Thứ Bảy, 16 tháng 2, 2013

10 nguyên lý cơ bản của một hiến pháp tiến bộ

Bài này nhằm điểm lại các nguyên lý cơ bản mà một hiến pháp tiến bộ phải tuân theo. Cả 10 nguyên lý này đều được tuân thủ, ở các mức nào đó, bởi các hiến pháp ở các nước tiên tiến trên thế giới. (Từng hiến pháp thì không tuân thủ toàn bộ các quyên lý, nhưng nguyên lý nào cũng có hiến pháp tuân thủ)
Một hiến pháp tiến bộ, làm cơ sở cho một xã hội tiến bộ mà chúng
ta muốn có, phải tuân theo những nguyên lý cơ bản sau.
1. Nguyên lý pháp trị. Nguyên lý pháp trị (rule of law) được
Aristotle viết ra từ các đay hơn hai nghìn năm trong tác phẩm “Chính
Trị”. Theo nguyên lý này, kể cả vua chúa cũng phải tuân thủ pháp luật,
không được phép ra các quyết định trái với pháp luật hiện hành.
Để có thể có pháp trị, thì bản thân hiến pháp phải thỏa mãn nguyên
lý logic dưới đây về sự hợp lý và rõ ràng để mọi người đều có thể nắm
được và tuân thủ. Hơn nữa, phải có được các cơ chế (kiểm soát, khiếu
nại, tố tụng, xử phạt, bồi thường, v.v.) hiệu quả để chống lại sự tùy
tiện làm trái pháp luật của những người nắm quyền hành trong tay.

2. Nguyên lý logic. Hiến pháp là bộ luật cơ bản nhất của một
nước, là tiên đề cho mọi bộ luật khác. Các luật khác nếu mâu thuẫn với
hiến pháp thì là không hợp pháp và không có giá trị pháp lý. Bản thân
hiến pháp phải logic, hợp lý theo nghĩa sau:
- Mọi điều khoản đều phải rõ ràng, dễ hiểu, đơn nghĩa (không có
nhiều cách diễn giải khác nhau ra nghĩa trái ngược nhau).
- Trừ những câu có tính chất định nghĩa, mỗi điều khoản đều là một
luật, có thể viết lại dưới dạng “X phải Y” (tức là nếu “X không Y” thì
X phạm pháp).
- Không chứa các điều khoản mâu thuẫn nhau, hoặc tự mâu thuẫn,
hoặc bất khả thi, trái với qui luật tự nhiên.
- Có điều khoản cho phép sửa đổi hiến pháp để làm cho nó hợp lý
hơn, đồng thời vẫn tuân thủ các nguyên lý cơ bản.
3. Nguyên lý nhân quyền. Những quyền và những tự do cơ bản
nhất của con người, có thể coi là những quyền thiêng liêng, phải được
tôn trọng và nghi rõ trong hiến pháp. Có thể kể đến:
- Quyền làm chủ bản thân. Trong đó có làm chủ sự sống (quyền được
sống), cái chết, và làm chủ cơ thể. Không ai bị ép phải chết hay bị đẩy
đến cái chết trái với ý nguyện của mình. Cũng không ai bị ép phải tiếp
tục sống, một cuộc sống không còn phẩm giá con người (ví dụ sống như
thực vật mà không có cách chữa) trái với ý nguyện. Không ai được phép
xâm phạm vào cơ thể người khác (cưỡng hiếp, làm bị thương, cắt bớt
bộ phận, v.v.) trái với ý nguyện của người đó. Không ai phải làm nô lệ.
- Quyền mưu sinh. Hệ quả của quyền được sống là quyền mưu sinh,
tìm các hoạt động để đem lại thu nhập đảm bảo sự sống cho mình.
- Quyền sở hữu. Đi đôi với quyền mưu sinh là quyền sở hữu những
thứ được thừa hưởng, làm ra, hay nhận được qua các trao đổi. Cá nhân
có quyền sở hữu riêng của cá nhân, tập thể có quyền sở hữu chung của
tập thể.
- Quyền riêng tư. Mở rộng của quyền làm chủ bản thân là quyền
riêng tư: những thứ như thư từ riêng, thông tin riêng, nhà riêng, v.v. là
những thứ riêng tư mà người ngoài không được phép xâm phạm.
- Quyền bình đẳng. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, bất kể
giới tính, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo, địa vị xã hội, v.v. Những người
nhiều quyền lực nhất cũng bị pháp luật trừng trị nếu phạm pháp, và
những người yếu nhất cũng được pháp luật bảo vệ bình đẳng.
- Tự do tư tưởng. Trong đó có tự do về tôn giáo và triết lý. Không
ai bị cấm hay bị bắt ép đi theo tổ chức tôn giáo nào, tham gia vào hoạt
động tôn giáo nào.
- Tự do đi lại. Bao gồm cả quyền rời bỏ quê hương mình.
- Tự do ngôn luận. Quyền phát biểu mọi quan điểm, công bố mọi
thông tin (trừ khi thông tin đó thuộc sở hữu của người khác mà không
được sự đồng ý của người đó).
- Tự do đoàn thể. Quyền được tham gia và quyền từ chối tham gia
các hoạt động của các đoàn thể. Quyền được thành lập các tổ chức đoàn
thể.
- Tự do tụ họp. Trong đó có tự do biểu tình mà không phải xin phép
trước.
4. Nguyên lý xã hội. Một cấu trúc tổ chức xã hội tốt, thuận lợi
cho sự phát triển của toàn xã hội, phải tạo ra thêm được các quyền lợi
cho các thành viên (vượt trên mức các quyền con người cơ bản ở trong
nguyên lý quyền con người), nhằm tạo điều kiện cho mọi thành viên
phát triển và sống hạnh phúc. Hiến pháp của một đất nước giàu tính
xã hội sẽ có thêm các điều khoản về các phúc lợi xã hội, mà các cấp
chính quyền phải đảm bảo cho người dân, như:
- Giáo dục phổ thông miễn phí. Phổ thông ở đây hiểu theo nghĩa
mọi kiến thức và kỹ năng cơ bản nhất cần thiết cho cuộc sống trong xã
hội.
- Bảo hiểm y tế toàn dân. Có dịch vụ y tế công cộng miễn phí cho
toàn dân.
- Trợ cấp xã hội. Những người già, trẻ em không nơi nương tựa, và
những gia đình quá nghèo không đủ sống phải được trợ cấp.
- Dịch vụ công cộng. Ngoài giáo dục và y tế, còn nhiều dịch vụ công
cộng khác cần được đảm bảo, như đường xá, giao thông công cộng, vệ
sinh công cộng, an ninh công cộng, các khu văn hóa thể thao công cộng,
v.v.
Đi đôi với quyền lợi xã hội là nghĩa vụ đóng góp cho xã hội, để có
công quĩ chi cho các phúc lợi. Nghĩa vụ đóng góp quan trọng nhất mà
có thể hiến pháp hóa được là nghĩa vụ đóng thuế.
Một nghĩa vụ cơ bản nữa là nghĩa vụ cấp cứu: nếu thấy người bị nạn
mà chưa được cứu, thì phải tìm cách cứu trợ người đó trong phạm vi
khả năng của mình hoặc/và gọi điện cho cảnh sát/cấp cứu. Trong các
luật pháp tiến bộ, thấy người bị nạn mà bỏ đi không tìm cách cứu giúp
trong khi mình có khả năng cứu giúp cũng là một tội.
Có những nước có nghĩa vụ đi lính bắt buộc, tuy nhiên đấy không
phải là nghĩa vụ cơ bản của từng cá nhân. Ở các nước tiến bộ hơn, quân
đội là chuyên nghiệp, nhân dân chỉ có nghĩa vụ đóng thuế, và một phần
thuế đó là để chi cho quốc phòng, chứ không bị bắt làm lính nếu không
muốn, cũng như không ai bị bắt phải đi làm bất cứ một công việc gì
khác mà họ không muốn.
5. Nguyên lý bảo vệ. Có các cơ chế hiệu quả để bảo vệ mọi cá
nhân, tổ chức, vùng miền, và toàn đất nước. Trong đó có:
- Bảo vệ chủ quyền đất nước, qua các điều khoản về quốc phòng.
- Bảo vệ môi trường, không chỉ cho thế hệ hiện tại, mà con cho các
thế hệ tương lai.
- Phòng chống tai nạn, bệnh dịch, thiên tai.
- Bảo vệ an ninh cho các cá nhân khỏi sự xâm hại của các tội phạm.
- Bảo vệ tài sản chung của các tập thể và của toàn quốc gia, chống
lại sự tham nhũng, rút ruột, phá hoại.
- Bảo vệ các thiểu số và các phái yếu chống lại sự áp đặt, cưỡng bức
của các đa số và các phái mạnh.
- Bảo vệ người dân trước chính quyền: chống lại những sự áp đặt,
cửa quyền, đàn áp, bắt bớ tùy tiện từ phía các nhân viên của chính
quyền.
6. Nguyên lý dân chủ. Chính quyền do dân và vì dân. Một hiến
pháp dân chủ phải thiết lập được các cơ chế hiệu quả sau:
- Cơ chế bầu cử chính quyền. Mọi cấp chính quyền đều phải do dân
trực tiếp hay dán tiếp bầu ra qua các cuộc bầu cử tự do.
- Cơ chế thay đổi chính quyền. Mỗi nhiệm kỳ của các chức vụ chính
quyền đều chỉ có một thời hạn nhất định, hết thời hạn đó nhân dân lại
bầu cử lại chọn người mình tin tưởng. Chính quyền đang giữa nhiệm kỳ
mà không còn đủ mức tín nhiệm thì giải tán bầu chính quyền khác.
- Cơ chế chống độc tài. Chống lại khả năng một cá nhân hay tổ chức,
dù có do dân bầu ra hay không, tự biến mình thành cầm quyền vĩnh
viễn không còn qua bầu cử.
7. Nguyên lý phân quyền và kiểm soát lẫn nhau. Nguyên lý
này, gắn với tên tuổi của triết gia chính trịnh Montesquieu từ thế kỷ
18, là cơ chế hữu hiệu để kiếm soát chính quyền, chống độc tài và lũng
đoạn. Theo nguyên lý này, chính quyền được chia thành các bộ phận
độc lập với nhau và kiểm soát lẫn nhau, như:
- Quốc hội, nắm quyền lập pháp.
- Chính phủ, nắm quyền hành pháp.
- Tòa án, nắm quyền tư pháp.
Ví dụ, phải có tòa án phải độc lập với chính phủ và quốc hội (và
các thế lực nắm quyền khác), với các nhiệm vụ và quyền hạn kiểm soát,
thanh tra, và tố tụng, để có thể khởi tố các nhân vật của chính phủ hay
quốc hội phạm pháp, tìm ra và hủy các đạo luật mâu thuẫn với hiến
pháp, v.v. Trong lịch sử của nhiều nước, ví dụ như ở Đức, kể cả khi
chưa có chế độ dân chủ đã có tòa án độc lập.
8. Nguyên lý minh bạch. Nguyên lý minh bạch là một trong
những nguyên lý cơ bản để chống lạm quyền và tham nhũng. Một số
biểu hiện của việc tuân thủ nguyên lý này là:
- Các văn bản, hồ sơ, thông tin, số liệu mà chính quyền có là thuộc
về sở hữu công, và dân có quyền đòi hỏi được xem, được kiểm tra.
- Các qui trình chọn lựa công (quan chức, dự án, v.v.) là công khai
minh bạch và có sự tham gia giám sát độc lập của người bên ngoài.
- Các phiên tòa xử là công khai, v.v.
9. Nguyên lý tự quản. Hay có thể gọi là nguyên lý phân quyền
theo chiều dọc (so với nguyên lý của Montesquieu là nguyên lý phân
quyền theo chiều ngang). Theo nguyên lý này, quyền lực không tập
trung quá nhiều ở trung ương, mà được chia ra ở các cấp, mỗi cấp có
những quyền tự quản nhất định mà cấp phía trên không được can thiệp
vào.
Nguyên lý tự quản nhằm tăng cường sự làm chủ của người dân đối
với những thứ trực tiếp liên quan đến họ. Ví dụ, đường phố của một
thành phố không phải do chính quyền trung ương quản, mà là do chính
quyền thành phố tự quản, và chính quyền đó là do người dân thành
phố bầu ra. Ở các nước liên bang, việc mỗi bang được phép có đạo luật
riêng cũng là biểu hiện của nguyên lý tự quản. Đặc biệt những vùng
dân tộc thiểu số có một truyền thống văn hóa riêng thì cần có được độ
tự quản cao.
Nguyên lý tự quản áp dụng với cả nhiều tổ chức hay đoàn thể không
có tính địa phương. Ví dụ như là các đại học công: theo đinh nghĩa của
đại học là nơi đi đầu về khoa học và tư tưởng, thì chính quyền không có
đủ năng lực về những vẫn đề đó để có thể áp đặt quan điểm của mình,
nên để đại học tự quản là hợp lý. Hiến pháp của một số nước, ví dụ như
Phần Lan, có ghi rõ đại học là tự quản.
10. Nguyên lý hòa bình và trung lập. Một hiến pháp tiến bộ
hiện đại phải có được tính hòa bình và trung lập, thể hiện qua những
điểm như:
- Không xâm lược nước khác. (Việc đem quân vào nước khác phải
vì mục đích bảo vệ hòa bình và được thế giới ủng hộ).
- Không ngả theo bất kỳ một tôn giáo nào. (Nhân dân tự do tôn
giáo, nhưng bản thân chính quyền không có tôn giáo).
- Không ngả theo bất kỳ một “giai cấp”, “tầng lớp”, chủng tộc nào.
(Mọi giai cấp, tầng lớp, chủng tộc đều bình đẳng như nhau trước pháp
luật)
- Không ngả theo bất kỳ một “chuẩn mực đạo đức” nào trừ các chuẩn
mực về nguyên tắc cư xử đã được ghi thành hiến pháp và các văn bản
pháp luật hiện hành.
- Không ai bị bắt phải đi lính nếu không muốn. (Trong lịch sử, chiến
tranh dễ xảy ra là do mạng sống của người dân bị coi quá rẻ mạt, các
bên đánh nhau bắt lính quá dễ dàng).
- Cơ chế tìm cách giải quyết mọi tranh chấp bằng hòa bình.
- Cảnh sát và quân đội không có quyền đàn áp nhân dân.
- Có chế độ ân xá, v.v.
http://zung.zetamu.net/2013/02/10-nguyen-ly-c%C6%A1-b%E1%BA%A3n-c%E1%BB%A7a-m%E1%BB%99t-hi%E1%BA%BFn-phap-ti%E1%BA%BFn-b%E1%BB%99/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét