BÁO CÁO TỔNG KẾT CÔNG TÁC NHIỆM KỲ 2008-2014 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG NHIỆM KỲ 2015-2020
(DỰ THẢO LẦN 1)
Phần I
Tình hình hoạt động của Hội trong nhiệm kỳ
2008-2014
Hoạt động của Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia nhiệm
kỳ I (2008-2014) đã diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều diễn biến phức
tạp. Bên cạnh những diễn biến bất lợi về địa chính trị, chiến tranh, khủng bố,
thời tiết, dịch bệnh và môi trường, về kinh tế, từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng
tài chính ở Mỹ cuối năm 2008, nền kinh tế thế giới rơi vào cuộc khủng hoảng sâu
sắc nhất kể từ đại khủng hoảng 1929-1933, làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế thế
giới tụt từ 5,7%/năm trong 2 năm 2006-2007 xuống còn 3% năm 2008 rồi 0% năm
2009 và mới phục hồi về khoảng 3,3%/năm trong 3 năm gần đây. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế hàng năm của các nước đang phát triển châu Á nói chung, khu vực ASEAN
nói riêng cũng đều chậm lại đáng kể, từ khoảng 8% trước kia xuống còn khoảng
6,6% trong 3 năm gần đây.
Cùng chung hoàn cảnh với kinh tế thế giới, kinh tế ba nước
Việt Nam, Lào và Campuchia đều gặp khó khăn; tốc độ tăng trưởng kinh tế đều giảm.
Ở Campuchia, nếu như trong những năm 1996-2007 tốc độ tăng trưởng trung bình đạt
trên 8%/năm thì 5 năm gần đây chỉ đạt khoảng 7-7,5%. Ở nước ta, tốc độ tăng trưởng
kinh tế giảm mạnh hơn, từ 7,1%/năm xuống chỉ còn khoảng 5,5%. Riêng ở Lào, tốc
độ tăng trưởng được duy trì khá (8%/năm) nhưng những khó khăn xuất hiện ngày
càng lớn; ngoại thương và ngân sách mất cân đối trầm trọng trong khi nội lực phát
triển cạn dần.
Bối cảnh khó khăn trên đã đặt Hội phát triển hợp tác kinh
tế Việt Nam - Lào - Campuchia và các hội viên, đặc biệt là các hội viên doanh
nghiệp, trước rất nhiều thử thách quyết liệt, có lúc tưởng chừng như không thể
vượt qua. Tuy nhiên, nhờ những nỗ lực của Ban lãnh đạo Trung ương Hội và toàn tập
thể hội viên, Hội vẫn duy trì được họat động, có bước trưởng thành, trên một số
mặt đã đạt được những kết quả quan trọng. Dưới đây, xin kiểm điểm lại một số kết
quả thực hiện Chương trình hoạt động đã được Đại hội nhiệm kỳ I (2008-2014) của Hội thông qua.
1) Về xây dựng, tổ chức hoạt động Hội
Đến nay, gần 7 năm sau Đại
hội thành lập, tổ chức và hoạt động của Hội đã tương đối ổn định và đi vào nề nếp.
Đã xây dựng nhiều quy chế hoạt động trong Hội như quy chế hoạt động của các cơ
quan lãnh đạo; quy chế thành lập, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quy chế hoạt động
của các cơ quan và tổ chức
trực thuộc; quy chế quản lý tài chính, kế toán; quy chế tuyển dụng, sử dụng lao động,
chế độ tiền lương và các chế độ chính sách đối với người lao động làm việc cho
Hội...
Trong nhiệm kỳ I, Hội đã
thành lập nhiều tổ chức trực thuộc nhưng do điều kiện hoạt động khó khăn nên đã
có một số tổ chức phải giải thể. Một số tổ chức trực thuộc Hội cũng phải điều
chỉnh cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đến nay, ngoài các Ban và Văn phòng ở Trung
ương Hội, cơ cấu tổ chức Hội gồm 7 trung tâm hợp tác và làm dịch vụ hỗ trợ phát
triển; 2 viện nghiên cứu, đào tạo, tư vấn; 2 hội địa phương, 3 văn phòng đại diện
(tại Lào, Campuchia và thành phố Hồ Chí Minh), 1 tờ báo và 1 tạp chí.
Thuận lợi lớn nhất của Hội
trong giai đoạn vừa qua là có sự quan tâm, ủng hộ của các cơ quan Trung ương và
nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong đó trực tiếp là các đồng chí Bộ
trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc, Bùi Quang Vinh các đồng chí Thứ trưởng,
nguyên Thứ trưởng, các đồng chí lãnh đạo một số Cục, Vụ, Viện và Văn phòng Bộ Kế
hoạch và Đầu tư. Nhờ đó, Hội vẫn duy trì được hoạt động thường xuyên, làm được
nhiều việc theo tôn chỉ mục đích của Hội, đóng góp với Đảng, Chính phủ và hỗ trợ
cho nhiều hội viên trong lĩnh vực hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch
với các nước Lào, Campuchia và Myanmar.
Về nhân sự lãnh đạo, tháng
3/2012, vì lý do sức khỏe, ông Lại Quang Thực đã thôi không làm Chủ tịch Hội.
Ban chấp hành Hội đã bầu ông Phương Hữu Việt, Chủ tịch Ngân hàng Việt Á, làm Chủ tịch.
2) Hoạt động tuyên truyền về Hội và phát triển hội
viên:
Hội đã tổ chức một số đợt
tuyên truyền, quảng bá về Hội tại ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Ngay sau
khi thành lập, Trung ương Hội đã tổ chức nhiều đoàn công tác sang Lào, Campuchia tiếp xúc với lãnh đạo cấp
cao và cộng đồng doanh nghiệp của hai nước để quảng bá về Hội và tạo mối quan hệ hợp tác.
Hiện nay, đã có nhiều tổ chức, cá nhân ở hai nước này tham gia hợp tác với Hội.
Ở trong nước, Hội chú trọng phát triển
hội viên trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, địa phương đang hoặc thực sự
mong muốn triển khai hoạt động hợp tác kinh tế và đầu tư với Lào và Campuchia. Nếu
như lúc đầu gửi đăng ký tới Bộ Nội vụ xin thành lập, Hội chỉ có 43 hội viên tổ
chức, doanh nghiệp và khoảng 120 hội viên cá nhân thì đến nay, theo đăng ký, Hội
có khoảng 1100 hội viên chính thức, gồm khoảng 500 hội viên là các tổ chức,
doanh nghiệp và khoảng 600 hội viên cá nhân. Nhiều hội viên là các tổ chức,
doanh nghiệp, cá nhân đóng vai trò hàng đầu trong hợp tác kinh tế và đầu tư của nước ta với
hai nước Lào và Campuchia. Một số Hội của doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động ở
Lào và Campuchia đã đăng ký làm hội viên tập thể của Hội phát triển hợp tác
kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia như Hội
doanh nghiệp Việt Nam tại Campuchia, Hội doanh nghiệp Việt Nam hợp tác và đầu
tư ở Lào (Viet – Lao BACI)...
Để cung cấp thông tin
cho hội viên, cũng trong năm 2008, Hội đã xây dựng được trang thông tin điện
tử và bản tin của Hội; đến nay, Hội đã có trang web tương đối tốt, đã có tờ báo
và tạp chí riêng (thời báo Mêkông và tạp chí Hợp tác và Phát triển). Những năm
gần đây hội có tổ chức một hoạt động phát triển hội viên ở qui mô nhỏ.
Hội đã tổ chức nhiều hoạt
động xã hội khác để quảng bá hội như tổ chức đòan xe đạp từ Hà Nội đi Viêng
Chăn trong Chương trình hưởng ứng năm hữu nghị Việt Nam – Lào (2012); chủ trì
phối hợp với Hội doanh nghịêp Việt Nam hợp tác và đầu tư ở Lào và Bộ Kế hoạch
và Đầu tư... tổ chức thành công Chương trình chào mừng kỷ niệm 450 năm thủ đô
Viêng Chăn, 1000 năm Thăng Long – Hà Nội tại thủ đô Viêng Chăn (2010); tổ chức
giao lưu hội viên nhân kỷ niệm 3 năm thành lập Hội (2011)... Ngòai ra Hội cũng
chủ trì hoặc tham gia tổ chức nhiều đợt làm thiện nguyện tại các tỉnh Việt Nam
và Lào có chung đường biên giới...
3) Triển khai một số hoạt động chuyên môn, hợp tác
kinh tế và đầu tư
Căn cứ tôn chỉ mục đích
và nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều lệ Hội, trong nhiệm kỳ đầu tiên,
Hội thực hiện được nhiều hoạt động chuyên môn, hợp tác kinh tế và đầu tư, trong
đó nổi bật là:
Xuất bản các ấn phẩm hướng
dẫn đầu tư sang Lào và Campuchia như sách “Hệ thống các văn bản pháp quy đầu tư
vào Lào”, “Văn bản hướng dẫn hợp tác kinh tế, đầu tư, thương mại với Campuchia”
(2008, 2009), bộ sách 3 tập “Văn bản hợp tác Việt Nam – Lào” (2000-2012), hợp
tác với Cục Đầu tư nước ngòai Bộ Kế hoạch và Đầu tư xuất bản 2 tài liệu “Hướng
dẫn đầu tư, thương mại vào Campuchia và Lào” (2010); Báo cáo “Tình hình đầu tư
của Việt Nam vào Lào và Campuchia 2013”...
Đã tổ chức hàng năm nhiều
diễn đàn, hội nghị, hội thảo, hội chợ với các chủ đề khác nhau để giới thiệu, phân
tích, đánh giá về môi trường đầu tư, tình hình đầu tư, cơ chế chính sách đầu tư
và các dự án kêu gọi đầu tư của Lào và Campuchia tại nhiều địa phương trên cả
nước và tại hai nước bạn, như các Hội nghị góp ý về đầu tư vào Lào và Campuchia
(2010, 2011), Tọa đàm về cơ chế chính sách đầu tư thương mại Việt Nam – Lào –
Campuchia năm (2011, 2013); Diễn đàn hợp tác phát triển và hội chợ quốc tế
thương mại và đầu tư tiểu vùng Mê Kông thường xuyên luân phiên tại ba nước (từ
2009 đến 2013); Tọa đàm giới thiệu đầu tư vào một số tỉnh ở Lào và Campuchia
(2010, 2012); Đối thoại doanh nghiệp ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia; Hội thảo
về hợp tác 6 nước tiểu vùng sông Mê Kông...
Chủ trì hoặc tham gia với
các hội, hịêp hội và cơ quan khác tổ chức các chương trình trao các giải thưởng tôn vinh doanh nghiệp,
doanh nhân tiêu biểu trong hợp tác Việt Nam, Lào và Campuchia. Trong 2 năm gần
đây (2013-2014) đã mở rộng các hoạt động sang Myanmar. Đặc biệt năm 2013 đã tổ
chức rất thành công “Tọa đàm Myanmar – thị trường mới nổi”, thu hút rất đông
các đối tượng tham gia.
Hàng năm, Hội đều có các
hoạt động phản biện xã hội và tư vấn chính sách liên quan đến hợp tác kinh tế
và đầu tư của nước ta với Lào và Campuchia. Gần đây nhất là góp ý sửa đổi Nghị
định 78/2006/NĐ-CP của Chính phủ về đầu tư trực tiếp ra nước ngòai, góp ý sửa đổi
“Luật đầu tư” (2014), dưới hình thức hội nghị và báo cáo gửi Chính phủ, được
đánh giá cao.
Từ năm 2011 đến 2014 đã chủ
trì cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và ngân hàng Việt Á tổ chức hàng năm Chương
trình Mê Kông dưới hình thức diễn đàn với nhiều chủ đề khác nhau. Mới nhất là
Diễn đàn Mê Kông thường niên 2014 với chủ đề “Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015: Cơ
hội và thách thức” vừa được tổ chức vào tháng 10/2014, thu hút hơn 200 khách
tham dự. Kết thúc diễn đàn, đã xây dựng các kỷ yếu làm tài liệu cho các doanh
nghiệp, các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách. Các thông tin, kiến
nghị hữu ích được Hội tổng hợp gửi đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử
lý.
Hội đã tiến hành thu thập, cung cấp thông tin kinh tế,
xã hội, môi trường, đặc biệt là các thông tin liên quan đến chính sách, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển hợp tác kinh tế của nước ta với Lào
và Campuchia cũng như của Lào và Campuchia với nước ta. Trên cơ sở đó, đã triển
khai có hiệu quả một số tư vấn chính sách cho Nhà nước, trước hết là Kế hoạch
và Đầu tư, như hòan thành báo cáo “Chiến lược đầu tư vào Campuchia đến năm
2015, tầm nhìn 2020”, “Chiến lược hợp tác kinh tế và đầu tư vào Lào đến năm
2015, tầm nhìn 2020”, chuyên đề “Tam giác phát triển Việt Nam - Lào -
Campuchia”, Báo cáo “Tình hình đầu tư vào Lào và Campuchia”...
Đã tổ chức nhiều lớp đào tạo, hướng dẫn nâng cao các kỹ năng chuyên môn, trang bị kiến thức, hiểu biết về luật pháp,
phong tục tập quán và cung cấp những thông tin khác về môi trường đầu tư của
Lào và Campuchia cho các tổ chức, doanh nghiệp và nhà đầu tư Việt Nam. Trong
các năm 2013-2014 đã tham gia thực hiện Dự án đào tạo nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cho các doanh nghịêp vừa và nhỏ, Dự án đào tạo cán bộ hợp tác xã...
Đã thực hiện một số dịch
vụ tư vấn và trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp, nhà đầu đầu
tư Việt Nam hoạt động sản
xuất, đầu tư tại Lào và Campuchia. Đã phối hợp với các doanh nghiệp hội viên tổ
chức nhiều đoàn sang khảo sát, giới thiệu đầu tư tại Lào và Campuchia. Đã tổ chức
một số đoàn du lịch sang Lào và Campuchia đáp ứng yêu cầu của các hội viên...
4) Tổ chức các hoạt động
đối ngoại
Trong nhiệm kỳ 2008-2014,
về đối ngoại trong nước,
Hội đã xây dựng, từng bước
mở rộng mối quan hệ hợp tác của Hội với các cơ quan, đơn vị thuộc ngành Kế hoạch
và Đầu tư, với các Phân ban hợp tác Việt Nam - Lào, Phân ban hợp tác Việt Nam -
Campuchia, với các Hội hữu nghị Việt Nam - Lào, Hội hữu nghị Việt Nam -
Campuchia. Đã tạo lập quan hệ hợp tác với nhiều Hội, Hiệp hội khác cũng như một
số tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trên cả nước.
Về đối ngoại ngòai nước,
Hội đã duy trì tiếp xúc thường xuyên với các Đại sứ quán Lào, Campuchia, Myanmar tại Việt
Nam và các Đại sứ quán Việt Nam tại Lào, Campuchia, Myanmar để thông báo về việc
hình thành và phương hướng hoạt động của Hội, tạo cơ sở để giao lưu, hợp tác và trao đổi
thông tin. Đã thiết lập quan hệ với một số cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp, cá nhân tại ba nước này, đặc biệt với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc
ngành Kế hoạch và Đầu tư của hai nước Lào và Campuchia.
Nhìn chung lại chặng đường gần 7 năm vừa qua có thể
nói tuy mới ra đời và phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức rất gay gắt,
nhưng Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia đã làm được khá
nhiều việc theo đúng tôn chỉ mục đích đề ra, thực hiện được hầu hết các nhiệm
vụ đề ra trong Chương trình hoạt động nhiệm kỳ I (2008-2014).
Tuy nhiên, so với mục
tiêu của Chương trình hoạt động đề ra, số lượng công việc thực hiện thì nhiều
nhưng kết quả và chất lượng thu được còn tương đối khiêm tốn. Vai trò và ảnh hưởng
của Hội tới cộng đồng doanh nghịêp có hợp tác kinh tế và đầu tư với hai nước
Lào va Campuchia còn thấp, chưa tương xứng với mục tiêu đề ra.
Nhiều việc Hội có thể
làm được nhưng do khó khăn về tài chính, nhân sự nên chưa thể triển khai. Cơ sở
vật chất và nguồn thu tài chính rất hạn hẹp; có những lúc không đủ nguồn thu để
duy trì bộ máy hoạt động.
Do bối cảnh khó khăn
chung của toàn nền kinh tế, của các doanh nghiệp hội viên và bản thân Trung
ương hội nên trong nhiệm kỳ qua quan hệ giữa Hội và các doanh nghiệp nói chung,
các hội viên nói riêng không được duy trì thường xuyên. Hội cũng chưa có nhiều
họat động có tác dụng thiết thực với hội viên nên nhiều hội viên không quan tâm
tới Hội. Số hội viên đông nhưng sinh hoạt rời rạc, đơn điệu. Chỉ có một tỷ lệ
nhỏ hội viên tham gia đóng hội phí.
Nhiều doanh nghiệp hội
viên tiến hành các họat động hợp tác với Lào và Campuchia không nhờ đến kênh hỗ
trợ của hội và cũng không thông báo hoạt động cho Hội. Trang thông tin điện tử
và báo, tạp chí của Hội xuất bản không thường xuyên, cũng không đưa được nhiều
tin về họat động của Hội để hội viên biết.
Từ những việc làm được và chưa làm được trong nhiệm
kỳ vừa qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm cho nhiệm kỳ tới:
Một là, tiếp tục kiên trì thực hiện đúng tôn chỉ mục đích đề ra là
tập hợp, đoàn kết hội viên để (i) tham gia ý kiến, tư vấn và phản biện xã hội đối
với các cơ chế chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước, và (2) hỗ trợ các tổ
chức, doanh nghiệp, cá nhân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia thực hiện các hoạt
động kinh tế và đầu tư tại ba nước, nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả hợp
tác kinh tế và đầu tư giữa ba nước.
Hai là, cần tăng mạnh tính chuyên
nghiệp trong họat động Hội, trước hết là tạo ra những sản phẩm đặc trưng dài hạn của Hội từ hoạt động kinh doanh,
dịch vụ theo quy định của pháp luật, từ đó chủ động được các nguồn thu ổn định để
tự trang trải kinh phí hoạt động. Khuyến khích, tạo điều kiện để các đơn vị, tổ
chức trực thuộc và hội viên đẩy mạnh các hoạt động, trên cơ sở đó có thu nhập
và đóng góp ổn định cho Trung ương Hội.
Ba là, cần đặc biệt chú trọng
công tác hội viên, coi hội viên là nguồn nội lực quan trọng nhất để phát triển
Hội. Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để hội viên phát huy được năng lực, kinh
nghiệm của mình cho họat động của hội. Phải xây dựng, duy trì quan hệ chặt chẽ
giữa Trung ương Hội và một số hội viên có tâm huyết với Hội, với hợp tác Việt-Lào-Campuchia,
trước hết là các hội viên doanh nghịêp quy mô vừa đang có nhiều họat động kinh
tế, đầu tư, thương mại với các nước bạn.
Bốn là, nâng cao chất lượng
hoạt động của cơ quan trung ương Hội để luôn luôn có những sáng kiến tạo công
ăn việc làm và hỗ trợ, phối hợp được các hội viên, mang lại những cơ hội và lợi
ích thiết thực cho các hội viên. Có thể nói đây luôn luôn là nhân tố quan trọng
quyết định sự phát triển của Hội trong nhiệm kỳ tới.
Năm là, tiếp tục tranh
thủ tối đa sự giúp đỡ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, của các cơ quan chính phủ và của
một số doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với Hội. Hợp tác với các Bộ, cơ quan
chính phủ không chỉ nhằm tạo ra nguồn thu tài chính cho hội mà còn là con đường
ngắn nhất để Hội đóng góp với Đảng và Nhà nước về đổi mới các cơ chế chính
sách, luật pháp trong hợp tác với Lào, Campuchia và các nước khác.
Phần II
Phương hướng hoạt động của
Hội trong nhiệm kỳ
2015-2020
1) Dự báo bối cảnh kinh tế quốc tế, trong nước
Nhìn chung, trong giai
đoạn 2015-2020, dự báo kinh tế thế giới sẽ có nhiều đặc điểm nổi bật như: (1) Toàn
cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày càng mạnh mẽ ; (2) Các liên kết kinh tế
song phương, khu vực và đa phương tiếp tục được mở rộng, thúc đẩy sự phát triển
của kinh tế khu vực và thế giới ; (3) Khoa học - công nghệ ngày càng khẳng
định vai trò là một trong những lực lượng sản xuất trực tiếp quan trọng nhất của
nền kinh tế thế giới ; (4) Kinh tế thế giới vẫn chứa đựng nhiều rủi ro tiềm
ẩn do tác động của những nhân tố địa chính trị, xung đột sắc tộc, tranh chấp
tài nguyên và môi trường sống, phân biệt giầu nghèo ; (5) Hoạt động kinh tế
thế giới dần chuyển sang khu vực châu Á, biến khu vực này thành một trung tâm
kinh tế mới bên cạnh những trung tâm kinh tế đã phát triển mạnh như Mỹ, EU và
Nhật Bản ; (6) Các nước đang phát triển ngày càng đóng vai trò quan trọng
đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới.
Trên cơ sở những nhận định
trên và căn cứ những xu hướng phục hồi kinh tế gần đây của các nền kinh tế lớn,
dự báo tình hình kinh tế thế giới giai đoạn 2015-2020 sẽ lạc quan hơn so với
khoảng chục năm vừa qua. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới dự báo đạt khoảng
4%/năm trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. Thương mại và đầu tư thế giới dự
báo sẽ tăng trưởng nhanh hơn. Đặc biệt khu vực các nước ASEAN sẽ có nhiều chuyển
biến lớn với sự hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015. Đây
sẽ là một thị trường duy nhất và một cơ sở sản xuất duy nhất, trong đó hàng
hóa, dịch vụ, vốn đầu tư và nhân công có trình độ sẽ được tự do lưu thông giữa
tất cả các nước. Do vậy, nhiều cơ hội mới sẽ được mở ra. Tự do hoá kinh tế
trong nội bộ khối sẽ làm cho nhiều loại chi phí giảm mạnh và các luồng vốn di
chuyển giữa các quốc gia ASEAN ngày càng dễ dàng hơn; sự dịch chuyển các luồng
vốn giữa các quốc gia trong khu vực sẽ tăng mạnh, đặc biệt là hình thức đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI).
Ở trong nước, dự báo
tình hình năm 2015 nền kinh tế vẫn tương đối trì trệ, nhưng từ sau Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng được tổ chức vào đầu năm 2016, đất nước và nền
kinh tế sẽ có bước khởi sắc. Về bối cảnh, có thể nói 2015 sẽ là năm bản lề cho
tương lai của nền kinh tế Việt Nam, bởi đây sẽ là năm hình thành nhiều khối
tự do mậu dịch mà Việt Nam sẽ tham gia, trước hết là ba khối: Cộng đồng Kinh tế
ASEAN (AEC), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Liên hiệp châu Âu (Việt Nam –
EU AFTA) và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Riêng với hợp tác ASEAN,
trong năm 2015, Việt Nam sẽ phải đẩy mạnh việc thực hiện những sáng kiến kinh tế
hiện có, đặc biệt là: (i) Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, Hiệp định Khung ASEAN về
Dịch vụ và Khu vực Đầu tư ASEAN; (ii) thúc đẩy hội nhập khu vực trong các ngành
ưu tiên; (iii) tạo thêm nhiều thuận lợi cho việc đi lại của doanh nhân, lao động
lành nghề và nhân tài giữa các nước ASEAN...
Những áp lực của hội nhập,
cạnh tranh quốc tế, khu vực cùng với những chủ trương chính sách mới được thông
qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng đầu năm 2016 chắc chắn sẽ
đòi hỏi Chính phủ cũng như từng doanh nghiệp, cá nhân phải hành động quyết liệt
hơn. Thuận lợi và khó khăn đan xen nhau; khó khăn cũng có mặt tích cực là tạo sức
ép để phải đổi mới, phải hành động. Thực tiễn cho thấy càng bị đẩy vào hoàn cảnh
khó khăn, người Việt và doanh nhân Việt càng trở lên mạnh mẽ. Do vậy, nhìn
chung, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016-2020 dự báo sẽ cao hơn so với
giai đoạn 2011-2015. Năng suất, chất lượng, hiệu quả dự báo sẽ có bước cải thiện.
2) Nhiệm vụ đặt ra cho Hội
Căn cứ vào bối cảnh kinh
tế quốc tế và trong nước nêu trên, hòa nhịp đi lên cùng cả nước và toàn thể cộng
đồng doanh nghiệp, hướng tới năm 2015 và những năm tiếp theo, dự kiến Hội sẽ tập
trung thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là tổ chức thành công Đại hội đại biểu hội viên toàn quốc lần
thứ 2 của Hội. Tại đại hội, để đáp ứng yêu cầu hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN
của các doanh nghiệp hội viên và phù hợp với triển vọng mở rộng hợp tác kinh tế
quốc tế của cả nước, dự kiến Hội sẽ được đổi tên thành Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt
Nam – ASEAN. Dự kiến viết tắt là VASEAN (đọc là Va xin). Dự kiến giữ
nguyên biểu tượng cũ của hội, nhưng thay cụm từ VILACAED bằng VASEAN, tức là
thay ILACAED bằng ASEAN còn chữ V to giữ nguyên như trong biểu tượng cũ.
Trong trường hợp không
được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép đổi tên hội thành Hội phát triển
hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN, đề nghị tiếp tục giữ tên Hội hiện nay, nhưng
mở rộng phạm vi hoạt động của Hội sang tất cả các nước thuộc Cộng đồng Kinh tế
ASEAN. Khi đó trong các văn bản đã chuẩn bị trình Đại hội, thay cụm từ “hợp tác
Việt Nam – ASEAN” bằng cụm từ “hợp tác Việt Nam, Lào, Campuchia và các nước trong
khu vực ASEAN”.
Hai là tăng mạnh tính chuyên nghiệp và uy tín của Hội, làm cho
Hội thực sự là một tổ chức vững mạnh, đại diện xứng đáng cho cộng đồng doanh
nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế ASEAN. Tập hợp, huy động trí tuệ, năng lực
của các hội viên để khai thác các nguồn tài chính, làm ra những sản phẩm có giá
trị đáp ứng yêu cầu của Đảng, Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp; giúp doanh
nghiệp, sản phẩm hàng hóa Việt Nam có chỗ đứng vững chắc, có sức cạnh tranh
trong Cộng đồng kinh tế ASEAN. Tạo dựng quan hệ hợp tác kinh tế và đầu tư giữa
các doanh nghịêp hội viên và làm cầu nối giữa các doanh nghịêp Việt Nam với các
doanh nghịêp ASEAN và các nước khác. Tăng cường phổ biến thông tin, tuyên truyền
quảng bá thương hiệu, tư vấn pháp lý và các hình thức hỗ trợ khác nhằm bảo vệ,
giúp đỡ các hội viên và các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang các nước ASEAN và
hỗ trợ các doanh nghiệp ASEAN đầu tư vào Việt Nam. Chủ động xây dựng các nguồn
thu ổn định từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật để tự
trang trải kinh phí hoạt động.
Ba là giữ vững và tăng cường mối
liên lạc, hợp tác thường xuyên, có hiệu quả, giữa Trung ương Hội và các hội
viên; mở rộng mạng lưới hội viên ở các ngành, lĩnh vực và các hội địa
phương. Chú trọng kết nạp hội viên là các doanh nghiệp có quy mô lớn và vừa,
các doanh nhân, nhà khoa học, nhà quản lý đương chức hoặc đã về hưu có trình độ,
có kinh nghiệm, có khả năng và nhiệt tình tham gia phát triển Hội. Phát triển
hình thức hội viên tập thể ở các địa phương và hội thành viên là các doanh nghịêp
Việt Nam ở nước ngòai với cơ chế, hình thức phù hợp. Nghiên cứu đổi mới mô hình
hoạt động của Hội phù hợp với tình hình và đặc điểm của từng loại hội viên để
mang lại hiệu quả thiết thực cho họ. Mở rộng hợp tác với các hội ngành nghề
khác.
Bốn là phát triển các
nhóm nghiên cứu kinh tế vĩ mô và vi mô trong Hội, tiến tới tổ chức hội thảo, diễn
đàn hàng năm về tình hình và triển vọng kinh tế vĩ mô Việt Nam - ASEAN, qua đó
đóng góp ý kiến với Đảng và Nhà nước, hội thảo hàng năm về kinh tế vi mô để gợi
mở phương hướng đầu tư, lĩnh vực, sản phẩm, địa bàn đầu tư cho các doanh nghiệp.
Tiếp tục tham gia có hiệu quả các đề tài, dự án hợp tác với các cơ quan nhà nước
và tổ chức các hội thảo, hội nghị lấy ý kiến các hội viên về sửa đổi, bổ sung
chính sách hợp tác với Lào, Campuchia và các nước ASEAN khác, báo cáo các cơ
quan hữu quan của Đảng và Nhà nước...
3) Chương trình hoạt động nhiệm kỳ 2015-2020 của hội
1) Nhanh chóng xây dựng,
hoàn thiện quy chế hoạt động và cơ cấu tổ chức của Hội phát triển hợp tác kinh
tế Việt Nam – ASEAN
Do đổi tên (nếu được
phép), sửa đổi điều lệ, bổ sung chức năng nhiệm vụ, bỏ cấp Thường trực Trung
ương Hội (chỉ giữ cấp Ban chấp hành và Ban Thường vụ) và Hội sẽ hoạt động trong
bối cảnh mới, việc hoàn thiện hoặc xây dựng mới các quy chế hoạt động, cơ cấu tổ
chức của Hội cần được triển khai ngay sau Đại hội và theo đúng các quy
định trong Điều lệ Hội (sửa đổi).
a) Về xây dựng các quy
chế hoạt động
Phấn đấu trong khoảng 3
tháng kể từ kết thúc Đại hội sẽ xây dựng được một bộ tương đối hoàn chỉnh các
quy chế hoạt động của Hội, trong đó tập trung vào 6 nhiệm vụ sau:
(1) Xây dựng chức năng,
nhiệm vụ và quy chế hoạt động của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Ban Kiểm tra và
Văn phòng Trung ương Hội.
So với Điều lệ cũ, trong
điều lệ mới dự kiến sẽ bỏ cấp Thường trực trung ương Hội. Điều lệ mới dự kiến bố
trí Ban Chấp hành trung ương Hội khoảng 18-21 thành viên, Ban Thường vụ trung
ương Hội khoảng 6-7 thành viên. Thành viên Ban Thường vụ trung ương Hội gồm Chủ
tịch và các Phó chủ tịch Hội.
(2) Xây dựng quy chế
thành lập, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quy chế hoạt động của Chi hội,
Phân hội, các Ban chuyên môn của Hội, Cơ quan ngôn luận của Trung ương Hội, Văn
phòng đại diện, chi nhánh tại các địa phương và tại Lào và Campuchia, các tổ chức
pháp nhân và các tổ chức khác trực thuộc
Trung ương Hội.
(3) Xây dựng quy chế quản
lý tài chính, kế toán; quy chế tuyển dụng, sử dụng lao động, chế độ tiền lương
và các chế độ chính sách đối với người lao động làm việc cho Hội...
(4) Xây dựng quy chế hợp
tác với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các đơn vị và cá nhân thuộc hệ thống ngành Kế
hoạch và Đầu tư; Quy chế hợp tác với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá
nhân khác trong nước và quốc tế.
(5) Xây dựng quy chế thoả
thuận về đạo đức nghề nghiệp của hội viên khi tham gia hợp tác kinh tế và đầu
tư với các đối tác tại các nước ASEAN.
(6) Xây dựng quy chế
khen thưởng, kỷ luật; quy chế bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh Lãnh đạo Hội
và các chức danh khác trong Hội;
b) Về tổ chức Hội, sẽ tập
trung vào 6 nhiệm vụ:
(1) Sắp xếp, tổ chức lại
một số cơ quan chuyên môn ở Trung ương Hội và các tổ chức khác thuộc Hội như các trung tâm đào tạo, tư vấn và cung cấp thông
tin hỗ trợ các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong quá trình
đẩy mạnh hợp tác kinh tế và đầu tư giữa Việt Nam và các nước ASEAN.
Các cơ quan chuyên môn ở
Trung ương Hội dự kiến gồm 3 đơn vị là: (i)
Văn phòng Trung ương Hội (trực tiếp phụ trách công tác hội viên); (ii) Ban hỗ
trợ phát triển; (iii) Ban thông tin - tuyên truyền, làm Cơ quan ngôn luận
của Trung ương Hội, trực tiếp quản lý trang web và tạp chí Hội nhập và Phát triển
của Hội. Ngoài ra, có thể nghiên cứu, chuẩn
bị điều kiện để khi thời cơ thích hợp sẽ hình thành Trung tâm thông tin kinh tế
- xã hội Việt Nam - ASEAN.
Sắp xếp tinh giản bộ máy
cơ quan trung ương Hội theo hướng kiêm nhiệm, ít mà tinh thông, hiệu quả. Bổ
sung, nâng cấp cơ sở vật chất cho cơ quan trung ương Hội.
(2) Xúc tiến hình thành
một số Hội ở địa phương; các chi hội ngành nghề tại những tổ chức, doanh nghiệp
và địa phương... có nhu cầu và điều kiện thuận lợi, tập trung vào các tổ chức,
doanh nghiệp, địa phương đang có nhiều hoạt động hợp tác kinh tế và đầu tư lớn
với các nước ASEAN.
(3)
Tổ chức văn phòng đại
diện hoặc cá nhân đại diện tại một số nước ASEAN căn cứ vào nhu
cầu và khi điều kiện tài chính cho phép.
(4) Giữ nguyên Biểu tượng
Hội, nghiên cứu thiết kế, thủ tục trao Thẻ hội viên, Giấy chứng nhận hội viên
và các mẫu văn bản khác của Hội.
(5) Mở tài khoản của Hội
tại ngân hàng, đăng ký mã số thuế cho Hội. Khi cần thiết sẽ tuyển dụng nhân
viên kế tóan chuyên nghiệp làm việc một số giờ, ngày mỗi tuần (part-time) cho Hội.
(6) Đăng ký để Hội trở
thành thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
2) Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, quảng bá Hội và phát triển hội viên
Hoạt động tuyên truyền,
quảng bá Hội và phát triển hội viên trong nhiệm kỳ thứ 2 tập trung vào 4 nội
dung cụ thể sau:
(1) Tổ chức một số đợt
tuyên truyền, vận động với quy mô lớn nhằm quảng bá tôn chỉ mục đích, vai trò,
nhiệm vụ và phạm vi hoạt động của Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN
tới các đối tượng đang có các quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư với
các nước ASEAN hoặc quan tâm tới phát triển quan hệ hợp tác kinh tế và đầu tư với các nước
ASEAN. In tờ rơi quảng bá về Hội để giới thiệu với các đối tác.
(2) Hoàn thiện, tiến tới
đăng ký chính thức website của Hội với cơ quan nhà nước. Đăng ký chính thức
website cho tờ báo Mê Kông của Hội.
(3) Phát huy năng lực,
trí tuệ của các hội viên. Nghiên cứu các hình thức phù hợp để giữ mối liên lạc
thường xuyên giữa Trung ương Hội và các hội viên. Cần định kỳ cung cấp thông
tin cho hội viên để hội viên biết Hội đang làm gì, cần sự tham gia của hội viên
như thế nào... Ngược lại, hội viên cũng có thể mang lại cho Hội những dự án tài
chính hay quan điểm ý kiến phản biện có giá trị.
(4) Đẩy mạnh công tác
phát triển hội viên; phát triển mạng lưới hội viên ở các ngành, lĩnh vực và
các hội địa phương. Chú trọng kết nạp hội viên là các doanh nghiệp có quy mô lớn
và vừa, các doanh nhân, nhà khoa học, nhà quản lý đương chức hoặc đã về hưu có
trình độ, có kinh nghiệm và có khả năng tham gia phát triển Hội. Nghiên cứu tổ
chức các hình thức hoạt động của Hội phù hợp với tình hình và đặc điểm của từng
loại hội viên để mang lại hiệu quả thiết thực cho họ.
(5) Từng bước mở rộng mối
quan hệ hợp tác của Hội với các tổ chức, hội, hiệp hội, doanh nghiệp, cá nhân trong
và ngoài nước có nhiều quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ASEAN.
(6) Khuyến khích hội
viên tuyên truyền, quảng bá rộng rãi các thông tin về Hội. Khuyến khích hội
viên sử dụng tên và biểu tượng của Hội trong các hoạt động có liên quan đến thực
hiện tôn chỉ, mục đích của Hội. Khuyến khích hội viên dùng danh nghĩa là hội
viên của Hội để thực hiện và công bố các công trình nghiên cứu khoa học...
3) Nâng cao tính chuyên nghiệp và uy
tín của Hội, làm cho Hội thực sự là một tổ chức vững mạnh, đáng tin cậy, hữu
ích và cần thiết đối với các hội viên, cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan, tổ
chức trong nước và khu vực.
Mục tiêu then chốt của Hội
trong nhiệm kỳ này là nâng cao tính chuyên nghiệp và uy tín của Hội, làm sao để
các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thấy cần phải tham khảo ý kiến, quan điểm của
Hội trong các hoạt động kinh tế, nhất là trong hợp tác với các nước ASEAN và cộng
đồng kinh tế ASEAN.
Về tài chính, Hội phải thiết
lập được các nguồn thu ổn định, chủ động từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo
quy định của pháp luật để đảm bảo tự trang trải kinh phí hoạt động thường
xuyên, tiến tới tự chủ nguồn tài chính để đầu tư tiếp tục phát triển. Nhiệm vụ
trung tâm là phát triển các nguồn thu từ dịch vụ tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp
Việt Nam đầu tư sang các nước ASEAN và các doanh nghiệp ASEAN đầu tư vào Việt
Nam.
Căn cứ tôn chỉ, mục đích,
nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định tại Điều lệ Hội (sửa đổi), căn cứ đặc thù về
chính trị nghề nghiệp và quan hệ quốc tế của Hội, trong nhiệm kỳ 2015-2020, Hội
tập trung thực hiện một số hoạt động chuyên môn, hợp tác kinh tế, thương mại và
đầu tư sau:
(1) Tăng cường các hoạt
động tư vấn và tham gia phản biện, giám định xã hội theo yêu cầu của các cơ
quan nhà nước và các tổ chức khác có thẩm quyền.
- Thường xuyên gặp gỡ,
liên lạc với các hội viên nòng cốt để thu thập, tổng hợp ý kiến hội viên về
tình hình phát triển của đất nước, của các doanh nghiệp cũng như tâm tư, nguyện
vọng của hội viên muốn đề xuất, phản ánh với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Tư vấn và tham gia phản
biện, giám định việc xây dựng, bổ sung, sửa đổi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
và các chính sách phát triển hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư của Đảng và
Nhà nước với các nước ASEAN. Đề xuất và tham gia với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây
dựng, thực hiện Chiến lược hợp tác kinh tế và đầu tư với các nước ASEAN để đảm
bảo lợi ích của đất nước trong hội nhập kinh tế với các nước ASEAN.
- Tư vấn và tham gia phản
biện, giám định các chương trình, dự án của Chính phủ và các Bộ, ngành, địa
phương nước ta hợp tác với các nước ASEAN cũng như của Chính phủ, các Bộ,
ngành, địa phương các nước ASEAN có hợp tác kinh tế và đầu tư với nước ta.
- Tư vấn và tham gia phản
biện, giám định các dự án đầu tư của các tổ chức, doanh nghiệp và các nhà đầu
tư nước ta với các nước ASEAN và của các tổ chức, doanh nghiệp, nhà đầu tư các
nước ASEAN với nước ta.
(2) Chủ trì hoặc tham
gia phối hợp với các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến cơ sở thuộc ngành Kế hoạch
và Đầu tư, với Phân ban hợp tác Việt Nam - Lào, Phân ban hợp tác Việt Nam -
Campuchia và với các cơ quan, tổ chức khác trong nước và quốc tế tổ chức một số
cuộc hội thảo, hội nghị, diễn đàn, triển lãm, hội chợ trong nước và quốc tế về
phát triển và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế và đầu tư Việt Nam - ASEAN, tuyên
truyền về Cộng đồng kinh tế ASEAN... tạo cơ hội cho các hội viên được gặp
gỡ, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và thông tin hợp tác kinh tế và đầu tư với các nước ASEAN.
Bốn nội dung có thể kêu
gọi tài trợ để tập trung thực hiện hàng năm là:
- Chủ trì tổ chức diễn
đàn hàng năm về tình hình và triển vọng kinh tế vĩ mô của Việt Nam và các nước
ASEAN (Diễn đàn kinh tế ASEAN I), qua đó đóng góp ý kiến với Đảng và Nhà nước về
cơ chế chính sách và phương hướng hợp tác kinh tế với các nước này.
- Chủ trì tổ chức diễn
đàn hàng năm về tình hình và triển vọng của một số ngành, sản phẩm quan trọng của
Việt Nam và các nước ASEAN (Diễn đàn kinh tế ASEAN II hay Diễn đàn doanh nghiệp
Việt Nam - ASEAN), qua đó đề xuất, gợi mở phương hướng hợp tác thương mại, đầu
tư sang các nước ASEAN cho các doanh nghiệp Việt Nam và cho các doanh nghiệp
ASEAN muốn hợp tác thương mại, đầu tư với Việt Nam.
- Tiếp tục tham gia có
hiệu quả các đề tài, dự án hợp tác với các cơ quan nhà nước; tổ chức các hội thảo,
hội nghị lấy ý kiến các hội viên về sửa đổi, bổ sung chính sách hợp tác với các
nước ASEAN, báo cáo các cơ quan hữu quan của Đảng và Nhà nước...
- Chủ trì tổ chức hoặc
tham gia tổ chức định kỳ hội chợ kết hợp triển lãm thành tựu phát triển hợp tác kinh
tế và đầu tư giữa Việt Nam với các nước ASEAN, trước hết tại Việt
Nam, từng bước luân phiên tại các nước ASEAN khác, đồng thời trao các giải
thưởng tôn vinh các hội viên, sản phẩm, địa phương... tiêu biểu của Việt Nam và
các nước ASEAN trong sự nghiệp này.
Liên kết với một số cơ quan nhà nứơc, tổ chức xã hội - nghề nghiệp xây dựng
tiêu chuẩn, lô gô (biểu tượng) sản phẩm ASEAN để trao tặng cho các loại sản phẩm
thương mại trên thị trường ASEAN đạt được tiêu chuẩn này.
(3) Trung ương và các cơ
quan, tổ chức của Hội thường xuyên liên lạc với hội viên để động viên trí tuệ,
năng lực của các hội viên nhằm tìm nhiều dự án và các nguồn tài chính trong và
ngòai nước cho Hội. Tổ chức thực hiện tốt các dự án, hợp đồng, làm ra những sản
phẩm có giá trị đáp ứng yêu cầu của Đảng, Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp Việt
Nam và các nước ASEAN.
(4) Tổ chức một số sự kiện
khác để tạo nguồn thu như:
- Tìm kiếm các nhà bảo
trợ, tiến tới tổ chức đua xe đạp truyền thống 2-3 năm 1 lần vòng quanh ba nước
Việt Nam – Lào – Campuchia.
- Tổ chức quảng cáo cho
các doanh nghiệp, địa phương... trên các phương tiện truyền thông của Hội.
- Tổ chức các hoạt động
giao lưu văn hóa, văng nghệ, thể thao với các đối tác ASEAN.
- Tùy điều kiện tài
chính, có thể định kỳ tổ chức một số cuộc điều tra, đánh giá tình hình doanh
nghiệp, tình hình thị trường, tình hình và hiệu quả đầu tư, trao đổi thương mại
của Việt Nam với các nước ASEAN để cung cấp thông tin cảnh báo sớm cho Chính phủ
cũng như các doanh nghiệp.
(5) Thực hiện các hoạt động tư vấn, chuyên môn để vừa tạo
nguồn thu tài chính cho Hội, vừa tạo điều kiện cho các hội viên đem kiến thức
và kinh nghiệm giúp Chính phủ, tổ chức, doanh nghiệp, địa phương và nhân dân các nước ASEAN phát triển hợp tác kinh
tế và đầu tư đa phương và song phương, tập trung vào:
- Thu thập, cung cấp thông tin kinh tế, xã hội, môi trường, đặc
biệt là các thông tin liên quan đến chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
dự án phát triển hợp tác kinh tế của nước ta với các nước ASEAN cũng như của các
nước ASEAN với nước ta.
- Tổ chức giảng dạy, đào tạo, hướng dẫn nâng cao các kỹ
năng chuyên môn, trang bị kiến thức, hiểu biết về luật pháp, phong tục tập
quán và cung cấp những thông tin khác về môi trường đầu tư của các nước ASEAN cho
các tổ chức, doanh nghiệp và nhà đầu tư Việt Nam; đồng thời cũng cung cấp các dịch
vụ tương tự cho các tổ chức, doanh nghiệp, nhà đầu tư các nước ASEAN khi tiến
hành các hoạt động hợp tác kinh tế và đầu tư với Việt Nam.
- Tìm nguồn tài trợ và tổ chức thực hiện các dự án,
chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho hội viên và các tổ chức, cá nhân quan tâm
nhằm nâng cao năng lực trong xóa đói, giảm nghèo, tăng sức cạnh tranh, tăng
năng lực chuyên môn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hợp tác với các cơ quan kế hoạch và đầu tư, với các địa
phương, các cơ quan, tổ chức khác và các doanh nghiệp, cá nhân của Việt Nam và các
nước ASEAN tiến hành điều tra thu thập và cung cấp thông tin chuyên sâu về địa
bàn, lĩnh vực đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam và các nước ASEAN theo yêu cầu
riêng của doanh nghiệp và nhà đầu tư Việt Nam và các nước ASEAN.
- Tham gia đấu thầu và tổ chức thực hiện các chương
trình, dự án, đề tài nghiên cứu khoa học, giáo dục đào tạo... với các cơ quan
nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp... trong cộng đồng ASEAN và với các tổ chức quốc
tế và các quốc gia khác.
(6) Thực hiện các dịch vụ
tư vấn và trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp, nhà đầu đầu
tư Việt Nam hoạt động sản
xuất, đầu tư tại các nước ASEAN và các doanh nghiệp, nhà đầu tư các nước ASEAN hoạt động sản xuất, đầu tư tại Việt Nam
phù hợp với pháp luật của Việt Nam, các nước ASEAN và thông lệ quốc tế. Ưu tiên cung cấp các dịch
vụ tư vấn, chuyên môn và trợ giúp pháp lý đối với các hội viên của Hội.
(7) Hỗ trợ các hội viên
khi hội viên tham gia các hoạt động sản xuất, đầu tư, thương mại, công tác, du
lịch... tại các nước ASEAN. Ví dụ hỗ trợ tìm dự án, địa điểm, thị trường,
phương hướng đầu tư, giúp đỡ để tiếp xúc với các đối tác, cơ quan, tổ chức nước
bạn...
(8) Tổ chức lại các hoạt
động xuất bản của Hội; nâng cao chất lượng, uy tín của tạp chí Hợp tác và Phát
triển, Thời báo Mê Kông, cổng thông tin điện tử. Thường xuyên công bố các hoạt
động của Hội trên các phương tiện thông tin của Hội.
Nghiên cứu xây dựng Cổng
thông tin phát triển hợp kinh tế Việt Nam – ASEAN về kinh tế, thương mại và đầu
tư.
(9) Khi có cơ hội thuận
lợi, triển khai hoạt động chuyên môn nêu trên sang địa bàn các nước ngoài khu vực
Cộng đồng kinh tế ASEAN.
4) Tổ chức các hoạt động đối ngoại, nâng cao uy tín
quốc tế của Hội, làm cho Hội thực sự là một tổ chức đại diện xứng đáng cho các
doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế ASEAN.
Mục tiêu của tổ chức các hoạt động đối
ngoại là phát triển, nâng cao vị thế của Hội ở các nước ASEAN, đồng thời tạo
thuận lợi cho quá trình phát triển và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế và
đầu tư Việt Nam - ASEAN. Dự kiến trong nhiệm kỳ 2015-2020, các hoạt động đối ngoại
của Hội sẽ tập trung vào 9 nhiệm vụ sau:
(1) Duy trì, phát triển
quan hệ của Hội với các cơ quan Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội,
các tổ chức, các hiệp hội và các hội xã hội - nghề nghịêp trong nước. Thiết lập
quan hệ với một số địa phương, nhất là các địa phương có khả năng thành lập các
chi hội phát triển hợp tác kinh tế với các nước ASEAN, các địa phương có biên
giới với Lào và Campuchia.
(2) Thường xuyên tiếp
xúc với các Đại sứ quán các nước ASEAN tại Việt Nam và Đại sứ quán Việt Nam tại
các nước ASEAN để thông báo về tình hình và phương hướng hoạt động Hội, tạo cơ sở để giao
lưu, hợp tác và trao đổi thông tin. Thiết lập quan hệ với một số cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp, cá nhân tại các nước ASEAN, trước hết với các cơ
quan, tổ chức, cá nhân thuộc ngành Kế hoạch và Đầu tư của các nước ASEAN.
(3) Tổ chức các hoạt động
giao lưu với các cơ quan, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và cá nhân của Việt Nam
và các nước ASEAN trên cơ sở tuân thủ quy định pháp luật của mỗi nước để thực
hiện tôn chỉ, mục đích của Hội nhằm góp phần tăng cường sự hợp tác kinh tế giữa
các nước ASEAN, đồng thời phát huy khả năng của các tổ chức ASEAN để hỗ trợ quá
trình phát triển kinh tế và đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sang các nước này phù hợp với nhu cầu của họ và phù hợp
với đường lối hợp tác kinh tế với các nước ASEAN của Đảng và Nhà nước Việt
Nam.
(4) Tìm hiểu khả năng và
đăng ký gia nhập một số tổ chức quốc tế phù hợp với tôn chỉ mục đích của Hội;
tham gia ký kết các thỏa thuận hợp tác quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật
và với sự đồng ý của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
(5) Động viên trí tuệ,
năng lực, kinh nghiệm của các hội viên nhằm tìm nhiều dự án và các nguồn tài
chính trong và ngòai nước cho Hội.
(6) In các tờ rơi giới
thiệu về Hội, dịch các kết quả nghiên cứu kinh tế vĩ mô và vi mô và các kết quả
khác... để trao đổi với các đối tác ASEAN.
(7) Chuẩn bị các điều kiện
cần thiết để tiến tới thành lập văn phòng đại diện của Hội tại các nước ASEAN.
(8) Tổ chức một số đoàn
khảo sát, trao đổi kinh nghiệm hợp tác kinh tế, đầu tư với các đối tác tại các nước ASEAN. Tiếp đón và làm việc với
các đối tác các nước ASEAN sang thăm và làm việc tại Việt Nam.
(9) Khi điều kiện tài
chính cho phép, tổ chức một số đoàn tham quan du lịch kết hợp tìm hiểu cơ hội hợp
tác kinh tế và đầu tư với các nước ASEAN cho hội viên có nhiều
đóng góp cho Hội.
4. Tổ chức thực hiện
1) Tổ chức công tác ở Trung ương Hội:
(1) Sắp xếp tinh giản bộ máy
cơ quan trung ương Hội theo hướng ít nhưng tinh thông, hiệu quả. Mỗi cán bộ
hành chính, văn phòng cần kiêm nhiệm nhiều việc, kể cả tham gia các đề
tài, dự án... Trước mắt, chỉ tuyển thêm cán bộ cho những vị trí thực sự
cần thiết; ưu tiên mời các cá nhân có năng lực đang công tác ở nơi khác làm
thêm 30-70% thời gian tại Hội tùy theo tính chất công việc và các dự án.
(2) Sớm hoàn thành quy
chế làm việc trong Hội, đặc biệt là quy chế phân chia, ủy quyền trách nhiệm quản
lý giữa các đồng chí lãnh đạo Hội. Do đặc điểm của Hội là lãnh đạo thường kiêm
nhiệm công việc ở cơ quan khác, cần cụ thể hóa trách nhiệm của Chủ tịch Hội và
những việc Chủ tịch Hội ủy quyền cho các Phó Chủ tịch thay mặt Chủ tịch xử lý,
quyết định và ký các văn bản.
(3) Việc bổ sung, nâng cấp
cơ sở vật chất cho cơ quan trung ương Hội đang rất cần thiết; chi phí cũng
không quá lớn; cần xem xét, xử lý sớm.
2) Huy động sức mạnh tổng hợp của Hội thực hiện Chương trình hoạt động.
(1) Ban lãnh đạo, đặc biệt
là đồng chí Chủ tịch Hội, đề ra quyết tâm củng cố, phát triển Hội, đoàn kết
cùng nhau tìm các chương trình, dự án, đề tài và các nguồn tài chính để thực hiện.
Tận dụng mọi nguồn tài chính có thể huy động như thông qua cac hỗ trợ của Nhà
nước, các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, các
doanh nghiệp... Chú trọng tìm một vài tổ chức, doanh nghiệp bảo trợ; ký hợp đồng
trách nhiệm, nghĩa vụ tài chính cụ thể rõ ràng giữa các tổ chức, doanh nghiệp bảo
trợ với Hội.
(2) Sức mạnh của Hội bắt
nguồn từ trí tuệ, công sức lao động, đóng góp của mỗi hội viên và khả năng kết
nối của các tổ chức trong Hội và của Trung ương Hội. Do vậy, bên cạnh những cố
gắng, quyết tâm của Trung ương Hội, rất mong từng hội viên phát huy tính chủ động,
sáng tạo, tích cực tham gia thực hiện các nội dung nêu ra trong chương trình hoạt
động này, đồng thời qua thực tế, đề xuất các hoạt động cụ thể, có hiệu quả và
tính khả thi cao để kiến nghị Trung ương Hội, các ban chuyên môn, các tổ chức của
Hội nghiên cứu, tổ chức thực hiện.
3) Nâng cao trách nhiệm của hội viên với công tác Hội
Trung ương hội định kỳ
chủ động liên lạc, tiếp xúc với các hội viên, động viên các hội viên chủ động trao đổi,
tham gia ý kiến trực tiếp với các Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Hội và Ban
lãnh đạo Hội về các vấn đề liên quan đến hoạt động của Hội. Các ý kiến, kiến
nghị và giải pháp xử lý (nếu có) được gửi về Văn phòng Hội để nghiên cứu, phổ
biến trong Hội, làm cho Hội hoạt động ngày càng hiệu quả và phát triển vững mạnh.
*****
Trên đây là Chương trình hoạt động
nhiệm kỳ hai (2015-2020) của Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào -
Campuchia, nếu được Đại hội thông qua sẽ đổi tên thành Hội phát
triển hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN.
Hội phát triển hợp tác
kinh tế Việt Nam – ASEAN là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp có thuận lợi rất
lớn là được sự chỉ đạo, quản lý, giúp đỡ trực tiếp của Đảng và Chính phủ, đặc
biệt là Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Do đó Đại hội tin tưởng trong giai đoạn từ nay tới
năm 2020, trước nhiều cơ hội mới đang hình thành và sẽ mở ra, toàn thể hội viên
Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN với phương châm “Kiên trì, Kiên
trì, chính là thắng lợi!” nhất định sẽ đoàn kết, nỗ lực từng bước vượt qua các
khó khăn thách thức, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động, từ đó thực
hiện tốt Chương trình hoạt động và các Nghị quyết đề ra tại Đại hội này.
Cuối cùng, Đại hội xin
trân trọng cảm ơn sự quan tâm ủng hộ rất quý báu của các cơ quan, các đồng chí
lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đặc biệt từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ, Bộ
Công thương, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, các Phân ban hợp tác Việt Nam - Lào,
Việt Nam - Campuchia... đối với Hội trong nhiệm kỳ vừa qua. Đại hội rất mong tiếp
tục nhận được sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan, các đồng chí lãnh đạo Đảng và
Nhà nước trong nhiệm kỳ tới để các hoạt động của Hội ngày càng có hiệu quả thiết
thực hơn, ý nghĩa hơn, đóng góp nhiều hơn nữa vào sự nghiệp phát triển kinh tế,
xã hội và quá trình hội nhập kinh tế của đất nước với cộng đồng kinh tế ASEAN./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét