tình hình doanh nghiệp, tình hình thị trường, tình hình và hiệu quả đầu tư, trao đổi thương mại của Việt Nam với các nước ASEAN để cung cấp thông tin cảnh báo sớm cho Chính phủ cũng như các doanh nghiệp.
(5) Thực hiện các hoạt động tư vấn, chuyên môn để vừa tạo nguồn thu tài chính cho Hội, vừa tạo điều kiện cho các hội viên đem kiến thức và kinh nghiệm giúp Chính phủ, tổ chức, doanh nghiệp, địa phương và nhân dân các nước ASEAN phát triển hợp tác kinh tế và đầu tư đa phương và song phương, tập trung vào:
- Thu thập, cung cấp thông tin kinh tế, xã hội, môi trường, đặc biệt là các thông tin liên quan đến chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển hợp tác kinh tế của nước ta với các nước ASEAN cũng như của các nước ASEAN với nước ta.
- Tổ chức giảng dạy, đào tạo, hướng dẫn nâng cao các kỹ năng chuyên môn, trang bị kiến thức, hiểu biết về luật pháp, phong tục tập quán và cung cấp những thông tin khác về môi trường đầu tư của các nước ASEAN cho các tổ chức, doanh nghiệp và nhà đầu tư Việt Nam; đồng thời cũng cung cấp các dịch vụ tương tự cho các tổ chức, doanh nghiệp, nhà đầu tư các nước ASEAN khi tiến hành các hoạt động hợp tác kinh tế và đầu tư với Việt Nam.
- Tìm nguồn tài trợ và tổ chức thực hiện các dự án, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho hội viên và các tổ chức, cá nhân quan tâm nhằm nâng cao năng lực trong xóa đói, giảm nghèo, tăng sức cạnh tranh, tăng năng lực chuyên môn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hợp tác với các cơ quan kế hoạch và đầu tư, với các địa phương, các cơ quan, tổ chức khác và các doanh nghiệp, cá nhân của Việt Nam và các nước ASEAN tiến hành điều tra thu thập và cung cấp thông tin chuyên sâu về địa bàn, lĩnh vực đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam và các nước ASEAN theo yêu cầu riêng của doanh nghiệp và nhà đầu tư Việt Nam và các nước ASEAN.
- Tham gia đấu thầu và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu khoa học, giáo dục đào tạo... với các cơ quan nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp... trong cộng đồng ASEAN và với các tổ chức quốc tế và các quốc gia khác.
(6) Thực hiện các dịch vụ tư vấn và trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp, nhà đầu đầu tư Việt Nam hoạt động sản xuất, đầu tư tại các nước ASEAN và các doanh nghiệp, nhà đầu tư các nước ASEAN hoạt động sản xuất, đầu tư tại Việt Nam phù hợp với pháp luật của Việt Nam, các nước ASEAN và thông lệ quốc tế. Ưu tiên cung cấp các dịch vụ tư vấn, chuyên môn và trợ giúp pháp lý đối với các hội viên của Hội.
(7) Hỗ trợ các hội viên khi hội viên tham gia các hoạt động sản xuất, đầu tư, thương mại, công tác, du lịch... tại các nước ASEAN. Ví dụ hỗ trợ tìm dự án, địa điểm, thị trường, phương hướng đầu tư, giúp đỡ để tiếp xúc với các đối tác, cơ quan, tổ chức nước bạn...
(8) Tổ chức lại các hoạt động xuất bản của Hội; nâng cao chất lượng, uy tín của tạp chí Hợp tác và Phát triển, Thời báo Mê Kông, cổng thông tin điện tử. Thường xuyên công bố các hoạt động của Hội trên các phương tiện thông tin của Hội.
Nghiên cứu xây dựng Cổng thông tin phát triển hợp kinh tế Việt Nam – ASEAN về kinh tế, thương mại và đầu tư.
(9) Khi có cơ hội thuận lợi, triển khai hoạt động chuyên môn nêu trên sang địa bàn các nước ngoài khu vực Cộng đồng kinh tế ASEAN.
4) Tổ chức các hoạt động đối ngoại, nâng cao uy tín quốc tế của Hội, làm cho Hội thực sự là một tổ chức đại diện xứng đáng cho các doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế ASEAN.
Mục tiêu của tổ chức các hoạt động đối ngoại là phát triển, nâng cao vị thế của Hội ở các nước ASEAN, đồng thời tạo thuận lợi cho quá trình phát triển và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế và đầu tư Việt Nam - ASEAN. Dự kiến trong nhiệm kỳ 2015-2020, các hoạt động đối ngoại của Hội sẽ tập trung vào 9 nhiệm vụ sau:
(1) Duy trì, phát triển quan hệ của Hội với các cơ quan Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức, các hiệp hội và các hội xã hội - nghề nghịêp trong nước. Thiết lập quan hệ với một số địa phương, nhất là các địa phương có khả năng thành lập các chi hội phát triển hợp tác kinh tế với các nước ASEAN, các địa phương có biên giới với Lào và Campuchia.
(2) Thường xuyên tiếp xúc với các Đại sứ quán các nước ASEAN tại Việt Nam và Đại sứ quán Việt Nam tại các nước ASEAN để thông báo về tình hình và phương hướng hoạt động Hội, tạo cơ sở để giao lưu, hợp tác và trao đổi thông tin. Thiết lập quan hệ với một số cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tại các nước ASEAN, trước hết với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc ngành Kế hoạch và Đầu tư của các nước ASEAN.
(3) Tổ chức các hoạt động giao lưu với các cơ quan, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và cá nhân của Việt Nam và các nước ASEAN trên cơ sở tuân thủ quy định pháp luật của mỗi nước để thực hiện tôn chỉ, mục đích của Hội nhằm góp phần tăng cường sự hợp tác kinh tế giữa các nước ASEAN, đồng thời phát huy khả năng của các tổ chức ASEAN để hỗ trợ quá trình phát triển kinh tế và đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sang các nước này phù hợp với nhu cầu của họ và phù hợp với đường lối hợp tác kinh tế với các nước ASEAN của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
(4) Tìm hiểu khả năng và đăng ký gia nhập một số tổ chức quốc tế phù hợp với tôn chỉ mục đích của Hội; tham gia ký kết các thỏa thuận hợp tác quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và với sự đồng ý của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
(5) Động viên trí tuệ, năng lực, kinh nghiệm của các hội viên nhằm tìm nhiều dự án và các nguồn tài chính trong và ngòai nước cho Hội.
(6) In các tờ rơi giới thiệu về Hội, dịch các kết quả nghiên cứu kinh tế vĩ mô và vi mô và các kết quả khác... để trao đổi với các đối tác ASEAN.
(7) Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tiến tới thành lập văn phòng đại diện của Hội tại các nước ASEAN.
(8) Tổ chức một số đoàn khảo sát, trao đổi kinh nghiệm hợp tác kinh tế, đầu tư với các đối tác tại các nước ASEAN. Tiếp đón và làm việc với các đối tác các nước ASEAN sang thăm và làm việc tại Việt Nam.
(9) Khi điều kiện tài chính cho phép, tổ chức một số đoàn tham quan du lịch kết hợp tìm hiểu cơ hội hợp tác kinh tế và đầu tư với các nước ASEAN cho hội viên có nhiều đóng góp cho Hội.
4. Tổ chức thực hiện
1) Tổ chức công tác ở Trung ương Hội:
(1) Sắp xếp tinh giản bộ máy cơ quan trung ương Hội theo hướng ít nhưng tinh thông, hiệu quả. Mỗi cán bộ hành chính, văn phòng cần kiêm nhiệm nhiều việc, kể cả tham gia các đề tài, dự án... Trước mắt, chỉ tuyển thêm cán bộ cho những vị trí thực sự cần thiết; ưu tiên mời các cá nhân có năng lực đang công tác ở nơi khác làm thêm 30-70% thời gian tại Hội tùy theo tính chất công việc và các dự án.
(2) Sớm hoàn thành quy chế làm việc trong Hội, đặc biệt là quy chế phân chia, ủy quyền trách nhiệm quản lý giữa các đồng chí lãnh đạo Hội. Do đặc điểm của Hội là lãnh đạo thường kiêm nhiệm công việc ở cơ quan khác, cần cụ thể hóa trách nhiệm của Chủ tịch Hội và những việc Chủ tịch Hội ủy quyền cho các Phó Chủ tịch thay mặt Chủ tịch xử lý, quyết định và ký các văn bản.
(3) Việc bổ sung, nâng cấp cơ sở vật chất cho cơ quan trung ương Hội đang rất cần thiết; chi phí cũng không quá lớn; cần xem xét, xử lý sớm.
2) Huy động sức mạnh tổng hợp của Hội thực hiện Chương trình hoạt động.
(1) Ban lãnh đạo, đặc biệt là đồng chí Chủ tịch Hội, đề ra quyết tâm củng cố, phát triển Hội, đoàn kết cùng nhau tìm các chương trình, dự án, đề tài và các nguồn tài chính để thực hiện. Tận dụng mọi nguồn tài chính có thể huy động như thông qua cac hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, các doanh nghiệp... Chú trọng tìm một vài tổ chức, doanh nghiệp bảo trợ; ký hợp đồng trách nhiệm, nghĩa vụ tài chính cụ thể rõ ràng giữa các tổ chức, doanh nghiệp bảo trợ với Hội.
(2) Sức mạnh của Hội bắt nguồn từ trí tuệ, công sức lao động, đóng góp của mỗi hội viên và khả năng kết nối của các tổ chức trong Hội và của Trung ương Hội. Do vậy, bên cạnh những cố gắng, quyết tâm của Trung ương Hội, rất mong từng hội viên phát huy tính chủ động, sáng tạo, tích cực tham gia thực hiện các nội dung nêu ra trong chương trình hoạt động này, đồng thời qua thực tế, đề xuất các hoạt động cụ thể, có hiệu quả và tính khả thi cao để kiến nghị Trung ương Hội, các ban chuyên môn, các tổ chức của Hội nghiên cứu, tổ chức thực hiện.
3) Nâng cao trách nhiệm của hội viên với công tác Hội
Trung ương hội định kỳ chủ động liên lạc, tiếp xúc với các hội viên, động viên các hội viên chủ động trao đổi, tham gia ý kiến trực tiếp với các Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Hội và Ban lãnh đạo Hội về các vấn đề liên quan đến hoạt động của Hội. Các ý kiến, kiến nghị và giải pháp xử lý (nếu có) được gửi về Văn phòng Hội để nghiên cứu, phổ biến trong Hội, làm cho Hội hoạt động ngày càng hiệu quả và phát triển vững mạnh.
*****
Trên đây là Chương trình hoạt động nhiệm kỳ hai (2015-2020) của Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia, nếu được Đại hội thông qua sẽ đổi tên thành Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN.
Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp có thuận lợi rất lớn là được sự chỉ đạo, quản lý, giúp đỡ trực tiếp của Đảng và Chính phủ, đặc biệt là Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Do đó Đại hội tin tưởng trong giai đoạn từ nay tới năm 2020, trước nhiều cơ hội mới đang hình thành và sẽ mở ra, toàn thể hội viên Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN với phương châm “Kiên trì, Kiên trì, chính là thắng lợi!” nhất định sẽ đoàn kết, nỗ lực từng bước vượt qua các khó khăn thách thức, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động, từ đó thực hiện tốt Chương trình hoạt động và các Nghị quyết đề ra tại Đại hội này.
Cuối cùng, Đại hội xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm ủng hộ rất quý báu của các cơ quan, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đặc biệt từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ, Bộ Công thương, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, các Phân ban hợp tác Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia... đối với Hội trong nhiệm kỳ vừa qua. Đại hội rất mong tiếp tục nhận được sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong nhiệm kỳ tới để các hoạt động của Hội ngày càng có hiệu quả thiết thực hơn, ý nghĩa hơn, đóng góp nhiều hơn nữa vào sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội và quá trình hội nhập kinh tế của đất nước với cộng đồng kinh tế ASEAN./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét