Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2013

(9) Tiết kiệm, đầu tư đối với tăng trưởng và công nghiệp hóa

Bài viết cũ của tôi:
TIẾT KIỆM, ĐẦU TƯ TRONG TIẾN TRÌNH TĂNG TRƯỞNG VÀ CÔNG NGHIỆP HOÁ: LÝ THUYẾT VÀ KINH NGHIỆM THẾ GIỚI
II- VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG NGHIỆP HOÁ
Vai trò tích cực của vốn FDI đối với tăng trưởng và công nghiệp hoá đã và đang được khảng định tại nhiều nước đang phát triển. Lý thuyết và thực tế cho thấy trong môi trường tự do hoá và toàn cầu hoá, các nước đang phát triển có thể tăng cường khả năng cạnh tranh của mình bằng cách tận dụng những lợi thế do vốn FDI đem lại. 
Tuy nhiên, nguồn vốn FDI đưa vào các nước đang phát triển thường được thực hiện thông qua các công ty xuyên quốc gia, trong khi mục tiêu của các công ty xuyên quốc gia và các nước chủ nhà thường khác nhau (chính phủ muốn phát triển kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi các công ty xuyên quốc gia tìm cách tăng khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường quốc tế để thu lợi nhuận). 
Vì vậy, chính phủ các nước đang phát triển cần phải nghiên cứu hiểu rõ vai trò, đặc điểm của FDI để hướng nguồn vốn này vào thực hiện mục đích của mình.

          1) Xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong hai thập kỷ gần đây
          Xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước đang phát triển châu á được thể hiện qua đồ thị dưới đây (tình hình tương tự đối với luồng vốn chảy vào các nước đang phát triển). Đồ thị cho thấy trong thập kỷ 80, dòng vốn này tăng lên rất chậm nhưng sang thập kỷ 90, tốc độ tăng trưởng của nó đã tăng lên rất nhanh. Về giá trị, nếu như năm 1980, các nước đang phát triển châu á chỉ thu hút được khoảng 4,2 tỷ USD vốn FDI, năm 1990 thu hút được 18,5 tỷ thì  năm 1995 đã thu hút được 67,9 tỷ USD và năm 2000 thu hút được 132,9 tỷ USD.



          Đồ thị 4: Luồng vốn FDI và ODA đưa vào các nước đang phát triển châu á (tỷ USD)
Nguồn số liệu: Indicators of Developing Asian and Pacific Countries, ADB, 2002.
          Các số liệu trong bảng dưới đây cho thấy có ba xu hướng khác nhau về huy động vốn FDI để phát triển kinh tế và công nghiệp hoá tại 3 nhóm nước. Nếu như tỷ trọng vốn FDI trong tổng luồng vốn ròng chảy vào các nước Nam á tương đối ổn định trong suốt 2 thập kỷ 70 và 80 (khoảng 2%) phản ánh vị trí khiêm tốn của loại vốn này trong chiến lược phát triển và công nghiệp hoá tại các nước Nam á, thì tình hình hoàn toàn khác tại 2 nhóm nước còn lại. Nhóm các nước Đông Nam á lúc đầu phát triển và công nghiệp hoá dựa rất lớn và luồng vốn tư nhân, trong đó vốn FDI đóng vai trò rất quan trọng, nhưng sau đó giảm dần vai trò của nguồn vốn này mà chuyển sang huy động vốn ODA; tỷ trọng vốn FDI giảm từ 33% giai đoạn 1970-1975 xuống còn gần 25% vào đầu thập kỷ 80 và chỉ còn khoảng 15% vào cuối thập kỷ 80. Ngược lại, nhóm các nước công nghiệp hoá mới ở châu á luôn luôn nhấn mạnh vai trò của luồng vốn tư nhân, trong đó vốn FDI chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Tỷ trọng vốn FDI tăng vọt từ 19,8% giai đoạn 1970-1975 lên khoảng 37,6% vào đầu thập kỷ 80 và tăng tiếp tới 250% vào cuối thập kỷ 80.

          Bảng 9: Dòng tài chính ròng vào một số nhóm nước châu á (%)
Loại vốn
1970-1975
1976-1980
1983-1986
1987-1988
Các nước Nam áa




 Vốn chính thức:




   - ODA không hoàn lại
31,8
44,5
40,3
37,1
   - ODA cho vay
67,9
50,5
42,1
36,3
   - Vốn không ưu đãi
0,4
2,5
7,9
16,4
 Vốn tư nhân




   - Đầu tư nước ngoài trực tiếp
2,3
1,2
1,5
2,2
   - Đầu tư qua chứng khoánb
-0,4
-0,5
3,8
6,3
   - Tín dụng xuất khẩu
-2,0
1,9
4,4
1,8
Các nước Đông Nam ác




 Vốn chính thức:




   - ODA không hoàn lại
15,5
13,8
19,0
26,6
   - ODA cho vay
30,4
23,2
17,1
30,3
   - Vốn không ưu đãi
10,1
23,1
32,7
40,1
 Vốn tư nhân




   - Đầu tư nước ngoài trực tiếp
33,0
16,0
3,4
14,9
   - Đầu tư qua chứng khoánb
0,1
9,7
19,6
-2,7
   - Tín dụng xuất khẩu
10,8
14,2
8,3
-9,2
Các nước công nghiệp mớid




 Vốn chính thức:




   - ODA không hoàn lại
7,4
2,2
6,4
5,9
   - ODA cho vay
16,7
5,5
-4,2
-3,8
   - Vốn không ưu đãi
31,1
30,5
8,8
-83,9*
 Vốn tư nhân




   - Đầu tư nước ngoài trực tiếp
19,8
23,4
113,2
249,6**
   - Đầu tư qua chứng khoánb
5,8
5,3
-11,3
-43,4
   - Tín dụng xuất khẩu
19,1
33,0
-12,9
-24,5
Nguồn: Rana P.B. và Dowling J.M. (1990); trích từ OECD, Geographical Distribution of Financial Flows to Developing Countries, Paris, various issues.
a Bangladesh, Ấn độ, Mianma, Nepal, Pakistan và Srilanka
b Kể cả vay ngân hàng
c Indonêxia, Malaixia, Philippin và Thái lan
d Hồng Kông, Hàn Quốc, Sinhgapo và Đài loan
* Dấu âm chỉ dòng vốn ra nhiều hơn dòng vốn vào; ** Dấu dương chỉ dòng vốn ra ít hơn dòng vốn vào. Như vậy, các nước công nghiệp mới đã dùng nguồn vốn FDI để bù đắp cho việc các nguồn vốn khác chạy ra nước ngoài
          Tại sao các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không chạy từ các nước giàu sang các nước nghèo ? Câu hỏi này đã được Lucas đặt ra từ gần 20 chục năm nay, nhưng đến nay các phân tích khác nhau về ngoại thương và tăng trưởng dựa trên lý thuyết tân cổ điển vẫn chưa trả lời được câu hỏi này. Theo lý thuyết này, vốn FDI phải chạy từ các nước công nghiệp dư thừa vốn sang các nước nghèo thiếu vốn, thừa lao động; nhưng trên thực tế, luồng vốn không mạnh như dự đoán của lý thuyết. Mặc dù các chính phủ đã có nhiều chính sách thu hút vốn FDI nhưng trong khi có một số nước thu hút được nhiều vốn FDI và nhờ đó nền kinh tế tăng trưởng nhanh; thì bộ phận khác lại chỉ thu hút được một lượng vốn FDI rất khiêm tốn và nền kinh tế không thể cất cánh được.
          2) Quan hệ giữa vốn FDI và tăng trưởng kinh tế, công nghiệp hoá
          a) Phân tích qua các nghiên cứu định tính:
          Vốn FDI được hầu hết các nước đang phát triển coi là một kênh quan trọng để bổ sung nguồn lực cho quá trình tăng trưởng và công nghiệp hoá vì những thế mạnh sau (Helleiner, 1987, Karel Jansen, 1995):
          (1) Về vốn: nguồn vốn FDI thường ổn định hơn so với các loại vốn nước ngoài khác, ví dụ so với vốn vay thương mại hay vốn đầu tư gián tiếp, và mang tính dài hạn hơn vì các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các công ty xuyên quốc gia thường đầu tư vào các dự án dài hạn.
          (2) Về công nghệ: công nghệ các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào thường rất đa dạng, có thể là công nghệ mới hoặc công nghệ thích ứng với đặc điểm của nước chủ nhà; hoặc nâng cấp công nghệ hiện có hay thay đổi mô hình tiêu dùng hiện có. Đôi khi các nhà đầu tư còn xây dựng các cơ sở nghiên cứu và triển khai (R&D) ở nước chủ nhà nên cũng góp phần làm thay đổi công nghệ của các doanh nghiệp trong nước qua tấm gương của họ. Chính vì vậy mà tiến bộ kỹ thuật trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thường tăng nhanh hơn khu vực sử dụng vốn trong nước (De Melo, 1988; Van Wijnbergen, 1986).
          (3) Về thị trường: các nhà đầu tư nước ngoài có thể tạo điều kiện tiếp cận thị trường nước ngoài cho một số hàng hoá và dịch vụ được sản xuất tại nước chủ nhà và hỗ trợ nước chủ nhà phát triển các loại hình sản xuất và dịch vụ mới nhằm khai thác tốt hơn lợi thế cạnh tranh của nước đó. Lợi ích thu được qua quá trình này cũng rất lớn; các doanh nghiệp trong nước có thể học hỏi được kinh nghiệm và công nghệ tiên tiến, tăng được hiệu quả kinh tế, mở rộng cạnh tranh, tăng khả năng tiếp cận các thị trường mới...
(4) Về kỹ năng và phương pháp quản lý: khi triển khai các dự án FDI, các nhà đầu tư nước ngoài thường thực hiện các chuyển giao kỹ năng và tri thức qua các khoá đào tạo. Các doanh nghiệp trong nước cũng có thể tiếp thu các kiến thức mới thông qua học hỏi trực tiếp các chuyên gia. Lợi ích của việc chuyển giao tri thức này rất lớn, không chỉ đối với doanh nghiệp trong nước mà ngay cả đối với các doanh nghiệp có vốn FDI, vì sau khi cải tiến để thích nghi với tình hình mỗi nước, các kỹ năng, tri thức và phương pháp quản lý sẽ giúp các doanh nghiệp nước ngoài duy trì được khả năng cạnh tranh của họ.
(5) Về môi trường: thông qua việc đưa công nghệ sạch và hệ thống quản lý môi trường hiện đại vào các nước chủ nhà, các dự án FDI có khả năng tác động tới phương pháp quản lý và công nghệ thực hiện tại các doanh nghiệp trong nước cũng như bản thân các doanh nghiệp có vốn FDI để hướng các doanh nghiệp này phát triển theo quan điểm sạch hơn và phát triển đi đôi với bảo vệ môi trường.
(6) Đặc biệt, vốn FDI có một ảnh hưởng rất tích cực tới đầu tư của khu vực tư nhân. Vì vốn FDI là một thành phần của đầu tư tư nhân; do đó việc tăng lượng vốn FDI bản thân nó cũng là tăng vốn đầu tư của khu vực tư nhân. Hơn nữa, vì vốn FDI và vốn tư nhân trong nước cùng được xác định bởi một số biến phản ánh môi trường đầu tư của đất nước nên khi dòng vốn FDI chảy vào nhiều thì các nhà đầu tư tư nhân trong nước sẽ nghĩ rằng môi trường đầu tư đã tốt hơn, do đó tăng thêm đầu tư. Tăng đầu tư tư nhân nói chung sẽ kéo theo tăng tổng cung và tổng cầu theo cơ chế nhân tử (thu nhập) và cơ chế gia tốc (đầu tư).
Mặt khác, các dự án FDI mới thường huy động thêm nguồn vốn trong nước để bổ sung; và do trong các dự án liên doanh, vốn trong nước thường được triển khai nhanh hơn vốn nước ngoài nên khi có huy động vốn nước ngoài thì tốc độ tăng trưởng của vốn tư nhân trong nước thường tăng lên khá mạnh (Helleiner, 1987). Ngoài ra các doanh nghiệp trong nước có thể cung cấp đầu vào và tiêu thụ đầu ra cho các doanh nghiệp có vốn FDI, do đó cũng có thêm cơ hội phát triển.
          b) Phân tích qua các nghiên cứu định lượng:
Do tác dụng tích cực của vốn FDI tới đầu tư trong nước nên người ta dễ đi đến kết luận rằng vốn FDI có tác dụng tích cực tới tăng trưởng kinh tế tại các nước đang phát triển. Quan hệ này càng tỏ ra hợp lý đối với các nước có nguồn thu nhập ngoại tệ hạn chế. Chenery và Strout (1966), Taylor (1993) đã phân tích quan hệ nhân quả giữa vốn nước ngoài, đầu tư và tăng trưởng theo mô hình hai (hoặc ba) thâm hụt.
Quan điểm của mô hình hai thâm hụt nguyên gốc, trong đó vốn nước ngoài được xem là nguồn bổ sung cho vốn trong nước, đã bị Griffin (1970) phê phán vì cho rằng phần vốn đưa vào có thể được sử dụng để tiêu dùng chứ không phải để đầu tư. Hậu quả là thu hút vốn bên ngoài có thể làm giảm tỷ lệ tiết kiệm nội địa, làm giảm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế; hoặc tốc độ tăng trưởng đầu tư xã hội thấp hơn tốc độ tăng trưởng đầu tư nước ngoài. Quan điểm mới của ông đã gây ra nhiều cuộc thảo luận về quan hệ giữa vốn nước ngoài và tiết kiệm nội địa. Tuy nhiên, Gupta và Islam (1983) đã tổng hợp và cập nhật các nghiên cứu đa quốc gia và nhận thấy đa số các nghiên cứu đều đi đến kết luận vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp có tác động tích cực tới đầu tư và tăng trưởng.
Luồng vốn bên ngoài đưa vào không chỉ làm tăng khối lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế mà còn làm tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư; tức là làm hệ số ICOR giảm đi hoặc tăng chậm lại. Đó là nhờ những tác dụng nêu trên của nguồn vốn này. Trong khi các nguồn vốn vay thương mại hay vốn ODA thường được dành cho khu vực kinh tế nhà nước, vốn FDI thường được đưa vào khu vực kinh tế tư nhân và làm tăng đầu tư tư nhân. Vì ảnh hưởng của đầu tư tư nhân tới tăng trưởng mạnh hơn ảnh hưởng của đầu tư nhà nước (Khan và Reinhart, 1990) nên hiệu quả của đầu tư FDI tới tăng trưởng kinh tế cao hơn so với luồng vốn nước ngoài khác. Hơn nữa, người ta còn thấy vốn FDI thường được đưa vào khu vực thương mại quốc tế được, do đó nó góp phần làm tăng sức cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế. Đây cũng là điểm khác so với các nguồn vốn nước ngoài khác, ví dụ vốn vay thương mại hay vốn vay ODA thường được đưa vào khu vực kinh tế nhà nước để tài trợ cho các dự án thuộc khu vực không thương mại quốc tế được như cơ sở hạ tầng.
Nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của vốn FDI tới tăng trưởng thường được thực hiện theo hai tiếp cận: Tiếp cận thứ nhất xem xét quan hệ giữa hai chỉ tiêu này theo số liệu đa quốc gia nối tỷ lệ tăng trưởng GDP đồng thời với luồng vốn FDI đem vào và tổng số vốn FDI tích luỹ. Tiếp cận thứ hai xem xét quan hệ này qua sử dụng phương trình tăng trưởng GDP với chuỗi thời gian của một nhóm nước; trong tiếp cận này, vốn đầu tư được chia làm nhiều thành phần và mỗi thành phần lại có một ảnh hưởng khác nhau đến taưng trưởng; như vậy có thể xác định được ảnh hưởng của vốn FDI.
Hầu hết các nghiên cứu đi theo tiếp cận thứ nhất đều thất bại và bị phê phán về cơ sở phương pháp luận (Grieco, 1986; Helleiner, 1989). Theo cách tiếp cận thứ hai, Gupta và Islam (1983) nhận thấy hệ số của vốn FDI ít có ý nghĩa khi thực hiện các phương trình hồi quy đa quốc gia thời kỳ 1950-1973. Ngược lại, với những chuỗi số liệu gần đây hơn (1970-1990), Husain và Jun (1992) nhận thấy biến FDI có ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa tới tăng trưởng kinh tế của các nước khối ASEAN. Rana và Dowling (1990) cũng rút ra các kết luận tương tự khi nghiên cứu trường hợp 23 nước đang phát triển châu á.
Do còn có sự khác nhau trong nghiên cứu thực nghiệm, nên các nghiên cứu sau này đã chia các nước nghiên cứu thành các nhóm nước với những đặc trưng khác nhau. Kết quả là người ta thấy ảnh hưởng của vốn FDI tới tăng trưởng phụ thuộc vào đặc trưng của từng nước và trong từng thời kỳ Karel Jansen, 1995). Bên cạnh đó, nghiên cứu của Buffie (1993) còn cho thấy ảnh hưởng này còn phụ thuộc vào từng loại vốn FDI.
Vai trò của đầu tư FDI đối với tăng trưởng và công nghiệp hoá cũng được phân tích kỹ trong các cuộc đàm phán giữa các nước giàu và nước nghèo. Trong khi cả hai nhóm nước đều đồng ý với nhau rằng vốn nước ngoài có tác dụng tích cực tới tăng trưởng, công nghiệp hoá và chống nghèo đói thì các nước đang phát triển lại nhấn mạnh vai trò của vốn hỗ trợ phát triển chính thức và các nước công nghiệp lại nhấn mạnh vai trò của vốn FDI. Theo các nước công nghiệp, sử dụng vốn FDI sẽ hiệu quả hơn rất nhiều so với sử dụng vốn ODA vì nó được sử dụng vào những khâu có lợi nhất, không lãng phí như sử dụng vốn ODA; mặt khác nó cho phép tăng tính thị trường và tính sáng tạo của các nền kinh tế đang phát triển.
Các nghiên cứu thực nghiệm còn cho thấy việc huy động vốn FDI để công nghiệp hoá phụ thuộc lớn vào chính sách công nghiệp của các chính phủ chứ ít phụ thuộc vào trình độ phát triển. Hiện tượng này không chỉ xảy ra đối với nhóm các quốc gia công nghiệp mà cả đối với nhóm các quốc gia đang phát triển. Các quốc gia Đông á có trình độ công nghiệp hoá cao là Hàn Quốc và Malaixia, nhưng tỷ lệ vốn đầu tư FDI trên GDP của Hàn Quốc vào loại thấp nhất, trong khi tỷ lệ này ở Malaixia lại vào hàng cao nhất. Tương tự, ở nhóm các nước kém phát triển hơn, trình độ công nghiệp hoá của Trung Quốc và Philippin thuộc hàng thấp nhất nhưng tỷ lệ huy động vốn FDI / GDP của Trung Quốc lại rất cao trong khi tỷ lệ này của Philippin lại thấp nhất.
      

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét