Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2013

(4) Chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam

Bài viết cũ của tôi:
Chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam
CHƯƠNG II
CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ TĂNG TRƯỞNG, CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG VÀ KINH NGHIỆM CÁC NƯỚC VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA NỀN KINH TẾ
MỤC 1: CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ TĂNG TRƯỞNG VÀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA NỀN KINH TẾ
Trong chương I ở trên, chúng ta đã khái quát các lý thuyết chung về tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế. Trong mục này, chúng ta sẽ nghiên cứu những vấn đề cụ thể hơn, đặc biệt là các chỉ tiêu định lượng, để có thể đo lường và phân tích quá trình phát triển của tốc độ và chất lượng tăng trưởng.
A- Khái niệm và đo lường tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế
I- Khái niệm và đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế:
1) Khái niệm:
Trong phân tích kinh tế, để phản ảnh mức độ mở rộng quy mô sản xuất hàng hóa và dịch vụ của một nền kinh tế qua các thời kỳ, người ta thường sử dụng khái niệm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự tăng thêm về quy mô, sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Nếu tổng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia tăng lên thì đó chính là tăng trưởng kinh tế. Như vậy, tăng trưởng kinh tế là một khái niệm phản ánh sự phát triển đơn thuần về lượng, chủ yếu trên cơ sở tăng lên của các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, khai thác và sử dụng tài nguyên... mà không kèm theo những thay đổi đáng kể nào về chất.

Khái niệm tăng trưởng kinh tế có thể được hiểu theo hai cách khác nhau. Theo quan niệm thông thường, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay hàng hóa và dịch vụ của một nền kinh tế, một ngành kinh tế... trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm) so với thời kỳ trước. Theo cách hiểu hiện đại hơn, phản ánh sự gia tăng thu nhập hay sản lượng mà người dân được hưởng, thì tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự tăng lên về thu nhập ròng tính theo bình quân đầu người. Ngoài ra, cần phân biệt sự khác nhau giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự biến đổi sâu sắc về mặt cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội theo chiều hướng tiến bộ. Nó bao gồm tăng trưởng kinh tế cộng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi xã hội, tuổi thọ...) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạodịch vụ). Phát triển kinh tế là một quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời gian nhất định. Trước Keynes, kinh tế học cổ điểntân cổ điển không phân biệt rành mạch tăng trưởng kinh tế với phát triển kinh tế.

2) Đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế có thể được đo bằng mức tăng trưởng tuyệt đối (quy mô tăng trưởng) hoặc số tương đối (tốc độ hay tỷ lệ tăng trưởng). Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh.

Qui mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm trong nước (gross domestic product - GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia (gross national product - GNP), hoặc mức tổng sản phẩm bình quân theo đầu người hoặc mức thu nhập bình quân theo đầu người (Per Capita Income, PCI). Do vậy, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người PCI trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế.

Tổng sản phẩm trong nước là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh giá trị mới của hàng hóa và dịch vụ được tạo ra của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Tổng sản phẩm trong nước đo lường toàn bộ sản phẩm vật chất và dịch vụ (được đem ra trao đổi hoặc không) do tất cả các ngành kinh tế (hoặc tất cả các thành phần kinh tế) mới sáng tạo ra trong từng thời kỳ.

Tổng sản phẩm quốc gia là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh tổng thu nhập được tạo ra từ các yếu tố thuộc sở hữu của quốc gia tham gia vào hoạt động sản xuất trên lãnh thổ quốc gia hay ở nước ngoài trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm; tức là bằng GDP cộng với thu nhập của người không thường trú chuyển cho người thường trú và trừ đi thu nhập ban đầu của người thường trú trả cho người không thường trú.

Theo số tương đối, tốc độ tăng trưởng kinh tế là tỷ lệ phần trăm tăng thêm giữa sản lượng hàng hóa và dịch vụ của thời kỳ nghiên cứu so với mức sản lượng hàng hóa và dịch vụ của thời kỳ trước hoặc của thời kỳ gốc. Ngoài ra, còn người ta còn đo lường tăng trưởng kinh tế thông qua chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn.

Biểu diễn bằng toán học, tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %. Công thức xác định như sau:

y = dY/Y * 100(%)

trong đó Y là qui mô của nền kinh tế; y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa (theo giá hiện hành hay giá thực tế), thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực (theo giá cố định), thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) theo cách hiểu thông thường.

Trong các nghiên cứu về kinh tế thị trường, ngoài hai chỉ tiêu được sử dụng phổ biến để đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế nêu trên (GDP và GNP), người ta còn thể thể sử dụng các chỉ tiêu khác như Tổng giá trị sản xuất (gross output - GO), thu nhập quốc gia thô (Gross national income – GNI) hoặc các chỉ tiêu GDP, GNP, GO bình quân đầu người.

II- Khái niệm và đo lường chất lượng tăng trưởng kinh tế:

1) Khái niệm:

Tăng trưởng kinh tế được nghiên cứu dưới cả hai góc độ số lượng và chất lượng.Thực tế, tăng trưởng kinh tế không nhất thiết chỉ hoặc phải có sự tăng lên về số lượng hàng hóa và dịch vụ, mà tăng trưởng kinh tế thường đi kèm với giá trị thực tế của mỗi đơn vị hàng hóa và dịch vụ cũng tăng lên. Điều này được gọi là tăng trưởng về chất lượng (hàng hóa và dịch vụ) hay chất lượng tăng trưởng.

Như đã nêu trong mục I, từ khi kinh tế học ra đời đến nay, đã có rất nhiều lý thuyết và mô hình nghiên cứu về tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế, song có rất ít nghiên cứu đề cập đến chất lượng tăng trưởng của các nền kinh tế đi kèm với các tốc độ tăng trưởng đó. Một số nghiên cứu cho rằng khái niệm chất lượng tăng trưởng mới xuất hiện trong khoảng một thập kỷ gần đây. Một số nghiên cứu khác còn cho rằng khái niệm này cơ bản chưa hình thành vì chỉ có quá ít nghiên cứu về nó, thậm chí đến nay vẫn chưa có các định nghĩa đáng tin cậy về nó và nó vẫn chưa được đưa vào danh mục các từ ngữ kinh tế trong các từ điển kinh tế.

Theo chúng tôi, bản chất của phát triển có chất lượng chính là phát triển bền vững. Nếu như trong các lý thuyết kinh tế cổ điển và tân cổ điển đề cập ở trên, phát triển bền vững là đảm bảo một nền kinh tế liên tục duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý trong một thời gian dài để cải thiện đời sống nhân dân, thì ngày nay, phá triển bền vững còn phải gắn với vấn đề bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên môi trường; tức là nền kinh tế phải phát triển ổn định, lâu dài và không gây nguy hại đến môi trường tự nhiên. Theo quan niệm này, tăng trưởng có chất lượng phải là sự phát triển nhanh, vững chắc, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu hiện tại của xã hội, đồng thời vẫn không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng yêu cầu của các thế hệ tương lai. Như vậy, tăng trưởng có chất lượng phải là sự kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.

Tuy nhiên, nếu như đề cập đến khái niệm chất lượng tăng trưởng theo quan điểm trên thì vấn đề nghiên cứu sẽ rất rộng, liên quan đến cả ba lĩnh lực kinh tế, xã hội và môi trường. Vì vậy, trong nghiên cứu này, sẽ sử dụng khái niệm chất lượng tăng trưởng theo nghĩa hẹp hơn và chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế, có tính đến các yếu tố xã hội và môi trường.

Cụ thể trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ xem xét khái niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế được định nghĩa như sau: “Chất lượng tăng trưởng kinh tế cao là sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế, thể hiện thông qua các nội dung chính là năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, lao động xã hội không ngừng được cải thiện; đời sống của nhân dân lao động không ngừng nâng cao; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, hiệu quả, phản ánh được xu thế phát triển của thời đại và phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; tốc độ tăng trưởng kinh tế tương ứng với tiềm năng; tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”.

Những nội dung chính của khái niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế nêu trên đã được sử dụng rộng rãi trong và ngoài nước. Theo quan điểm của Thomas, Dailami và Dhareshwar (2004), chất lượng tăng trưởng kinh tế được thể hiện trên hai khía cạnh: Tốc độ tăng trưởng cao cần được duy trì dài hạn và tăng trưởng phải đóng góp trực tiếp vào cải thiện một cách bền vững điều kiện sống của toàn xã hội, xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững.

Một số nhà kinh tế học nổi tiếng khác như Lucas (1993), Sen (1999), Vinod Thomas (1999), Stiglitz (2000)... thì bên cạnh yêu cầu tốc độ tăng trưởng cao[1], đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế ở tầm vĩ mô còn đòi hỏi quá trình tăng trưởng kinh tế phải:

(1) Có sự đóng góp ngày càng cao của yếu tố năng suất nhân tố tổng hợp để đảm bảo duy trì được tốc độ tăng trưởng dài hạn và hạn chế được những tác động của yếu tố bền ngoài tới quá trình phát triển kinh tế trong nước;

(2) Có hiệu quả sử dụng các nguồn lực như vốn, lao động... ngày càng cao.

(3) Có năng lực cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng cao; tính ổn định trong tăng trưởng kinh tế ngày càng và bền vững. Cơ cấu kinh tế ngày càng phát triển theo hướng chất lượng và hiện đại.

(4) Tăng trưởng kinh tế có chất lượng là tăng trưởng đảm bảo thực hiện mục tiêu phát triển xã hội, cải thiện và tăng cường phúc lợi cho người dân, giảm tỷ lệ và số lượng người đói, nghèo; tăng cường dân chủ xã hội...

(5) Tăng trưởng kinh tế có chất lượng là tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái, tức là tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển bền vững.

Các nhà kinh tế trong nước cũng đã đưa ra một số quan điểm về chất lượng tăng trưởng kinh tế để sử dụng trong các nghiên cứu cứu mình. Nguyễn Thị Tuệ Anh và Lê Xuân Bá (2005) cho rằng chất lượng tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở tính bền vững của tăng trưởng với việc sử dụng đầu vào của quá trình sản xuất có hiệu quả, phân phối sản phẩm đầu ra công bằng, chất lượng cuộc sống được cải thiện và môi trường sinh thái được bảo vệ... Lê Huy Đức (2004) cho rằng tăng trưởng kinh tế có chất lượng là tính ổn định của trạng thái bên trong của quá trình tăng trưởng kinh tế. Trần Thọ Đạt (2006) cho rằng chất lượng tăng trưởng kinh tế là sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế, được thể hiện qua một loạt chỉ tiêu như nhân tố năng suất nhân tố tổng hợp, đời sống của nhân dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường... Nhìn chung, khái niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế nêu trên cũng tương thích với những định nghĩa này.

2) Đo lường chất lượng tăng trưởng kinh tế

Từ định nghĩa và các biểu hiện trên của chất lượng tăng trưởng kinh tế, có thể đưa ra một hệ thống các nhóm chỉ tiêu cơ bản nhất dưới đây để đo lường chất lượng tăng trưởng:

a) Nhóm chỉ tiêu kinh tế được sử dụng để đánh giá tổng hợp chất lượng tăng trưởng, đại diện chung là chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp

(1) Khái quát chung về năng suất:

Phạm trù năng suất có lịch sử phát triển lâu đời, được Quesnay sử dụng đầu tiên vào năm 1766. Trong nền kinh tế thị trường, nó luôn được bổ sung về nội dung và hoàn thiện về phương pháp phân tích nhằm phù hợp với những thay đổi về kinh tế - xã hội. Hiện nay, dưới sự tác động của kinh tế tri thức, quan niệm và nhận thức về năng suất đã và đang thay đổi nhanh chóng. Năng suất theo cách tiếp cận mới không chỉ giới hạn trong hoạt động sản xuất mà còn bao gồm cả những hoạt động xã hội[2]. Phải có sự kết hợp hài hoà giữa tăng năng suất và tăng lợi ích xã hội. Năng suất trở thành phạm trù động có quan hệ biện chứng với nhiều yếu tố, nhiều giai đoạn. Tăng năng suất là vừa tăng số lượng vừa tăng chất lượng sản phẩm. Tăng năng suất có định hướng quan tâm đầu ra, điều này có nghĩa không chỉ chú tâm đến sử dụng tiết kiệm các yếu tố đầu vào mà nhấn mạnh kết quả đầu ra. Tăng năng suất phải đảm bảo hạn chế gây ô nhiễm môi trường, không làm cạn kiệt nguồn tài nguyên. Tăng năng suất phải đảm bảo nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện môi trường làm việc...

Về định lượng, theo Từ điển Oxford: Năng suất là tính hiệu quả của hoạt động sản xuất được đo bằng việc so sánh giữa khối lượng sản xuất ra với thời gian hoặc nguồn lực được sử dụng để tạo ra nó. Theo Từ điển kinh tế học hiện đại của MIT: Năng suất là đầu ra trên một đơn vị đầu vào được sử dụng. Theo Tổ chức Lao động Thế giới  (ILO): Năng suất là tỷ số giữa đầu ra với tổng các yếu tố đầu vào; năng suất là kết quả cuối cùng của quá trình xã hội phức tạp gồm: khoa học, nghiên cứu và phát triển, giáo dục, công nghệ, năng lực sản xuất và tổ chức lao động. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD): Một cách tổng quát, năng suất được định nghĩa là tỷ số giữa số lượng đầu ra với số lượng đầu vào được sử dụng. Theo Bộ Lao động của Mỹ: Năng suất là chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh tế trong việc biến đầu vào thành đầu ra...

Như vậy, một cách khái quát năng suất phản ảnh mối quan hệ tỷ số giữa đầu ra có ích với đầu vào được sử dụng. Đầu vào có thể tính theo số lao động, vốn hay thời gian lao động hao phí, chi phí thường xuyên. Đầu ra thường dùng tổng sản phẩm quốc nội đối với nền kinh tế, địa phương và giá trị tăng thêm đối với ngành, doanh nghiệp. Năng suất có thể tính cho nền kinh tế, địa phương, ngành hay doanh nghiệp, từng hoạt động… Khi đo lường năng suất có thể xem xét năng suất cho từng nhân tố, nhóm hay cho toàn bộ các nhân tố tham gia vào quá trình sản xuất và phạm vi tính có thể cho từng hoạt động, doanh nghiệp, ngành hay nền kinh tế.

Phương pháp phân tích năng suất rất đa dạng, có thể sử dụng phương pháp kinh tế lượng hay phương pháp chỉ số. Mỗi phương pháp có những ưu điểm và hạn chế riêng. Phương pháp kinh tế lượng đòi hỏi nguồn số liệu khá phong phú còn phương pháp chỉ số đòi hỏi số liệu ít hơn. Trong phạm vi nền kinh tế, đầu ra thường được đo lường bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP). ở phạm vị ngành hay doanh nghiệp thường dùng chỉ tiêu giá trị tăng thêm. ở mức từng hoạt động, đầu ra có thể dùng kết quả đo lường bằng hiện vật. Đầu vào thường được đo lường bằng số lao động, thời gian lao động hao phí hay vốn.

Một cách tổng quát có thể mô tả công thức tính năng suất như sau[3]: Sử dụng chỉ số Divisia, tốc độ tăng của các của tổng các yếu tố đầu vào bằng tổng có quyền số của các tốc độ tăng các yếu tố đầu vào riêng biệt[4]:

                                                         (2)

Trong đó, xi là số lượng đầu vào i và vi là quyền số đối với đầu vào i, được chọn là tỷ trọng chi phí của yếu tố đầu vào i trong tổng chi phí đầu vào.

Tương tự, tốc độ tăng của tổng các yếu tố đầu ra được tính như sau :

                                                       (3)

Trong đó, wi là quyền số đối với đầu ra j và được chọn là tỷ trọng của đầu ra thứ j trong tổng kết quả.

Kết hợp hai phương trình (2) và (3), tốc độ tăng năng suất sẽ là:

                                                             (4)

Trong đó,  là tốc độ tăng của năng suất,  là tốc độ tăng của đầu ra j và đầu vào i.

(2) Năng suất nhân tố tổng hợp:

Hiện nay, các nước đang có xu hướng sử dụng rộng rãi chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp TFP (Total factor productivity) để đo năng suất ở tầm tổng hợp kinh tế quốc dân. ở Việt Nam, chỉ tiêu này cũng được các nhà kinh tế quan tâm nhiều cả về lý thuyết và ứng dụng vào thực tiễn. Về công thức, chúng ta có thể thể hiện TFP theo một số dạng sau[5],[6]:

                                          (5)

Trong đó: Y là tổng các đầu ra; X là tổng có quyền số tất các đầu vào.

Khi hàm sản xuất chỉ có hai nhân tố vốn (K) và lao động (L)  theo dạng Yt=At.f[Kt,Lt] thì At trong mô hình này chính là TFP.

Trong hàm sản xuất Cobb-Douglas Y=AKáLâ thì A cũng chính là TFP  hay:

                                           (6)

TFP phản ảnh hiệu quả sử dụng các nguồn lực vào sản xuất, phản ảnh sự thay đổi công nghệ, trình độ lành nghề của công nhân, trình độ quản lý...

Nâng cao TFP tức là nâng cao hơn kết quả sản xuất với cùng đầu vào. Điều này là rất quan trọng đối với người lao động, doanh nghiệp và toàn nền kinh tế. Đối với người lao động, nâng cao TFP sẽ có góp phần nâng lương, nâng thưởng, điều kiện lao động được cải thiện, công việc ổn định hơn. Đối với doanh nghiệp thì có khả năng mở rộng tái sản xuất. Còn đối với nền kinh tế sẽ nâng cao sức cạnh tranh trên trường quốc tế, nâng cao phúc lợi xã hội.

Chỉ tiêu TFP rất quan trọng trong phân tích kinh tế.  Sự biến động TFP được Solow sử dụng đầu tiên vào năm 1957 nhằm phản ảnh sự thay đổi công nghệ và giải thích sự tăng trưởng kinh tế. Từ đó về sau được các nhà kinh tế sử dụng rộng rãi và trở thành một chỉ tiêu không thể thiếu trong phân tích kinh tế.

Xuất phát từ những nguồn tài liệu và mục tiêu khác nhau, TFP được phân tích theo những hướng khác nhau. Có thể tiến hành phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động của TFP hay phân tích ảnh hưởng của TFP đến tăng trưởng kinh tế. Thông thường các nhà phân tích TFP theo hướng thứ hai.

Ngoài việc sử dụng chỉ số trên, khi thực hiện phân tích biến động của TFP và ảnh hưởng của nó đến biến động kết quả sản xuất, chúng ta có thể dùng công thức xấp xỉ sau[7]:

                          (7)

Có nghĩa là Log(tốc độ phát triển) » tốc độ tăng

Bây giờ, chúng ta xem một trường hợp hàm sản xuất là sản xuất Cobb-Douglas với hai yếu tố đầu vào như sau :

                                                                            (8)

Với Y, K,L được giả định là hàm liên tục theo thời gian.

Và á, â gọi là các hệ số co giãn. Nếu hiệu quả tăng theo qui mô thì á+â>1, nếu hiệu quả giảm theo qui mô thì á+â<1, nếu hiệu quả không đổi theo qui mô thì á+â =1

Logaric hai vế của (8),  chúng ta được:

LnY= LnA+LnK+âLnL                                                       (9)

Vi phân hai vế của (9) theo thời gian, chúng ta sẽ có

                                                          (10)

Như vậy, tốc độ tăng của kết quả sản xuất bằng tổng tốc độ tăng của TFP và tốc độ tăng bình quân của vốn và lao động.

Từ phương trình (10), chúng ta thực hiện biến đổi và có tốc độ tăng của TFP như sau:

                                                          (11)

hay:   gTFP  =  gY  –  ( ỏ * gK  +  õ * gV )

trong đó gY là tốc độ tăng trưởng GDP; gK là tốc độ tăng trưởng của vốn hoặc tài sản cố định; glà tốc độ tăng trưởng của lao động, ỏ và õ lần lượt là hệ số đóng góp của vốn và lao động, thường được xác định theo phương pháp hạch toán (ở cấp doanh nghiệp) hoặc dựa trên hàm sản xuất Cobb-Douglas như trên (ở cấp kinh tế vĩ mô), trong đó (ỏ + õ) thường bằng 1.

b) Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng riêng rẽ các nguồn lực

Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng riêng rẽ các nguồn lực rất đa dạng vì bản thân các nguồn lực tác động để tạo ra đầu ra rất đa dạng và số lượng các đầu ra cũng đa dạng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi xin giới hạn đánh giá theo 3 chỉ tiêu chính gồm năng suất lao động, hiệu quả đồng vốn và hiệu quả sử dụng tổng hợp các chi phí đầu vào. Thực tế 3 chỉ tiêu này đã phản ánh khá đầy đủ hiệu quả sử dụng các nguồn lực chủ yếu.

(1) Năng suất lao động

Năng suất lao động được tính bằng cách so sánh hai chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước và lao động trung bình trong năm (hoặc số giờ lao động) của nền kinh tế theo công thức sau:

  NSLD = Tổng GDP / Tổng số lao động

Về nguyên tắc, cần sử dụng chỉ tiêu GDP theo giá cố định; khi đó, GDP bình quân trên mỗi lao động càng lớn thì năng suất lao động xã hội càng cao. Ở cấp ngành hay doanh nghiệp, có thể thay GDP bằng các chỉ tiêu khác đại diện cho kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành, doanh nghiệp như giá trị gia tăng, doanh thu, lợi nhuận... để đưa vào công thức tính năng suất lao động của ngành hay doanh nghiệp. Sau khi tính năng suất lao động trong từng ngành, doanh nghiệp qua từng giai đoạn, có thể phân tích, đánh giá trình độ phát triển của năng suất lao động và xu hướng phát triển của nó, từ đó đánh giá chất lượng tăng trưởng dưới góc độ tăng năng suất lao động.

(2) Hiệu quả đồng vốn

Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, người ta có thể sử dụng nhiều loại chỉ tiêu khác nhau. Ví dụ có thể sử dụng chỉ tiêu dưới đây để đánh giá hiệu quả của một đồng vốn sản xuất nói chung hoặc một đồng vốn cố định nói riêng để tạo ra tổng sản phẩm quốc nội GDP:

HQĐV = GDP năm nghiên cứu / Tổng số vốn sản xuất năm nghiên cứu

Tuy nhiên, do việc xác định chỉ tiêu “Tổng số vốn sản xuất” ở tầm kinh tế vĩ mô khá khó khăn, nhất là trong điều kiện nước ta đến nay vẫn chưa thống kê, xác định được chỉ tiêu “tài sản cố định” của toàn nền kinh tế hay các ngành, nên thông thường người ta sử dụng hệ số ICOR để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.

Hệ số ICOR là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp cho biết để tăng thêm 1 đồng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đòi hỏi phải tăng thêm bao nhiêu đồng vốn đầu tư thực hiện. Vì vậy, hệ số này phản ánh hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư­ dẫn tới tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư thực hiện trong hệ số ICOR bao gồm các khoản chi tiêu để làm tăng tài sản cố định, tài sản lưu động và các khoản hình thành nên giá trị tăng thêm của các ngành kinh tế. Hệ số ICOR thay đổi tùy theo thực trạng kinh tế xã hội trong từng thời kỳ khác nhau, phụ thuộc vào cơ cấu đầu tư và hiệu quả sử dụng các sản phẩm vật chất và dịch vụ trong nền kinh tế.

Nguyên tắc tính toán hệ số ICOR hàng năm và trung bình cho nhiều năm: Công thức xác định ICOR hàng năm được viết như sau:

            ICOR = Tổng vốn đầu tư / GDP tăng thêm

hay                =  I / DGDP                                                           

Tử số của công thức trên lẽ ra phải là mức gia tăng của tài sản cố định, song trên thực tế, rất khó kiếm được thông tin chính xác về chỉ tiêu này nên người ta sử dụng chỉ tiêu tổng vốn đầu tư để thay thế. Tử số và mẫu số được tính theo giá trị nhiều năm nên phải đảm bảo tính đồng nhất; do đó hai đại lượng này đều phải được tính theo giá cố định.

Hệ số ICOR thấp chứng tỏ đầu tư­ có hiệu quả cao, hệ số ICOR thấp hơn có nghĩa là để duy trì cùng một tốc độ tăng tr­ưởng kinh tế cần một tỉ lệ vốn đầu tư­ so với tổng sản phẩm trong nước thấp hơn. Tuy nhiên, theo quy luật về lợi tức biên giảm dần khi nền kinh tế càng phát triển (GDP bình quân đầu ng­ười tăng lên) thì hệ số ICOR sẽ tăng lên, tức là để duy trì cùng một tốc độ tăng trưởng cần một tỉ lệ vốn đầu tư­ so với tổng sản phẩm trong nước cao hơn.

Có hai ph­ương pháp tính hệ số ICOR:

• Phư­ơng pháp thứ nhất tính ICOR theo công thức:


Trong đó:

V1: tổng vốn đầu t­ư của năm báo cáo (giá cố định);

G1: tổng sản phẩm trong nước của năm báo cáo (giá cố định);

G0: tổng sản phẩm trong nước của năm trư­ớc năm báo cáo (giá cố định).

• Ph­ương pháp thứ hai đ­ược tính theo công thức:


Trong đó: Iv là tỷ lệ vốn đầu tư­ so với tổng sản phẩm trong nước (về nguyên tắc, hai chỉ tiêu đều phải được tính theo giá cố định, song trong thực tế, nhiều khi do không có số liệu nên người ta còn tính theo giá hiện hành); g là tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước;

Hệ số ICOR tính theo ph­ương pháp này thể hiện: để tăng thêm 1 phần trăm tổng sản phẩm trong nước đòi hỏi phải tỷ lệ vốn đầu t­ư so với GDP phải tăng thêm là bao nhiêu phần trăm.

Hai phư­ơng pháp tính hệ số ICOR nêu trên cho kết quả giống nhau nếu tất cả các chỉ tiêu đều được tính theo giá cố định. Tuy nhiên, nếu sử dụng giá hiện hành, kết quả sẽ khác nhau do chỉ số giá GDP và chỉ số giá vốn đầu tư biến động khác nhau.

Hạn chế ảnh hưởng của các nhân tố khác tới GDP: Trong tính toán hệ số ICOR nêu trên, đã giả thiết rằng chỉ có vốn đầu tư ảnh hưởng tới tăng trưởng GDP, còn các nhân tố khác không có ảnh hưởng gì. Đây là một giả thiết rất mạnh. Do vậy cần hạn chế bớt cấp độ của giả thiết này bằng cách dùng dãy số là trung bình động 3 năm của vốn đầu tư và của GDP để giảm tác động của những yếu tố ngẫu nhiên hoặc những nhân tố khác ngoài vốn đầu tư.

ICOR với tác động trễ của vốn đầu tư: Trên thực tế, vốn đầu tư mới thường có tác động tới GDP sau một số năm, tháng chứ không phải ngay lập tức. Khoảng thời gian từ khi bắt đầu đầu tư tới khi vốn đầu tư phát huy tác dụng được gọi là thời gian trễ. Độ trễ thời gian nàyphụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là loại đầu tư thực hiện: Nếu mua sắm máy móc thay thế thì độ trễ rất ngắn, nhưng nếu xây dựng cơ sở hạ tầng thì độ trễ rất cao. Độ trễ đối với các nền kinh tế khác nhau thì cũng rất khác nhau.

Có nhiều phương pháp toán để xác định khoảng thời gian trễ này. Tuy nhiên, giả thiết được áp dụng rộng rãi trên thế giới là vốn đầu tư có thời gian trễ 1 năm, tức là đầu tư năm t sẽ tác động tới GDP năm t+1. Công thức tính ICOR trên được thay bằng công thức sau:

                                ICOR = It-1 / DGDPt                                              

từ đây ta có:            DGDPt = (1 / ICOR) * It-1

hay                          DGDPt = b * It-1

Đây là một hàm tuyến tính với hệ số a = 0, hệ số b = 1/ICOR. Ước lượng phương trình này sẽ tìm ra hệ số b, rồi tính ngược ra ICOR theo công thức: ICOR = 1/b. Hệ số ICOR tính theo phương pháp trên cho phép đánh giá tổng hợp hiệu quả đầu tư của nền kinh tế. Tuy nhiên cần thận trọng khi sử dụng kết quả này. Sau khi tính toán, cần phân tích xem có đúng là hiệu quả kinh tế giảm sút do giảm sút hiệu quả đầu tư hay do những nhân tố khác. Ví dụ trong sản xuất nông nghiệp, tăng trưởng có thể bị ảnh hưởng mạnh bởi thời tiết, giá cả nông sản trong nước và trên thị trường quốc tế...

(3) Hiệu quả sử dụng tổng hợp các chi phí đầu vào, đại diện bằng chỉ tiêu tỷ lệ chi phí trung gian sử dụng trong quá trình sản xuất.

Chúng ta đều biết, GDP (cấp toàn nền kinh tế), giá trị gia tăng (cấp ngành) hay lợi nhuận (cấp doanh nghiệp) chỉ bao gồm phần giá trị mới sáng tạo ra hay tăng thêm của nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Để làm ra phần tăng thêm này, cần phải sử dụng những chi phí nhất định về vốn cố định, lao động, vật tư, nguyên nhiên liệu.... Các chi phí trung gian này không làm tăng thêm của cải cho xã hội mà chỉ là tiêu dùng những của cải đã được xã hội tạo ra từ trước để tiến hành tái sản xuất mở rộng. Do vậy, chi phí trung gian là toàn bộ chi phí vật chất và dịch vụ phải bỏ ra trong quá trình sản xuất để tạo ra GDP, giá trị gia tăng hay lợi nhuận đó. Theo bảng hạch toán quốc gia, ở tầm kinh tế vĩ mô, mối quan hệ giữa giá trị sản xuất, chi phí trung gian và GDP hay giá trị gia tăng được thể hiện như sau:

GO = VA + IC

hay:                         VA = GO - IC

trong đó GO là giá trị sản xuất, VA là giá trị gia tăng, IC là chi phí trung gian.

Do vậy, để đánh giá hiệu quả của một đồng chi phí trung gian (HQCP) tới kết quả sản xuất, có thể sử dụng một số công thức sau:

- So sánh với giá trị sản xuất:                HQCP = GO / IC

- So sánh với giá trị tăng thêm:             HQCP = VA / IC

- So sánh với lợi nhuận:                        HQCP = Lợi nhuận / IC

Trong thực tiễn, người ta thường đánh giá hiệu quả sử dụng tổng hợp các chi phí đầu vào bằng chỉ tiêu tỷ lệ chi phí trung gian (TLCP) sử dụng trong quá trình sản xuất, tức là:

                      TLCP = IC / GO

Tỷ lệ chi phí trung gian là một chỉ tiêu kinh tế quan trọng để đánh giá hiệu quả sản xuất xã hội, qua đó đánh giá chất lượng tăng trưởng. Tỷ lệ này càng thấp thì sản xuất càng có hiệu quả; do đó tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế ngày càng cao.

c) Nhóm chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh và tính ổn định trong tăng trưởng của nền kinh tế

Nhóm chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh và tính ổn định trong tăng trưởng của nền kinh tế bao gồm 3 loại chỉ tiêu đại diện chính là chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước và sự ổn định của hệ thống tài chính tiền tệ.

(1) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế:

Đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm thay đổi cơ cấu giữa các ngành lớn, thay đổi cơ cấu trong nội bộ từng ngành và thay đổi tầm quan trọng tương đối của từng loại cây trồng, vật nuôi và các sản phẩm công nghiệp, dịch vụ trong nền kinh tế.

Phân tích thay đổi cơ cấu có ý nghĩa rất quan trọng trong nghiên cứu chất lượng tăng trưởng kinh tế vì nó là yếu tố cơ bản của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cơ cấu kinh tế quyết định sự phát triển hài hòa, nhịp nhàng của tất cả các phần tử trong hệ thống kinh tế, qua đó đảm bảo cho quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, tức là có chất lượng. Đồng thời, phân tích tiến triển cơ cấu kinh tế sẽ cho phép hiểu rõ xu hướng, độ lớn và tốc độ thay đổi cơ cấu cũng như những nhân tố ảnh hưởng tới quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế; từ đó lựa chọn những chính sách phù hợp để hướng quá trình dịch chuyển cơ cấu theo hướng tăng hiệu quả kinh tế chung và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

(2) Khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước:

- Khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu

Một nền kinh tế tăng trưởng có chất lượng phải là nền kinh tế sản xuất ra được các sản phẩm được cả thế giới ưa chuộng và sẵn sàng nhập khẩu. Do đó, tỷ lệ xuất khẩu trong tổng giá trị gia tăng (GDP) phải có xu hướng tăng lên. Nếu tỷ lệ này giảm thì có nghĩa là khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước giảm, và tương ứng với nó là chất lượng tăng trưởng giảm sút.

Để đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, người ta thường dùng chỉ tiêu tỷ lệ xuất khẩu trên GDP. Đối với một nền kinh tế, chỉ tiêu này càng cao thì càng chứng tỏ sản phẩm của nền kinh tế đó có chất lượng tốt và tính cạnh tranh cao.

Ngoài chỉ tiêu gộp, vĩ mô nêu trên, còn có thể phân tích cụ thể hơn thông qua một số chỉ tiêu khác để nhận biết và giải thích tại sao chất lượng tăng trưởng thể hiện bằng tỷ lệ xuất khẩu trong tổng giá trị gia tăng giảm sút. Một số chỉ tiêu thông dụng là:

+ Tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm sản xuất từ nguyên liệu trong nước đo bằng tỷ lệ giữa giá trị xuất khẩu sản phẩm sản xuất từ nguyên liệu trong nước so với tổng kim ngạch xuất khẩu.

Nếu như tỷ lệ này tăng lên thì có nghĩa là nền kinh tế đã khai thác tốt hơn nguồn lực trong nước để sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu thu ngoại tệ. Như vậy, tỷ lệ này càng cao thì tăng trưởng kinh tế càng vững chắc vì sự phụ thuộc vào nguyên, nhiên, vật liệu nhập khẩu càng ít. Do đó, có thể kết luận chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế đã tăng lên.

+ Tỷ lệ xuất khẩu hàng nông sản đã qua chế biến đo bằng tỷ lệ giữa giá trị xuất khẩu hàng nông sản đã qua chế biến so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản. Tương tự có thể tính toán đối với xuất khẩu hàng công nghiệp.

+ Chỉ số tập trung trong xuất khẩu:

Chỉ số tập trung trong xuất khẩu thực chất là cơ cấu xuất khẩu một số loại sản phẩm chính. Phương pháp tính như sau: Chọn ra 4-5 sản phẩm xuất khẩu chính rồi tính tổng tỷ trọng của chúng trong tổng giá trị xuất khẩu.

Chỉ số tập trung trong xuất khẩu cho phép phân tích vai trò của một số ít sản phẩm chính tới xuất khẩu, tức là mức độ phụ thuộc của xuất khẩu tại 1 nước vào một vài sản phẩm xuất khẩu. Khi tính chỉ số này cho nhiều năm, sẽ phân tích được thay đổi mức độ phụ thuộc này theo thời gian. Khi chỉ số này càng cao thì mức độ phụ thuộc càng lớn, và xuất khẩu cũng như toàn nền kinh tế sẽ rất biến động thường xuyên theo biến động của thị trường quốc tế đối với những sản phẩm này. Đây là điều không tốt. Trong thực tế, chúng ta phải cố gắng đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu, tức là giảm chỉ số này, để xuất khẩu ngày càng ổn định, vững chắc và chất lượng tăng trưởng xuất khẩu nói riêng, toàn nền kinh tế nói chung tăng lên.

- Năng lực cạnh tranh quốc gia: Năng lực cạnh tranh quốc gia là một loại chỉ số cho thấy năng lực cạnh tranh tổng thể của một đất nước, được xây dựng dựa trên đánh giá các điều kiện kinh tế, chính trị và tổ chức, các phong tục thực tiễn, khả năng tăng trưởng bền vững, khả năng thu hút đầu tư nước ngoài, đảm bảo ổn định xã hội, nâng cao đời sống nhân dân... của một nền kinh tế.

Mỗi cơ quan uy tín trên toàn cầu định nghĩa và đánh giá năng lực cạnh tranh bằng các phương pháp riêng của họ. Các xếp hạng quốc gia của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) được dựa trên một khảo sát so sánh tiềm năng phát triển cung như năng lực cạnh tranh kinh doanh hiện tại. Mục đích của khảo sát là nghiên cứu những nhân tố chính góp phần tạo nên các điều kiện sự phát triển bền vững trên khắp thế giới, với sự tập trung đặc biệt vào môi trường kinh tế vi mô, chất lượng của các tổ chức quốc gia và cơ sở hạ tầng của đất nước.

Hàng năm, Diễn đàn kinh tế thế giới tiến hành điều tra, so sánh và xếp hạng năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế dựa theo Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp. Chỉ số này được xây dựng trên cơ sở đo lường các yếu tố có tác động lớn tới năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gi. Các yếu tố này được phân loại thành 9 nhóm nhân tố và còn được gọi là 9 trụ cột thể hiện năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia. Các trụ cột đó bao gồm: thể chế, hạ tầng, kinh tế vĩ mô, giáo dục cơ bản và y tế, giáo dục và đào tạo bậc cao, hiệu quả thị trường, mức độ sẵn sàng về công nghệ, trình độ kinh doanh và đổi mới. Các trụ cột đó cũng có thể được nhóm lại theo ba nhóm chính là (i) Môi trường kinh tế vĩ mô, (ii) Năng lực của hệ thống thể chế công, (iii) Trình độ phát triển khoa học và công nghệ.

(3) Sự ổn định của hệ thống tài chính tiền tệ:

- Cân đối tài chính: Trong các nghiên cứu về chất lượng tăng trưởng kinh tế vĩ mô, bao giờ cũng phải có phần nghiên cứu riêng dành cho tài chính, đặc biệt là thâm hụt và phương thức xử lý thâm hụt tài chính công vì vai trò ngày càng quan trọng của Chính phủ trong hệ thống kinh tế, xã hội và do tính chất đặc thù của các hoạt động của Chính phủ. Việc phân tích chỉ tiêu thặng dư hoặc thâm hụt ngân sách có ý nghĩa rất quan trọng vì nó cho biết đóng góp của Chính phủ vào tổng tiết kiệm quốc gia và do đó tới tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, khi nghiên cứu thâm hụt và phương thức xử lý thâm hụt tài chính công của Chính phủ, có thể dự báo năng lực duy trì ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ trong một khoảng thời gian dài.

Thông thường, thặng dư hoặc thâm hụt ngân sách thường xuyên hay tiết kiệm của Chính phủ được đo bằng chênh lệch giữa thu ngân sách thường xuyên và chi ngân sách cộng với các khoản cho vay ròng. Trong một số trường hợp, để đảm bảo tính ổn định tương đối của thu ngân sách, người ta không đưa tiền thu được từ bán hoặc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước vào thu ngân sách, mà đưa vào mục bù đắp thâm hụt ngân sách. Đây cũng là quan điểm của Quỹ Tiền tệ quốc tế.

Thặng dư hoặc thâm hụt ngân sách ban đầu là một chỉ tiêu hữu ích để đánh giá tình trạng thặng dự hoặc thâm hụt ngân sách trong một thời kỳ, không tính đến ảnh hưởng của thặng dự hoặc thâm hụt ngân sách trong các thời kỳ trước. Để tính chỉ tiêu này, người ta loại bỏ khỏi cân đối các khoản trả lãi; khi đó: Thặng dư hoặc thâm hụt ngân sách ban đầu bằng tổng thu ngân sách và viện trợ không hoàn lại trừ đi tổng của chi ngân sách và các khoản cho vay ròng, nhưng không tính số tiền trả lãi.

Đối với tài chính cho thâm hụt ngân sách, thông thường người ta sử dụng 1 trong ba hoặc kết hợp ba cách sau đây: (i) Vay từ nước ngoài; (ii) Vay trong nước; (iii) Phát hành tiền tệ để bù đắp. Vay từ nước ngoài và vay trong nước để tài chính cho thâm hụt ngân sách thường không ảnh hưởng tới lạm phát song nếu lạm dụng các công cụ này thì nợ chính phủ sẽ tăng lên, đến lúc nào đó sẽ phá với cân bằng tài chính chính phủ, dẫn tới phải sử dụng phát hành tiền để bù đáp và nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, lạm phát...

Để đảm bảo cân đối tài chính dài hạn, thông thường người ta đưa ra một số chuẩn mực sau đây:

+ Tỷ lệ thâm hụt ngân sách không nên vượt quá 5% GDP trong một thời kỳ dài;

+ Theo kinh nghiệm của các nước và tổ chức tài chính quốc tế, một nước được gọi là trong trạng thái an toàn xét về khía cạnh tổng số nợ nước ngoài nếu: (i) tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP không vượt quá 50-60%; (ii) tỷ lệ nợ nước ngoài trên tổng kim ngạch xuất khẩu không vượt quá 150%; (iii) tỷ lệ nợ ngắn hạn trong cơ cấu nợ không quá lớn (không quá 30%).

- Kiểm soát giá cả - lạm phát: Lạm phát (Inflation) là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ phần trăm tăng lên liên tục của mặt bằng giá chung của nền kinh tế theo thời gian (thường là tháng, quý, năm). Các nước thường dùng hai chỉ tiêu để đánh giá lạm phát của nền kinh tế: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số giảm phát tổng sản phẩm trong nước, trong đó:

- Chỉ số giá tiêu dùng biểu thị biến động về mức giá chung của một rổ hàng hóa và dịch vụ cố định dùng cho tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình.

- Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm trong nước biểu thị sự biến động về mặt bằng giá chung của toàn bộ hàng hóa và dịch vụ sản xuất ra trong lãnh thổ kinh tế của quốc gia.

Lạm phát là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh tình hình cân bằng kinh tế vĩ mô, qua đó phản ánh chất lượng tăng trưởng kinh tế. Khi tỷ lệ lạm phát tăng lên quá giới hạn cho phép thì những phi cân bằng kinh tế vĩ mô đã trở nên quan trọng, thậm chí trầm trọng, và ảnh hưởng bất lợi tới duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, tương ứng với tiềm năng. Hiện nay, chưa có tiêu chí rõ rệt để đánh giá thế nào là giới hạn cho phép đối với các nền kinh tế. Tuy nhiên, trong khoảng 2 thập kỷ gần đây, thế giới đã nắm được cách thức quản lý lạm phát nên tỷ lệ lạm phát đang có xu hướng giảm mạnh. Vì vậy, theo đánh giá hiện nay, đối với các nước đang phát triển, tỷ lệ lạm phát vượt lên 5% là đã bắt đầu ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình tăng trưởng kinh tế. Còn khi tỷ lệ lạm phát vượt quá 10% thì những phi cân bằng kinh tế vĩ mô đã trở nên quan trọng và cần phải có chính sách điều chỉnh để giảm tỷ lệ lạm phát.

d) Nhóm chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng gắn với phát triển xã hội

Nhóm các chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả xã hội của quá trình tăng trưởng kinh tế, theo đó một quá trình tăng trưởng kinh tế được xem là có chất lượng nếu kèm theo nó có một số kết quả xã hội sau:

(1) Tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động; giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và nông thôn... Các chỉ tiêu đánh giá tiến bộ xã hội trong lĩnh vực này rất đa dạng, trong đó thường được sử dụng nhất là tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn, hoặc so sánh tương quan giữa tốc độ tăng trưởng việc làm với tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP)...

(2) Giảm tỷ lệ đói nghèo. Các chỉ tiêu đánh giá là tỷ lệ hộ nghèo của cả nước và từng vùng; tốc độ giảm tỷ lệ hộ nghèo; hoặc so sánh tương quan giữa tốc độ giảm tỷ lệ hộ nghèo và tốc độ tăng trưởng kinh tế...

(3) Các loại phúc lợi cơ bản như y tế và giáo dục được cải thiện. Có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá tình hình cải thiện các loại phúc lợi cơ bản song từ thập kỷ 70, Liên hợp quốc đã sử dụng Chỉ số phát triển con người (HDI) là thước đo chủ yếu đánh giá. Đây là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá cả tình hình phát triển kinh tế (GDP), lẫn tình hình phát triển y tế (tuổi thọ trung bình) và giáo dục (tỷ lệ dân cư biết đọc, biết viết).

Chỉ số phát triển con người được tính theo công thức:


Trong đó: HDI1 - chỉ số GDP bình quân đầu người (GDP tính theo phương pháp sức mua tương đương “PPP” có đơn vị tính là đô la Mỹ); HDI2 - chỉ số học vấn được tính bằng cách bình quân hóa giữa chỉ số tỷ lệ biết chữ (dân cư biết đọc, biết viết) với quyền số là 2/3 và chỉ số tỷ lệ người lớn (24 tuổi trở lên) đi học với quyền số là 1/3; HDI3- chỉ số tuổi thọ bình quân tính từ lúc sinh (kỳ vọng sống tính từ lúc sinh).

HDI nhận giá trị từ 0 đến 1. HDI càng gần 1 có nghĩa là trình độ phát triển con người càng cao, trái lại càng gần 0 thì trình độ phát triển con người càng thấp.

(4) Dân chủ và công bằng xã hội ngày càng tăng.

Đánh giá chất lượng tăng trưởng dựa trên tiêu chí dân chủ và công bằng xã hội ngày càng tăng là việc làm rất khó khăn vì đến nay vẫn chưa có các công thức lượng hóa các tiêu chí này. Đặc biệt, tính chất rộng, phức tạp và quan niệm rất khác nhau của các nước, các nhóm nước về khái niệm dân chủ và công bằng xã hội cũng dẫn tới khó khăn trong việc đưa ra một chỉ tiêu đo lường sử dụng chung cho tất cả các quốc gia.

Tuy vậy, một số nước, tổ chức quốc tế đã sử dụng các thước đo sau đây để đánh giá trình độ dân chủ và công bằng xã hội: (i) Đường cong Loren (Lorenz curve); (ii) Hệ số Gini; (iii) Chỉ số phát triển giới (Gender development index – GDI); Chỉ số bình đẳng giới (Gender empowerment index – GDI)...

e) Nhóm chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng gắn với bảo vệ và phát triển môi trường

Nhóm chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng gắn với bảo vệ và phát triển môi trường hiện nay còn rất mới không chỉ đối với nước ta mà cả ở tầm quốc tế. Hiện nay, chúng ta đang nghiên cứu tiến tới xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu về môi trường để làm cơ sở theo dõi, đánh giá diễn biến về mặt môi trường, kinh tế- xã hội. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá môi trường chủ yếu gồm:

(1) Nhóm các chỉ tiêu đánh giá các yếu tố môi trường (như diện tích đất, lưu lượng nước, số lượng các loại sinh vật, BOD, COD,...);

(2) Nhóm các chỉ tiêu về bảo tồn thiên nhiên (như các chỉ tiêu bảo tồn cảnh quan, bảo tồn chất lượng nước, bảo tồn tài nguyên...);

(3) Nhóm các chỉ tiêu phát triển môi trường (tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên, tăng độ trong lành của không khí, sự mất mát tài nguyên...);

(4) Nhóm các chỉ tiêu kinh tế có liên quan đến môi trường (chỉ tiêu xây dựng hệ thống xử lý rác thải, nước thải, thu gom, vận chuyển, tái chế chất thải...).




[1] Tăng trưởng kinh tế cao theo cách hiu ca các lý thuyết v kinh tế th trường đã được trình bày trên là tăng trưởng phù hp vi tim năng, tăng trưởng không nóng, không lnh.
[2] Nguyễn Đình Phan (1998), Cách tiếp cận mới về năng suất và việc ứng dụng vào Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[3] OECD (2001), Measuring Productivity: Measument of Aggregate and industy level productivity growth.
[4] David T.Owyong, Productivity Growth: Theory and Measurement, APO Productivity.
[5] http//www.pc.gov.av/gsp/dea/over.pdf, Glossary
[6] http://www.spring.gov.sg/portal/faqs/pi/tfp.html
[7] David T.Owyong (2001), Productivity Growth: Theory and Measurement, APO Productivity Journal.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét