Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2013

(10) Tiết kiệm, đầu tư đối với tăng trưởng và công nghiệp hóa

Bài viết cũ của tôi:
TIẾT KIỆM, ĐẦU TƯ TRONG TIẾN TRÌNH TĂNG TRƯỞNG VÀ CÔNG NGHIỆP HOÁ: LÝ THUYẾT VÀ KINH NGHIỆM THẾ GIỚI
III- VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA) VÀ QUÁ TRÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG NGHIỆP HOÁ
Cho đến gần đây, các cuộc tranh luận về vai trò của vốn hỗ trợ phát triển chính thức (hay viện trợ) tới tăng trưởng và công nghiệp hoá tại các nước đang phát triển vẫn chưa kết thúc. 
Một số nhà kinh tế cho rằng viện trợ sẽ nâng đỡ các chính phủ xây dựng các chính sách phi hiệu qủa và mở ra môi trường bất lợi cho các hoạt động kinh tế. Một số khác lại cho rằng các nước giàu thường thông qua con đường viện trợ để lồng quyền lợi của mình vào; do đó viện trợ sẽ không đem lại hiệu quả mà nước tiếp nhận mong đợi. 
Số còn lại cho rằng viện trợ nước ngoài có tác dụng tích cực tới tăng trưởng của các nước đang phát triển, nhưng chỉ khi nước đó có những chính sách tài chính, tiền tệ, thương mại và cơ cấu hợp lý; trong trường hợp ngược lại, viện trợ nước ngoài sẽ không có tác dụng tích cực tới tăng trưởng. 
Trong khi còn có những khác nhau như vậy thì người ta đều thống nhất rằng chỉ có một số ít nước được nhận viện trợ với khối lượng lớn và trong một khoảng thời gian dài, và cũng chỉ có số ít trong các nước đó có tỷ lệ tăng trưởng và công nghiệp hoá cao đi kèm với giảm nghèo.
Trong mục này, chúng ta sẽ xem xét kinh nghiệm thế giới về ảnh hưởng của viện trợ tới tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trước hết, cần nhìn lại tình hình viện trợ trong thời gian gần đây.

          1) Xu hướng tiến triển của luồng vốn ODA trong giai đoạn gần đây
          Đồ thị 4 mục trên cho thấy luồng vốn ODA có xu hướng tăng lên trong hai thập kỷ gần đây, nhưng tốc độ tăng trưởng rất chậm so với luồng vốn FDI. Nếu như vào năm 1980, các nước đang phát triển châu á thu hút được gần 10 tỷ USD vốn ODA thì năm 1990 thu hút được 17,6 tỷ USD và năm 1997 thu hút được 24,9 tỷ USD. Tuy nhiên, sau đỉnh cao vào năm 1997, luồng vốn này giảm mạnh, chỉ còn 15,6 tỷ USD vào năm 2000. Do tốc độ tăng trưởng chậm đáng kể so với luồng vốn FDI, tỷ trọng của vốn ODA trong tổng luồng vốn chảy vào các nước đang phát triển châu á đã giảm mạnh trong khi tỷ trọng luồng vốn tư nhân tăng rất nhanh. Đáng lưu ý là tình hình trên diễn ra trong bối cảnh tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và tốc độ công nghiệp hoá ở các nước châu á trong thập kỷ 90 cao hơn hẳn trong thập kỷ 80. Điều này có nghĩa là nhiều nước đang phát triển châu á đã giảm mạnh mức độ phụ thuộc vào luồng vốn ODA nhưng vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
          Một đặc điểm khác của nguồn vốn ODA là biến động cơ cấu; thường tại một quốc gia, sau mỗi cuộc khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng vốn FDI sẽ chậm lại, hoặc vốn FDI giảm xuống so với trước; nhưng tốc độ tăng trưởng vốn ODA sẽ tăng lên để bù đắp. Để quá trình này diễn ra, luồng vốn ODA thường được cơ cấu lại theo hướng tăng tỷ trọng cho các nước gặp khủng hoảng và giảm tỷ trọng cho các nước không gặp khủng hoảng hoặc gặp khủng hoảng ở mức độ thấp.
Số liệu của các tổ chức tài chính quốc tế cho thấy cơ cấu dòng tài chính chảy vào các nước đang phát triển châu á thay đổi mạnh khi trình độ phát triển tăng lên. Trong thập kỷ 70, hầu hết số vốn chảy vào các nước đang phát triển Nam á là vốn chính thức, trong đó vốn ODA chiếm tỷ trọng cao tuyệt đối (99,7% giai đoạn 1970-1975 và 95% giai đoạn 1976-1980) trong khi vai trò của vốn tư nhân cực kỳ thấp. Tuy nhiên, sang thập kỷ 80, vai trò của vốn ODA giảm đi rất mạnh trong khi vai trò của các loại vốn không ưu đãi, mang tính chất thị trường tăng lên rất nhanh. Tình hình tương tự diễn ra với nhóm các nước Đông Nam á và các nước công nghiệp mới. Hơn nữa, nếu so sánh tiến triển của tỷ trọng vốn ODA giữa ba nhóm nước trong bảng thì thấy rất rõ tỷ trọng này có xu hướng giảm khi trình độ phát triển và công nghiệp hoá tăng lên; ví dụ đến cuối thập kỷ 80, nguồn vốn ODA chỉ còn chiếm 73,4% tổng nguồn vốn chạy vào các nước đang phát triển Nam á, 56,9% tổng nguồn vốn chạy vào các nước đang phát triển Đông Nam á, và 2,1% tại các nước công nghiệp mới ở châu á. Số liệu trên cũng cho thấy đến cuối thập kỷ 80, vai trò của nguồn vốn ODA vẫn rất quan trọng tại các nước đang phát triển chưa thực hiện công nghiệp hoá thành công.
          Về cơ cấu nguồn vốn ODA, ở các nước Nam á, trong giai đoạn 1970-1975, tỷ trọng vốn ODA vay cao gấp 2 lần tỷ trọng vốn ODA không hoàn lại, nhưng sau đó quan hệ tỷ lệ này đã co lại đáng kể, đến cuối thập kỷ 80, tỷ trọng vốn ODA vay đã giảm xuống thấp hơn tỷ trọng vốn ODA không hoàn lại. Ngược lại, vài trò của vốn vay chính thức không ưu đãi đã tăng lên rất mạnh, từ tỷ trọng 0,4% tăng lên 16,4%. Tình hình tương tự đã diễn ra tại hai nhóm nước còn lại.
Như vậy, trình độ phát triển và công nghiệp hoá có ảnh hưởng mạnh tới cơ cấu huy động vốn chính thức. Trong giai đoạn đầu phát triển, các nước đang phát triển (trường hợp các nước Nam á) phụ thuộc rất nhiều vào tài chính ưu đãi từ các nước tài trợ; nhưng sang giai đoạn phát triển cao hơn (trường hợp các nước Đông Nam á), dòng vốn chính thức không ưu đãi và các khoản vay của khu vực kinh tế nhà nước từ nguồn tín dụng tư nhân nước ngoài (được nhà nước hoặc ngân hàng nhà nước bảo lãnh) đã trở lên rất quan trọng. Cuối cùng, trong giai đoạn phát triển cao hơn, tiếp cận với trình độ công nghiệp hoá (trường hợp các nước công nghiệp mới), vốn vay chính thức đã trở lên không đáng kể, kể cả vay ưu đãi hay không ưu đãi, trong khi vai trò của tín dụng tư nhân tăng lên rất mạnh, và trở thành nguồn vốn quan trọng nhất.
2) Quan hệ giữa vốn ODA và tăng trưởng kinh tế, công nghiệp hoá
          Quan hệ giữa vốn ODA và tăng trưởng kinh tế cũng đã được đề cập đến trong một số lý thuyết. Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển là một trường hợp cụ thể. Theo lý thuyết này, các nước nghèo thường có tỷ suất lợi nhuận cao hơn và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhanh hơn so với các nước giầu trong quá trình tiến tới tình trạng tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, vẫn có một số nhân tố ảnh hưởng bất lợi đến quá trình này; ví dụ ràng buộc tiêu dùng tối thiểu thường xuyên gây sức ép rất lớn, hoặc thị trường tài chính yếu kém, hoặc những lệch lạc về thể chế và chính sách... nên mặc dù có tỷ suất lợi nhuận cao, các nước nghèo vẫn khó có thể tăng trưởng nhanh được. Trong bối cảnh này, viện trợ ODA có thể hỗ trợ đẩy nhanh quá trình tiến tới tình trạng tăng trưởng bền vững theo quan điểm của thuyết tân cổ điển.
          Thực tế, dựa trên mô hình của thuyết tân cổ điển, Boone (1994, 1996) đã nghiên cứu trường hợp 54 nước đang phát triển, và thấy rằng viện trợ ODA không có ảnh hưởng tới đầu tư và tăng trưởng tại các nước này. Nghiên cứu của Rana và Dowling (1991) với mô hình tân cổ điển gồm 2 phương trình nêu trên (xem phần vốn nước ngoài và tăng trưởng kinh tế) cho thấy vốn ODA có tác động tiêu cực tới tiết kiệm và đầu tư của các nước đang phát triển châu á (xem các bảng 9 và 10).
          Tuy nhiên, các mô hình nêu trên chưa tính đến vai trò của yếu tố chính sách. Burnside và Dollar (1997) đã đặt câu hỏi liệu vốn ODA có hiệu quả tích cực tới tăng trưởng trong bối cảnh chính sách kinh tế của nước tiếp nhận tốt không ? Câu trả lời của các ông là có; hơn thế nữa, các ông còn thấy rằng vai trò tích cực của vốn ODA đối với tăng trưởng tăng lên nếu như mức độ lệch lạc của môi trường đầu tư giảm đi.
Mô hình của Burnside và Dollar về bản chất vẫn là mô hình tân cổ điển, theo đó cần phải cực đại hoá hàm lợi ích của người tiêu dùng với ràng buộc về tổng thu nhập của nền kinh tế; trong đó thu nhập này có hai nguồn: nguồn trong nước và nguồn viện trợ ODA. Burnside và Dollar đã xem xét ảnh hưởng của tiết kiệm nội địa tới tăng trưởng GDP khi có nguồn vốn ODA và khi không có nguồn vốn ODA, khi có những méo mó lệch lạc trong cơ chế chính sách và khi không có những méo mó này. Phương trình ước lượng là hàm tỷ lệ tăng trưởng GDP đầu người phụ thuộc vào thu nhập tại điểm xuất phát (để đo lường khả năng hội tụ), vào các biến chính sách, thể chế và môi trường chính trị, viện trợ ODA. Những biến chính sách và thể chế chính trong mô hình là thâm hụt ngân sách, nợ chính phủ, lạm phát, chi tiêu chính phủ, tỷ lệ tiền tệ M2 trên GDP và độ mở cửa của nền kinh tế (tương tự như cách làm của Sachs và Warner, 1995); ngoài ra còn có một số biến công cụ khác là dân số và lãi suất tiền vay.
Áp dụng mô hình cho chuỗi số liệu của Ngân hàng thế giới về viện trợ ODA của 56 nước đang phát triển ở các châu á, Phi và Mỹ là tinh với khoảng thời gian từ 1970-1973 đến 1990-1993, các ông nhận thấy: Thứ nhất, có quan hệ âm giữa viện trợ ODA/GDP và tỷ lệ tăng trưởng GDP đầu người nếu chưa xét đến môi trường chính sách gồm 3 yếu tố: tỷ lệ thâm hụt ngân sách, tỷ lệ lạm phát và độ mở cửa của nền kinh tế. Khi đó, tỷ lệ tăng trưởng GDP đầu người của nước tiếp nhận sẽ giảm tới 0,16% nếu tỷ lệ vốn ODA/GDP tăng thêm 1%. Trong trường hợp loại bỏ các nước có thu nhập trung bình, sẽ còn lại 40 nước thu nhập thấp (dưới 1900 USD/người) thì mức độ giảm ít hơn: khoảng 0,07%. Điều này chứng tỏ ảnh hưởng tiêu cực của vốn ODA đối với các nước thu nhập trung bình cao hơn; đó là vì các nước này có thể tiếp cận dễ dàng thị trường vốn quốc tế và hoạt động kinh tế theo cơ chế thị trường có hiệu quả cao hơn nên khi sử dụng vốn ODA thì sẽ kém hiệu quả hơn.
Thứ hai, khi xét đến môi trường chính sách kinh tế tốt theo những tiêu chuẩn giả định trước, các tác giả nhận thấy viện trợ ODA/GDP có tác dụng tích cực tới tỷ lệ tăng trưởng GDP; tính chung cho 56 nước, khi tỷ lệ ODA/GDP tăng thêm 1% thì tỷ lệ tăng trưởng GDP có thể tăng thêm tới 0,2%; đây là một mức độ rất cao. Tương tự, nếu loại bỏ các nước có thu nhập trung bình, thì ảnh hưởng này có thể lên tới 0,7%.
Như vậy, theo nghiên cứu thực nghiệm của Burnside và Dollar, vốn ODA chỉ có tác dụng tích cực đối với các nước đang phát triển nếu môi trường chính sách ở đó là tốt. Trong trường hợp ngược lại, vốn ODA sẽ có tác dụng tiêu cực. Kết quả này cũng phù hợp với một số nghiên cứu khác như đã nêu ở trên. Đối với khu vực châu á, nơi có môi trường chính sách được đánh giá là rất tốt, nghiên cứu của Rana và  Dowling (1990) cho thấy khi luồng vốn ODA vào các nước này tăng thêm 10% thì sẽ làm cho tỷ lệ tăng trưởng GDP tăng thêm 0,47%; đây là một tác động có ý nghĩa. Tuy nhiên, tăng vốn ODA thêm 10% lại gây tác động tiêu cực làm cho tỷ lệ tiết kiệm nội địa của các nước châu á giảm 0,16%. Như vậy, nghiên cứu của Rana và  Dowling đã góp một tiếng nói ủng hộ quan điểm là huy động tiết kiệm nước ngoài thông qua vốn ODA mặc dù có tác dụng tích cực làm tăng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, nhưng lại có mặt tiêu cực là làm giảm tiết kiệm trong nước, tức là có sự thay thế lẫn nhau giữa hai loại vốn này. Đáng lưu ý thêm là nghiên cứu của Rana và  Dowling còn cho thấy vốn ODA có ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả sử dụng vốn đầu tư toàn nền kinh tế.
 IV- VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI GIÁN TIẾP (IFI) VÀ QUÁ TRÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG NGHIỆP HOÁ
          Vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp chủ yếu bao gồm cổ phiếu, trái phiếu và vay ngân hàng. Các khoản vay ngân hàng ngắn hạn, chủ yếu bằng đồng đô la, thường được các tổ chức tài xchính trong nước đứng làm trung gian, mà các tổ chức này sẽ biến chúng thành những khoản vay trung hạn cho các doanh nghiệp trong nước. Vì thế các tổ chức tài chính trong nước phải cọ xát với rủi ro về kỳ hạn và tiền tệ. Mặc dù các quốc gia châu Á có tỷ lệ tiết kiệm trong nước khá cao - phần lớn là từ tiết kiệm của các hộ gia đình, và đôi khi thêm các khoản tiết kiệm qua bảo hiểm xã hội rất cao - để đầu tư, nhưng nhu cầu tài chính vẫn vượt quá xa so với nguồn tiết kiệm nội địa. Một số quốc gia, đặc biệt là Trung Quốc, Singapo và Malaixia, tập trung thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, nhưng một số nước khác lại chấp nhận đầu tư gián tiếp, chủ yếu qua cổ phiếu và trái phiếu, và thêm các khoản vay ngân hàng.
Bảng 11: Tỷ lệ vốn nước ngoài gián tiếp / GDP (%)
Năm
Hàn Quốc
Malaixia
Thái Lan
Indônêxia
Philippin
Trung Quốc
1982
-0,02
2,25
0,19
0,33
0,00
0,01
1983
0,66
2,22
0,27
0,43
0,02
0,01
1984
0,93
3,26
0,37
-0,01
0,00
0,03
1985
1,84
6,21
2,30
-0,04
0,06
0,25
1986
-0,31
0,11
-0,07
0,33
0,04
0,54
1987
-0,22
0,44
0,68
-0,12
0,06
0,37
1988
-0,33
-1,29
0,86
-0,12
0,13
0,30
1989
0,00
-0,28
2,06
-0,18
0,69
0,03
1990
0,09
-0,59
-0,04
-0,09
-0,11
0,00
1991
0,79
0,35
-0,08
-0,01
0,28
0,14
1992
1,61
-1,92
0,83
-0,07
0,29
0,08
1993
3,17
-1,10
4,36
1,14
1,65
0,61
1994
2,14
-2,28
1,72
2,19
1,41
0,73
1995
304
-050
243
204
353
010
1996
437

198
220
614
029
1997
278

280
-123
067
085
Điều dễ nhận thấy là những nước không tập trung thu hút vốn FDI lại là những nước đã tiếp nhận được các luồng vốn gián tiếp rất lớn trong thời kỳ trước khủng hoảng năm 1997, ví dụ Hàn Quốc, Inđônêxia, Thái Lan và Philippin. Ngược lại, những nước huy động vốn trực tiếp nhiều như Trung Quốc, Malaixia có tỷ lệ huy động vốn gián tiếp trên GDP rất thấp. Sự khác biệt giữa các nước trong việc huy động vốn nước ngoài vừa phản ánh các chính sách huy động vốn khác nhau của các nước, vừa phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư vào từng nền kinh tế.
          Tương tự như với các nguồn vốn ODA và FDI, việc đánh giá vai trò tác dụng của vốn nước ngoài gián tiếp tới tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hoá vẫn đang là câu hỏi lớn vì tình hình trái ngược nhau tai nhiều nước, hoặc tại ngay cùng một nước nhưng trong các giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên, có một kết luận được đa số các nhà kinh tế nhất trí; đó là vốn nước ngoài gián tiếp tới tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hoá nếu như chính sách kinh tế của chính phủ phù hợp. Trong trường hợp ngược lại, kết quả rất nhập nhằng.
          Đặc biệt, việc huy động vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ngắn hạn quá nhiều, nhất là trái phiếu và các khoản vay ngân hàng, và sử dụng để đầu tư dài hạn trong quá trình công nghiệp hoá, thường được coi là nguyên nhân gây tổn thương thị trường tài chính và thị trường ngoại hối của một nước, từ đó ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình tăng trưởng dài hạn và công nghiệp hoá. Trong nhiều cuộc khủng hoảng trên thế giới, những khoản dư nợ khổng lồ phải trả (chủ yếu là nợ ngân hàng và nợ ngắn hạn) là nhân tố chính khiến các quốc gia mắc nợ lâm vào kiệt quệ. Ngược lại, các quốc gia chủ yếu dựa vào đầu tư trực tiếp nước ngoài (điển hình là Trung Quốc) thường không vướng vào các khủng hoảng tiền tệ. Ngay cả những nước bị tác động của khủng hoảng, nhưng do huy động vốn nước ngoài chủ yếu qua hình thức vốn FDI nên việc thoát ra khỏi khủng hoảng cũng không mấy khó khăn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét