Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2012

Công giáo tại Việt Nam

Đang đọc mấy tài liệu lịch sử nên tìm hiểu thêm về công giáo:

Công giáo tại Việt Nam


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_gi%C3%A1o_t%E1%BA%A1i_Vi%E1%BB%87t_Nam

Cộng đồng Công giáo tại Việt Nam là một bộ phận của Giáo hội Công giáo Rôma, dưới sự lãnh đạo tinh thần của Giáo hoàng và Giáo triều Rôma. Với khoảng 6,87%, Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ người Công giáo (trong tổng dân số) xếp thứ ba ở châu Á, sau Đông Timor và Philippines. Thời cực thịnh, Công giáo tại Việt Nam còn được mệnh danh là "Trưởng nữ Giáo hội bên Viễn Đông"

Được bắt đầu từ khi các nhà truyền giáo phương Tây đến Việt Nam từ thế kỷ 16 để rao giảng đạo, Công giáo khi ấy còn gọi là Đạo Gia-tô. Trải qua nhiều thăng trầm và biến đổi lịch sử, cho đến năm 2005, Công giáo tại Việt Nam hiện có 5,7 triệu tín đồ trong tổng số dân 82 triệu, với 3.100 linh mục, 14.400 tu sĩ, 1.249 đại chủng sinh và 53.800 giáo lý viên [5].
Trong tiếng Việt, thuật ngữ Công giáo được dùng dể dịch chữ καθολικος, Catholica (Catholique), với ý nghĩa đó là "đạo chung, đạo phổ quát, đạo công cộng" đón nhận mọi người, chứ không riêng cho dân tộc hay quốc gia nào. Vì thế cộng đồng hoặc đoàn thể Công giáo Việt Nam còn được gọi là Công đoàn hoặc Cộng đoàn [6]. Tuy nhiên, ở Việt Nam, Công giáo cũng được gọi là Thiên Chúa giáo.

Lịch sử Công giáo Việt Nam trải qua các thời kỳ:
Thời kỳ khai sinh (1533 - 1659)
Giai đoạn dò dẫm

Cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, Việt Nam bắt đầu giao thương với các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Anh, Pháp và cả Nhật Bảnchâu Á để trao đổi hàng hóa và vũ khí quân sự. Thời gian này, Công giáo cũng phát động cuộc truyền giáo quy mô lớn đi đến khắp nơi trên thế giới, trong đó có miền Viễn Đông Á châu. Có thể kể đến các nhà thừa sai như Phanxicô Xaviê (1541), Matteo Ricci đến Ấn ĐộTrung Hoa nhưng họ không đạt được kết quả đáng kể.

Trong bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục được soạn thảo dưới triều Tự Đức có nói đến chỉ dụ cấm đạo Thiên Chúa (hay đạo Gia-tô, phiên âm từ Giêsu củachữ Hán) chú thích như sau: "Gia-tô, dã lục, Lê Trang Tông, Nguyên Hoà nguyên niên, tam nguyệt nhật, Dương nhân I-nê-khu tiềm lai Nam Chân chi Ninh Cường, Quần Anh, Giao Thuỷ chi Trà Lũ âm dĩ Gia-tô tả đạo truyền giáo".
Dịch nghĩa: “Đạo Gia-tô, theo bút ký của tư nhân, tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ nhất (1533) đời Lê Trang Tông, có người Tây dương tên I-Nê-Khu, lén đến truyền đạo Gia-tô ở làng Ninh Cường và Quần Anh, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, huyện Giao Thủy”. ”

Tuy nhiên những chi tiết liên hệ tới Inekhu (có lẽ là phiên âm của Inigo trong tiếng Tây Ban Nha - nay phiên âm là Inhaxiô) ngày nay không còn được ghi nhớ, và do đó không ai biết rõ về tông tích, cũng như về công cuộc truyền đạo của vị thừa sai thứ nhất này. Theo linh mục Marcos Gispert, O.P., nhà sử học Dòng Anh Em Thuyết Giáo đã sống tại Việt Nam 34 năm, sau Inekhu còn một số nhà truyền giáo khác như:
Linh mục Gaspar de S. Cruz: năm 1550 từ Malacca đổ bộ lên Hà Tiên, và sau đó từ cửa biển Bà Rịa đi Quảng Đông.
Hai linh mục Lopez và Acevedo: năm 1558 đã tới giảng vùng Cao Miên trong 10 năm.
Hai linh mục Luis de Fonseca, O.P. (Bồ Đào Nha) và Grégoire de la Motte, O.P. (Pháp) cũng từ Malacca tới, suốt 6 năm đi truyền giáo tại Quảng Nam trong thời ChúaNguyễn Hoàng (1580-1586).

Tiếp tục công cuộc truyền giáo của các vị truyền giáo đầu tiên, đã có rất nhiều nhà truyền giáo thuộc nhiều dòng tu và hội thừa sai khác đã đến Việt Nam. Vì thế, nhiều nhà sử học Công giáo Việt Nam đã chọn năm 1533 là năm khởi đầu cho đạo Công giáo tại Việt Nam.

Sử liệu Pháp ghi lại rằng vào năm 1516 có một nhà hàng hải Bồ Đào Nha tên là Fernao Perez de Andrade đã đến tận bờ biển Việt Nam. Năm 1596 thầy dòng người Tây Ban Nha tên là Don Diego d’Averte đã đặt chân đến Huế, nhưng bị đuổi đi ngay. Hội Ái hữu Chúa Giêsu (La Compagnie de Jésus) thành lập một tổ chức truyền đạo tại miền Nam Việt Nam (la Mission de Cochinchine) năm 1615.

Năm 1613 nhà thám hiểm người Anh tên là Richard Carwarden bị giết trên vùng biển Đà Nẵng. Năm 1614 những nhà truyền đạo dòng Tên theo chân các thương nhânngười Bồ Đào Nha từ Macao, qua phía nam Trung Hoa, để đến Việt Nam.
[sửa]Giai đoạn mở đạo

Những nỗ lực truyền giáo đầu tiên thực tế chỉ là những sự dọ dẫm, chuẩn bị cho giai đoạn khai phá chính thức. Giai đoạn này kéo dài từ năm 1615-1665 với các vị thừa sai Dòng Tên, cùng thời điểm, lãnh thổ Việt Nam bị chia cắt thành hai miền Nam Bắc, lấy sông Gianh làm ranh giới. Phía Nam gọi là Đàng Trong, do các chúa Nguyễn cai quản. Phía Bắc gọi là Đàng Ngoài do vua Lê, chúa Trịnh nắm quyền.

Các linh mục Dòng Tên theo chân Phanxicô Xaviê truyền giáo tại Nhật Bản năm 1549, bị Nhật hoàng Daifusama trục xuất khỏi đất Phù Tang năm 1614, đã tập trung tạiMacao (được xem như một đầu cầu thành lập từ năm 1564). Từ kinh nghiệm truyền giáo ở Trung Quốc và Nhật Bản, các thừa sai rất quan tâm đến việc học ngôn ngữ, phong tục Việt và giảng đạo bằng tiếng Việt. Các linh mục Dòng Tên ở lại Việt Nam cho tới năm 1788. Vắng bóng đi trong một thời gian 169 năm (1788-1957). Nhưng rồi giáo hội Việt Nam yêu cầu các vị này trở lại năm 1957, để ngày 13 tháng 9 năm 1958 nhận trách nhiệm điều khiển Giáo hoàng Học viện Pio X Đà Lạt, đồng thời khuếch trương nhiều hoạt động khác nhau trong lãnh vực văn hóa xã hội ở Miền Nam Việt Nam.

Ngày 15 tháng 1 năm 1615, linh mục Francesco Buzomi, Diego Carvalho và các trợ sĩ đến Cửa Hàn, Đà Nẵng. Tiếp theo là Francisco de Pina, Cristoforo Borri, nhất là khiAlexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đến Cửa Bạng, Thanh Hóa (1629). Vì nhu cầu học hỏi ngôn ngữ Việt (lúc đó còn dùng chữ Hánchữ Nôm) để giao tiếp với người Việtmà các giáo sĩ bắt đầu ghi lại bằng cách phiên âm tiếng Việt dưới dạng chữ La tinh. Các giáo sĩ đã có gắng tổ chức giáo hội bằng cách tập trung khắp nơi từng nhóm thanh thiếu niên và cả người đã đứng tuổi thiện chí, sống đời độc thân và cùng với các linh mục trong giáo xứ hay là trong các nơi xa xôi hẻo lánh để chia sẻ việc truyền đạo, nhất là chuyện dạy giáo lý cho dân chúng và cũng giúp nâng cao đời sống xã hội của người dân.

Chữ Quốc ngữ ban đầu chưa được công nhận và chỉ dùng như chữ phiên âm cách phát âm, và phải cạnh tranh với chữ Nôm, vốn có một chỗ đứng nhất định trong văn hóa Việt Nam. Kho tàng văn chương Hán-Nôm Công giáo cũng rất lớn, tuy nhiều giáo sĩ chỉ có thể nói tiếng Việt (qua cách học chữ Quốc ngữ phiên âm) mà không thể viết chữ Nôm. Chỉ riêng giáo sĩ Girolamo Majorica, trong khoảng 1632-1656, đã viết 45 tác phẩm lớn nhỏ bằng chữ Nôm, nổi tiếng nhất là cuốn Các Thánh Truyện viết năm 1646. Nhiều tác phẩm bị hư hỏng và mất mát do thời gian, chiến tranh và bách hại tôn giáo.

Việc truyền đạo được vua chúa Việt Nam cho phép trong một số nơi với nhiều hạn chế của các quan lại địa phương, nên các tín đồ gặp nhiều khó khăn trong việc giữ đạo, có nơi phải bị giết chết như trường hợp thầy giảng Anrê Phú YênQuảng Nam ngày 26 tháng 7, 1644.

Thời kỳ hình thành (1659 - 1802)

Một gia đình Công giáo sùng đạo ở Miền Nam Việt Nam (1970), với 3 người con làm linh mục, 3 người con làm nữ tu.

Ngày 3 tháng 7 năm 1645, linh mục Alexandre de Rhodes rời Việt Nam về Roma để báo cáo cho Tòa Thánh về những tiến triển mau chóng trong việc truyền đạo tại Việt Nam, nhất là xin gửi một số giám mục đến truyền giáo tại Việt Nam, nơi mà ông gọi là "cánh đồng truyền giáo phì nhiêu" để củng cố nền móng cho Giáo hội.

Ông được Tòa Thánh cho phép đi khắp nước Pháp đi tìm kiếm ơn gọi, tìm những linh mục sẵn sàng xung phong và tiếp tục công việc đã khởi sự với nhiều thành quả may mắn. Tại đây mới có Hội Thừa sai Paris (Missions Étrangères de Paris), ra đời năm 1658 và được chấp nhận năm 1664 dưới thời Giáo hoàng Alexanđê VII.

Ngày 9 tháng 9 năm 1659, Giáo hoàng Alexanđê VII qua Sắc chỉ Super Cathedram quyết định thiết lập ở Việt Nam hai giáo phận và chọn hai người thừa sai thuộc Hội Thừa sai Paris làm Đại diện Tông Tòa. Giáo phận Đàng Trong từ sông Gianh trở vào Nam, gồm cả phần đất Chiêm Thành, Chân Lạp do Giám mục Pierre Lambert de la Motte cai quản. Giáo phận Đàng Ngoài từ sông Gianh trở ra Bắc, bao gồm cả Lào và 5 tỉnh miền Nam Trung Quốc do Giám mục François Pallu cai quản.

Năm 1669, Lambert tới Phố Hiến (Hưng Yên) và đầu năm 1670, ông truyền chức linh mục cho 7 thầy, chủ toạ công đồng đầu tiên ở Phố Hiến, lập Dòng Mến Thánh Giá tại Kiên Lao (Bùi Chu) và Bái Vàng (Hà Tây).

Hội Thừa sai Paris có công lớn với giáo hội Việt Nam bằng cách:
Đã triệu tập Hội nghị Mục vụ đầu tiên: ngày 14 tháng 2 năm 1670 tại Đình Hiến tỉnh Nam Định, Giám mục Lambert de la Motte đã qui định thể chế nhà Đức Chúa Trời (giáo hội), và thành lập Dòng Mến Thánh giá, các chị em nữ tu là những cộng tác viên rất đắc lực của hàng giáo phẩm trong việc truyền đạo bên cạnh giáo dân, nhất là trong các vùng thôn quê.
Đã xây dựng Đại chủng viện Penang (1870) để đào tạo các linh mục bản xứ châu Á và Việt Nam: các thánh linh mục tử đạo miền Nam đều xuất thân từ đây; và suốt ba thế kỷ đã gắn bó với giáo hội địa phương cho tới sáng ngày 12 tháng 8 năm 1975, ngày mà các vị thừa sai ngoại quốc sau cùng được lệnh ra khỏi Việt Nam.

Theo lời mời của giám mục Phanxicô Pallu vì những đòi hỏi rất khẩn trương tại Việt Nam, số tín hữu tân tòng tiếp tục gia tăng, linh mục giám tỉnh Dòng Anh Em Thuyết Giáo Felipe Pardo, O.P., từ Manila đã phái hai linh mục Juan de Santa Cruz và Juan Arjona đi lối Trung Linh (Bùi Chu) lên Phố Hiến (Hưng Yên) ngày 7 tháng 7 năm1676. Nhưng, sự bất hoà giữa các thừa sai Dòng Tên và các giám mục thuộc Hội Thừa sai Paris, cùng với các sắc chỉ cấm đạo của vua chúa Việt Nam khi ấy khiến các vị thừa sai đã đi tìm một giải pháp mới, mà người ta cho rằng, đã tạo cơ hội người Pháp có điều kiện can thiệp và xâm chiếm Việt Nam bằng vũ lực sau này.

Năm 1679, Giáo hoàng Innôcentê XI lại chia giáo phận Đàng Ngoài thành hai giáo phận: Tây Đàng Ngoài (từ sông Hồng tới ranh giới Ai Lao) trao cho Hội Thừa sai Paris dưới quyền quản nhiệm của giám mục Bourges, và Đông Đàng Ngoài (từ tả ngạn sông Hồng chạy ra biển), ban đầu cũng do giám mục Deydier của Hội Thừa sai Paris phụ trách nhưng năm 1693, giám mục Deydier qua đời, giám mục De Bourges xin Tòa Thánh trao giáo phận này cho Dòng Thánh Đa Minh, vì từ 20 tháng 8 năm 1679tất cả số nhân sự của dòng đó đã tập trung về đây.

Đồng thời, linh mục Tổng quyền Dòng Anh Em Thuyết Giáo sát nhập các cơ sở truyền giáo của Hội Dòng tại miền Bắc hồi đó vào Tỉnh dòng Đức Mẹ Mân Côi tạiPhilippines. Từ Nhà Tổng quyền S. Sabina (tại Roma) cha Raimondo Lezoli, O.P., được Thánh bộ Truyền giáo đề cử sang tiếp tay với linh mục Juan de Santa Cruz (lúc đó đang ở Trung Linh), về sau Tòa Thánh yêu cầu ông chính thức lãnh trách nhiệm tất cả miền Đông. Ngày 2 tháng 2 năm 1702, tại Kẻ Sặt linh mục Raimondo Lezoli được thụ phong Giám mục tiên khởi của Dòng Đa Minh tại miền Bắc. Nền móng vững chắc Đa Minh đã được xây dựng tại Việt Nam, và một trong những hạt giống Dòng Thuyết Giáo đã gieo sâu trong lòng dân tộc bản xứ, sự tôn sùng tràng hạt Đức Mẹ Mân Côi vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay.

Ngày 18 tháng 3 năm 1967, tức 291 năm sau (1676-1967), linh mục bề trên Tổng quyền Aniceto Fernandez tuyên bố là đã tới thời điểm tách rời Việt Nam ra khỏi Philippines, và thành lập Tỉnh dòng Anh Em Thuyết Giáo riêng biệt với danh hiệu Tỉnh dòng Nữ vương Các Thánh Tử đạo Việt Nam.

Giám mục Pigneau de Béhaine, quen gọi là Bá Đa Lộc, Đại diện Tông tòa Đàng Trong (1771-1799), đã hết lòng giúp đỡ Nguyễn Phúc Ánh, khi ông đang bị khốn đốn bởi cuộc vây hãm của quân Tây Sơn. Giám mục này đã đưa hoàng tử Nguyễn Phước Cảnh (lúc bấy giờ mới lên 4 tuổi) sang Pháp và vận động người Pháp giúp đỡ tàu chiến, vũ khí để Nguyễn Phúc Ánh chống Tây Sơn và chúa Trịnh.

Tâm định của các vị thừa sai và của giám mục Bá Đa Lộc là muốn cho người Công giáo Việt Nam được an thân giữ đạo và đạo Chúa được mở rộng. Ông đã nuôi dạy hoàng tử Cảnh ở dinh Tân Xá. Sau khi ở Pháp về năm 1789, hoàng tử Cảnh không chịu làm lễ bái trước bàn thờ chư vị tiên đế khiến Gia Long rất bực tức. Bá Đa Lộc cũng đã khuyên hoàng tử Cảnh phải tôn trọng tục lệ thờ kính ông bà và lễ bái trước bàn thờ chư vị tiên đế [7]. Đây cũng là một trong những nguyên nhân sâu xa khiến vua Gia Long không chọn hoàng tôn Đán mà lại chọn người con thứ là hoàng tử Đảm sau này.

Bá Đa Lộc chết ngày 9 tháng 10, 1799 và hoàng tử Cảnh chết năm 1801 làm dập tắt hi vọng của người Công giáo Việt Nam về một thời kì tự do truyền đạo.
[sửa]Thời kỳ thử thách (1802 - 1885)
Tranh vẽ thời Nguyễn cảnh xử tử giáo sĩ Pháp Jean-Charles Cornay

Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long, triều đại đầu tiên của nhà Nguyễn đóng đô ở Phú Xuân, Huế. Nhớ ơn Bá Đa Lộc, Gia Long cho phép tự do truyền bá đạo Công giáo. Nhà vua có thiện cảm với đạo nhưng không muốn theo vì thấy luật lệ đạo quá nghiêm khắc đối với tục đa thê và việc thờ cúng tổ tiên. Ông nói: “Đạo Thiên Chúa rất hợp với đạo lý nhưng quá nghiêm khắc với tục đa thê. Đối với ta, không thể chỉ lấy một vợ, mặc dù ta thấy là trị cả nước còn dễ dàng và ít mệt mỏi hơn là giữ cho gia đình ta được yên ấm” [8]. Người Công giáo bắt đầu gặp nhiều cuộc cấm đạo kể từ triều vua Minh Mạng. Đặc biệt là Phong trào Văn Thân với khẩu hiệu “Bình Tây sát Tả” vào những năm 1867-1868, 1873-1874 và 1883-1885.

Năm 1844, Giáo hoàng Grêgôriô XVI chia giáo phận Đàng Trong thành hai giáo phận mới: Tây Đàng Trong (trung tâm là Sài Gòn) gồm sáu tỉnh Nam KỳCao Miên do Giám mục Dominique Lefèbvre Ngãi cai quản, Đông Đàng Trong (trung tâm là Quy Nhơn) do Giám mục E.T. Cuénot Thể cai quản.

Năm 1846, giáo phận Tây Đàng Ngoài được chia làm hai: Tây Đàng Ngoài (trung tâm là Hà Nội) do giám mục P.A. Retord Liêu cai quản và Nam Đàng Ngoài (trung tâm là Vinh) do Giám mục Gauthier Hậu cai quản.

Năm 1848, giáo phận Đông Đàng Ngoài lại chia thành Đông Đàng Ngoài (trung tâm là Hải Phòng) và Trung Đàng Ngoài (trung tâm làBùi Chu).

Năm 1850, Tòa Thánh lại chia địa phận Tây Đàng Trong thành hai: Tây Đàng Trong (các tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long) do Giám mục Lefèbvre cai quản và Nam Vang (phần đất các tỉnh phía nam Hậu Giang của Việt Nam và cả nước Cao Miên) do giám mục J.C. Miche Mịch cai quản. Giáo phận Đông Đàng Trong cũng chia thành hai: Bắc Đàng Trong là Huế (gồm Huế, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên) do Giám mục F.M. Pellerin Phan cai quản và Đông Đàng Trong gồm các tỉnh từ Quảng Nam vào đếnBình Thuận và các tỉnh Tây Nguyên do giám mục Cuénot Thể cai quản.

Vào năm 1883, Tòa Thánh lại tách giáo phận Đông Đàng Ngoài thành: Đông (Hải Phòng) và Bắc (gồm các tỉnh ở phía Bắc như Bắc Ninh, Bắc Giang, Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn) do giám mục Colomer Lễ cai quản.

Như vậy, các giáo phận lúc này gồm: ở Đàng Trong là Tây Đàng Trong (Sài Gòn), Đông Đàng Trong (Quy Nhơn), Bắc Đàng Trong (Huế), Nam Vang (Cần Thơ). Ở Đàng Ngoài là Tây Đàng Ngoài (Hà Nội), Nam Đàng Ngoài (Vinh), Đông Đàng Ngoài (Hải Phòng), Trung Đàng Ngoài (Bùi Chu) và Bắc Đàng Ngoài (Bắc Ninh).

Thời kỳ phát triển (1885 - 1960)

Khi triều đình Huế ký Hiệp ước Giáp Thân 1884 với Pháp, công nhận sự đô hộ của Pháp thì Công giáo Việt Nam lúc đó mới thật sự được tự do, công khai hoạt động. Giáo dân tăng nhanh, cơ sở tôn giáo như: nhà thờ, tu viện, tòa giám mục, trường học, viện dưỡng lão, viện cô nhi... được xây dựng khắp nơi. Các giáo phận được chia nhỏ lại. Miền Bắc gồm: Hà Nội, Phát Diệm, Hưng Hoá, Vinh, Hải Phòng, Bùi Chu, Bắc Ninh và Phủ doãn Lạng Sơn. Miền Nam gồm: Sài Gòn, Quy Nhơn, Huế, và một phần của giáo phận Nam Vang. Tổng cộng là 12 giáo phận. Năm 1925, Tòa Thánh lập Toà khâm sứ ở Đông Dương, đặt tại Phủ Cam (Huế). Ngày 10 tháng 01 năm 1933, Giáo hoàng Piô XI ra sắc lệnh bổ nhiệm linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng làm giám mục hiệu tòa Sozopoli, giữ chức giám mục phó với quyền kế vị giáo phận Phát Diệm. Ông là vị giám mục người Việt Nam đầu tiên.

Theo Hiệp định Genève, 1954, người Việt Nam ở Bắc hay Nam vĩ tuyến 17 sẽ được phép di chuyển qua đường phân ranh tạm thời trong thời hạn 300 ngày. Trong số những người rời miền Bắc, 700.000 là người Công giáo, gồm có 619 linh mục và 5 giám mục (bỏ lại chừng 375 linh mục, 4 giám mục Việt Nam và 2 giám mục ngoại quốc ở miền Bắc)[9]. Cuộc xuất hành này đã thay đổi một cách triệt để tỷ lệ người Công giáo ở miền Bắc và miền Nam. Trước đó, người Công giáo chiếm khoảng 10% dân số ở miền Bắc và chỉ chiếm 5% dân số ở miền Nam; sau năm 1954, các con số này đã đảo ngược. Hệ quả là Giáo hội Công giáo ở Miền Bắc bị xáo trộn còn Công giáo ở Miền Nam bị thay đổi cấu trúc, giáo phận Cần Thơ thành lập, tách ra từ giáo phận Nam Vang; giáo phận Nha Trang thành lập, tách ra từ giáo phận Quy Nhơn.

Từ 1954-1975, Việt Nam chia thành hai miền: miền Bắc với chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và miền Nam với chính thể Việt Nam Cộng hòa.
Miền Bắc (1954-1975)

Miền Nam (1954-1975)

Suốt nền Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm - một người Công giáo sùng đạo - đã có những chính sách thiên vị cho Giáo hội Công giáo trong việc đề đạt các vị trí công chức, lao động công ích, tuyển quân và đất đai. Đặc biệt vào năm 1959, Ngô Đình Diệm đã tuyên bố đặt Việt Nam Cộng hòa dưới sự bảo trợ của Đức Mẹ Maria. Tháng 5 năm 1963 xảy ra biến cố Phật giáo khiến sau đó chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ và anh em ông bị ám sát vào ngày 2 tháng 11 cùng năm. Dù vậy, những năm sau đó, Công giáo tại miền Nam Việt Nam vẫn có những bước phát triển mạnh mẽ bởi vì chính thể miền Nam vẫn tôn trọng quyền tự do tôn giáo. Cuối năm 1959, Tòa Thánh cho thành lập Tòa Khâm sứ mới tại miền Nam Việt Nam, đặt tại thủ đô Sài Gòn. Ngày 24 tháng 11, 1960, qua Tông Hiến Venerabilium Nostrorum, Giáo hoàng Gioan XXIII thiết lập Hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam, tức là hệ thống giáo sĩ lãnh đạo Giáo hội tại Việt Nam được giao cho người Việt, với 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Ngày 22 tháng 8 năm 1961, Thánh địa La Vang được tôn phong là Vương cung thánh đường. Một năm sau, ngày 13 tháng 11 năm 1962, Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn cũng được Tòa Thánh tôn phong lên hàng Vương cung Thánh đường.

Quan hệ với chính quyền Việt Nam
Bài chi tiết: Quan hệ Tòa Thánh – Việt Nam

Sau khi kiểm soát được toàn bộ miền nam Việt Nam, ngày 19 tháng 12 năm 1975, chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam yêu cầu Khâm sứ Henri Lemaitre phải rời Việt Nam. Kể từ đó, quan hệ giữa chính quyền Việt Nam với Tòa Thánh bị cắt đứt. Tiếp tục các chính sách tương tự miền Bắc, miền Nam đã tiến hành việc đóng cửa nhiều nhà thờ, quốc hữu hóa nhiều cơ sở của Giáo hội Công giáo trên danh nghĩa là tiếp quản, trưng thu hoặc mượn. Trong một bài trả lời phỏng vấn với hãng thông tấn Fides, Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn (Tổng Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh) cho biết, sau 1975 thì chỉ riêng Giáo phận Sài Gòn bị mất 400 cơ sở[10].

Ngày 24 tháng 5 năm 1976, Giáo hoàng Phaolô VI đã nâng Tổng giám mục Hà Nội Giuse Maria Trịnh Như Khuê lên chức Hồng y linh mục (thuộc nhà thờ hiệu tòa San Francesco di Paolo of Monti). Đây là vị hồng y đầu tiên của Việt Nam và cũng là người Việt Nam đầu tiên được quyền tham gia bầu chọn giáo hoàng.

Sau khi Hồng y Trịnh Như Khuê qua đời, Tòa Thánh tôn phong người kế nhiệm của ông là Tổng giám mục Giuse Maria Trịnh Văn Căn lên chức hồng y vào ngày 2 tháng 5 năm 1979. Sau khi nhận chức, ông tiếp xúc với chính quyền và ban Tôn giáo Trung ương để vận động thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam (thống nhất). Từ 24 tháng 4 đến 1 tháng 5 năm 1980, có 33 giám mục trong cả nước về Hà Nội dự Đại hội các Giám mục Việt Nam, quyết định thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam (thống nhất), khẳng định đường hướng mục vụ cho giáo hội tại Việt Nam “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào” [11]. Hồng y Trịnh Văn Căn, với tư cách là chức sắc cao cấp nhất của Giáo hội tại Việt Nam, khi ấy trở thành chủ tịch ủy ban thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam .

Ngày 19 tháng 6 năm 1988, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã chính thức phong Thánh cho 117 vị tu sĩ và giáo dân Công giáo Việt Nam. Khi được tin về việc phong thánh, chính quyền Việt Nam lên tiếng phản đối và cho rằng, trong số những người sẽ được phong thánh, có nhiều người là "tay sai của đế quốc, lót đường cho thực dân Phápđô hộ Việt Nam" từ năm 1884. Hà Nội nhận định, việc phong thánh này sẽ làm cho mối liên lạc giữa chính quyền và Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, cũng như mối quan hệ giữa Việt NamVatican thêm căng thẳng. Đài phát thanh Việt Nam đọc lệnh của Chính phủ, cấm người Công giáo cử hành lễ phong thánh này. Các giám mục lẫn giáo dân Việt Nam cũng không được chính quyền cho phép sang Vatican dự lễ.
[sửa]Hiện trạng tại Việt Nam

Hiện nay, Giáo hội Công giáo tại Việt Nam được chia thành ba giáo tỉnh:
Giáo tỉnh Hà Nội: với một tổng giáo phận và chín giáo phận.
Giáo tỉnh Huế: với một tổng giáo phận và năm giáo phận.
Giáo tỉnh Thành phố Hồ Chí Minh: với một tổng giáo phận và chín giáo phận.

Trong thời gian tới, Tòa Thánh sẽ thiết lập một giáo phận mới ở Giáo tỉnh Huế. Đứng đầu mỗi tổng giáo phận hay giáo phận là một vị tổng giám mục hay giám mục chính tòa do Tòa Thánh bổ nhiệm, với sự đồng thuận của Chính phủ Việt Nam. Trong trường hợp một tổng giáo phận hay giáo phận bị trống tòa, Tòa Thánh sẽ bổ nhiệm một giám mục làm Giám quản Tông Tòa hoặc linh mục đoàn của giáo phận ấy bầu ra một vị linh mục giám quản.

Hội đồng Giám mục Việt Nam là tổ chức, cơ cấu duy nhất của các vị giám mục tại Việt Nam, với mục đích hội nghị, và đưa ra đường hướng chung cho cả Giáo hội tại Việt Nam.

Quan hệ Tòa Thánh và chính quyền Việt Nam bắt đầu được nối lại bằng những cuộc tiếp xúc trực tiếp từ năm 1990, sau khi Việt Nam bước vào giai đoạn mở cửa. Năm 1994, Campuchia và Tòa Thánh thiết lập quan hệ ngoại giao và vị Sứ thần tại Campuchia vẫn đảm nhận liên lạc với Việt Nam.

Ngày 5 tháng 3 năm 2000, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong thầy giảng Anrê Phú Yên lên bậc Chân phước. Chính quyền Việt Nam không phản ứng như đợt phong trước, một biểu hiện sự ấm dần lên trong quan hệ giữa Giáo hội và chính quyền.

Tuy trong thời gian gần đây, một số người công giáo tại Việt Nam tham gia lực lượng chống đối lại chính quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và bị chính quyền theo dõi hoạt động[12], có trường hợp bị quản thúc hoặc xử tù[13], nhưng chính quyền Việt Nam cũng cố gắng xây dựng một số động thái làm "tan băng" trong quan hệ với Tòa Thánh. Đầu năm 2007, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã viếng thăm Vatican, hội kiến Giáo hoàng Biển Đức XVI và Thủ tướng Vatican, Hồng yTarcisio Bertone. Đây là vị thủ tướng đầu tiên của Việt Nam đến Vatican hội kiến giáo hoàng, kể từ sau năm 1975[14]. Ngày 12 tháng 8 năm 2008, Giáo hoàng Biển Đức XVI ra sắc chỉ tôn phong Đền thánh Phú Nhai lên hàng Vương cung thánh đường. Sắp tới là Vương cung thánh đường Sở Kiện. Như vậy, tại Việt Nam có 4 Vương cung thánh đường.

Tháng 2 năm 2009, phái đoàn của Tòa Thánh do Thứ trưởng ngoại giao - Đức ông Pietro Parolin dẫn đầu - đã đến thăm và làm việc tại Hà Nội, cả hai bên đã quyết định thành lập các "Nhóm Công tác hỗn hợp Việt Nam - Vatican" để thảo luận vấn đề về quan hệ ngoại giao[15]. Ngày 11 tháng 12 năm 2009, nhân chuyến công du Italia, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng đã có cuộc hội kiến với Giáo hoàng Biển Đức XVI và Hồng y Tarcisio Bertone[16]. Ông là vị nguyên thủ quốc gia đầu tiên của chính phủ Cộng sản Việt Nam hội kiến giáo hoàng.

Tính đến hết năm 2009, Việt Nam có 3 Tổng giáo phận Hà Nội, Huế, Sài Gòn và 23 giáo phận. Có cả thảy 103 vị được tấn phong giám mục, trong đó có 5 vị nhận tước Hồng y. Hiện tại (hết năm 2009), hết năm 2005 thì có đến 26 giáo phận, có 49 vị giám mục vẫn còn sống (8 vị đã nghỉ hưu), trong đó 1 vị Hồng y.

Năm Thánh của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam

Logo Năm Thánh 2010

Năm 2010 (theo năm phụng vụ của những người trong Công giáo), cùng với kỷ niệm 50 năm thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam, với 3 giáo tỉnh là Tổng giáo phận Sài Gòn, Tổng giáo phận HuếTổng giáo phận Hà Nội, với sự đề nghị của Hội đồng Giám mục Việt Nam lên Tòa Thánh Vatican, được chọn là Năm Thánh...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét