Chồng về Việt Nam lấy vợ
Nguyễn Tài Ngọc: Ông Thanh là người Việt Nam trạc khoảng 70, dáng vóc trung bình, “sắc đẹp” trung bình.Mặc dù sang Mỹ từ năm 1977, ông Thanh nói tiếng Anh rất kém cỏi. Lý do là vì ông ta không chịu đi học và vì môi trường ông ta tiếp xúc toàn là người Việt Nam: ông Thanh là chủ một tiệm phở ở thành phố kế bên tôi ở với khách hàng phần đông là người Việt.
Ảnh minh họa
Ông Thanh không phải nấu nướng vì đã có bếp lo. Khách đến ăn luôn luôn thấy ông ta đứng ở máy tính tiền để thu tiền. Ông ta cũng không phải lấy thực đơn khách hàng hay bưng thức ăn ra, dọn thức ăn vào vì đã có một cậu con trai và một vài người làm mướn lo việc đó. Bà Sáu vợ ông ta cũng trạc tuổi, làm cùng một chuyện chồng làm.
Thường thì hai người lo hai phiên sáng chiều khác nhau nhưng có những lúc cả hai người ở tiệm thì bà Sáu ra một góc bàn làm những chuyện lặt vặt như nhặt rau, thái hành, thái tỏi, và nói chuyện huyên thuyên với khách hàng. Hai vợ chồng là người đầu tiên mở nhà hàng Việt Nam khi mới sang đây, thức ăn nấu ngon miệng nên quán ăn lúc nào cũng đắt khách. Tám năm trước đây, bà Sáu hớn hở khoe cho tôi biết là mua được một miếng đất ở Vũng Tầu, mướn người xây một căn nhà trên miếng đất đó. Khi xây xong, hai ông bà sẽ về Việt Nam ở hưu luôn, giao tiệm phở này cho cậu con trai lo.
Mướn người xây mà không tin cậy vào bà con họ hàng ở Việt Nam trông nom nên ông chồng “hy sinh” về SàiGòn ở một thời gian ngắn hạn để lo xây xong cái nhà. Bà Sáu ở lại bên Mỹ lo quán ăn một mình. Bà vui rối rít trong thời gian ấy nói chuyện với khách hàng, gặp ai bà cũng khoe là sắp sửa về Việt Nam ở luôn với ông chồng.
Thế rồi bẵng đi một thời gian mấy năm tôi không đến nhà hàng của bà ăn. Một ngày khi vợ chồng tôi đến ăn thì không thấy ông chồng, mà mặt bà Sáu thì buồn so. Không cần hỏichuyện, bà ấy kể cho tôi nghe là ông chồng không trở lại Mỹ, đã ở lại luôn Việt Nam: ông Thanh lấy một cô Việt Nam trẻ “bằng con ổng”, 32 tuổi. Tiền mang về Việt Nam để xây nhà thì cái nhà ông ta đã để tên cho “con nhỏ” đứng tên vì Việt Kiều không đứng tên chủ nhà được. Bà Sáu nói ông ấy chỉ trở lại Mỹ làm giấy tờ ly dị chia gia tài. Căn nhà bốn phòng hai người mua hai mươi năm nay đã trả hết nợ, bây giờ đem bán để lấy tiền chia đôi.
Một thời gian nữa trôi qua, khi tôi trở lại tiệm ăn thì bà cho tôi biết là với số tiền chia hai, bà mua một condominium nhỏ hai phòng ngủ, đủ cho một mình bà ấy ở (condominium giống như apartment. Sự khác biệt là condominium người mua làm chủ, trong khi apartment chỉ để cho mướn). Già, sống một mình không có cách gì chăm sóc vườn tược nên bà chỉ cần cái condo là đủ. Bà Sáu có vẻ chua chát về cuộc đời. Gây dựng sự nghiệp với chồng mấy mươi năm nay để rồi gần cuối cuộc đời, ông chồng về Việt Nam lấy một cô gái trẻ măng, còn bà thì sống đơn chiếc trong tuổi về chiều.
Mấy tháng trước vợ chồng tôi trở lại ăn thì tôi rất ngạc nhiên thấy ông Thanh đứng ở quầy tính tiền. Với gương mặt đã mất đi sự vui vẻ của mấy năm về trước, bà Sáu nói với tôi là “con nhỏ” ở Việt Nam sau khi xài hết tiền của ổng đem qua, lấy cái nhà mới xây, đá ông chồng ra khỏi nhà vì “nó có một thằng bồ mới cỡ bằng tuổi nó”. Hết tình yêu, cạn tiền sinh sống, ông chồng quay trở lại Mỹ, xin lỗi vợ. Bà Sáu giận lắm nhưng không dám nghĩ đến cảnh tuổi già sức yếu sống một mình nên tha thứ người chồng cũ, và do đó ông Thanh đilàm trở lại ở quán ăn. Bây giờ tuy rằng vết thương lòng của bà Sáu không thể nào hàn gắn được vì chẳng những tình yêu vợ chồng mà một phần của cải cũng đã mất, bà cố nhắm mắt mong thời gian sẽ làm cho tâm dạ nguôi ngoai vì bà không có can đảm sống một mình trong tuổi già ở Mỹ.
Câu chuyện trên đây là một trường hợp tiêu biểu cho hàng nghìn chuyện tương tự mấy ông chồng chạy loạn sang Mỹ sau 1975, bây giờ tuổi xồn xồn thi nhau bỏ vợ, hay gian dối vợ về Việt Nam tìm bồ nhí, lấy vợ mới. Từ xưa đến nay người Việt Nam chúng ta có nhiều cá tính tốt không thua gì nước người: cần cù, siêng năng, nhẫn nhục, dũng cảm, tháo vát, bất khuất. Bây giờ mấy ông Việt kiều này lại cộng thêm cho người mình một cá tính mới: nhân từ và bác ái, thương bồ nhí, vợ mới ở Việt Nam. Họ muốn ra tay hiệp sĩ cứu những phụ nữ này ra khỏi cảnh nghèo khó.
Ngày xưa khi còn độc thân mới sang đây tôi mơ tưởng lấy vợ Mỹ vì người Tây Phương nhìn vô cùng xinh đẹp. Thế nhưng mơ là một chuyện, có xẩy đến hay không là chuyện khác: người tôi đen đúa, nói tiếng Anh lõm bõm chả em Mỹ da trắng tóc vàng nào thèm để ý đến nên tôi ngày đêm ở vào trường hợp “Anh ơi nếu mộng không thành thì sao? Mua chai thuốc chuột uống vô rồi đời”. Không được em Mỹ mê, tôi xuống cấp mê em Mễ, em Việt Nam ở Móng Cái, Hải Phòng, Bạc Liêu hay em loại “còn thương rau đắng mọc sau hè” cũng được, thế mà cũng chẳng em nào thèm lấy làm tôi lo sợ són đái ra quần. May là đến năm 26 tuổi thì có một cô này ở Paris sang chơi, hồn nhiên vô tư lự, ăn chay trường từ lúc mới lên ba, gặp tôi ở nhà thờ, thương hại sợ tôi sẽ sống kiếp mồ côi cả đời nên bằng lòng lấy tôi. Cái nghĩa cử cao đẹp đó tôi thề sẽ không bao giờ quên cho đến khi hui nhị tỳ.
Khi sắp sửa làm đám cưới, ông Mục sư nói với chúng tôi là phải qua một lớp giáo lý căn bản hôn nhân -ba hay sáu tháng gì đó, tôi không nhớ rõ- để học về lời Chúa dậy thì mới làm đám cưới trong nhà thờ được. Tôi từ chối không chịu học. Lý do của tôi là tôi đã hứa với vợ sắp cưới của tôi là tôi sẽ lấy nàng, ăn ở và đùm bọc nàng cho đến chết thì lời hứa của tôi với nàng đã quá đủ, không cần bất cứ một ai dậy cho tôi nhớ lời hứa đó, giảng morale tôiphải ăn ở với vợ mình như thế nào cho phải phép. Ai có dậy tôi đến đâu mà chính tôi không giữ lời hứa yêu thương vợ thì sự dậy bảo đó hoàn toàn vô ích. Tôi nhất định không chịu học. Tôi bảo vợ tôi không cần làm lễ ở nhà thờ, chúng tôi ra tòa làm giấy hôn thú. Tính tôi lì lợm nên một khi tôi đã có lập trường khẳng định rồi thì Tề Thiên Đại Thánh hay Trư Bát Giới cũng không thay đổi được quyết định của tôi, huống chi là Đức Giáo Hoàng Phao-Lô Đệ Lục.
Trong đời sống vợ chồng, dù rằng trường hợp mỗi người có thể hơi khác biệt một tí, những ông chồng khác cũng như tôi cần phải nhớ hai điều ngày xưa khi mình mới lấy vợ. Thứ nhất là mình đã may mắn được vợ ghé mắt để ý đến (thay vì nàng có thể lấy Năm xích-lô, Hùngdu đãng, Tư cà-thọt, hay Tâm chém mướn), và thứ hai, chính mình là người hứa sẽ chung sống trọn đời với vợ.
Rất hiển nhiên là những ông chồng bỏ vợ hay gian dối vợ về Việt Nam lấy bồ nhí, trí nhớ họ cũng bị bệnh quên Alzheimer’s như các ca sĩ, MC về Việt Nam. Họ quên ngày xưa vào thuở hàn vi chính họ là người năn nỉ vợ lấy mình, chính họ là người nói sẽ săn sóc vợ cho đến trọn đời.
Trong lẽ đạo làm người, Khổng Tử dậy đàn ông nên theo Tam Cương, Ngũ Thường, và đàn bà thì theo Tam Tòng, Tứ Đức (Tam Cương: Quân, Sư, Phụ. Ngũ Thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,Tín. Tam Tòng: Tại gia tòng phụ, Xuất giá tòng phu, Phu tử tòng tử. Tứ Đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh).
Khi về Việt Nam tìm bồ nhí, các ông chồng đã mất đi bốn cái “Thường” trong Ngũ Thường: Nhân -không nhân từ với vợ mình, Nghĩa -không giữ nghĩa với vợ mình, Lễ -không tôn trọng vợ mình, Tín -không giữ lời hứa với vợ mình. Đã không xấu hổ mất đi bốn trong năm căn bản đạo đức của đạo làm người, họ cũng không xấu hổ không chịu nhìn nhận là đàn ông xồn xồn gian dối vợ như họ thì ở bên Mỹ không ma nào thèm lấy, chẳng người nào có đạo đức trong người còn xem họ là bạn bè. Họ cũng không có liêm sỉ để nhận thức được là họ chẳng có tài cán gì như những người ngày xưa được đi du học: họ, cũng như tôi, chỉ may mắn sang đây nhờ tấm lòng nhân đạo của người Mỹ. Lý do duy nhất con gái ở Việt Nam theo họ là vì đời sống Việt Nam quá nghèo khổ, phụ nữ Việt Nam cũng như bao nhiêu người khác tìm đủ mọi cách, bằng bất cứ giá nào, tìm cho được một cái phao cấp cứu, cho dù cái phao cấp cứu đó có vô lương tâm, vô liêm sỉ đến đâu đi nữa, miễn sao nó có thể kéo họ ra khỏi cái biển mịt mờ, nghèo đói, không tương lai, thẩy họ trên con thuyền tương lai xán lạn trực chỉ hướng về bên Mỹ.
Ở Hoa Kỳ bị mọi người khinh rẻ nhưng trái lại khi các ông về Việt Nam thì vươn vai bẩy trượng, đổi tên Mỹ thành Michael Nguyen, David Tran, Scott Ly, Peter Le. Những ông nổ như tạc đạn này ngoài miệng ba hoa chích choè hãnh diện tôi là người Việt Nam thế nhưng trong lòng xấu hổ sợ bị gán danh cùng với 90 triệu người Việt khác nên phải dùng tên Mỹ dán trong thẻ xách tay, trong thẻ hành lý, trong khi nói chuyện, để không ai mà không biết ông ta là người đến từ đại đế quốc Hoa Kỳ. Ông ta có thể hù những người ở Việt Nam vì họ đâu biết rằng ở bên Mỹ ông ta nói tiếng Anh như… c-t (tòa soạn tự ý đục bỏ vì chữ dùng làm mất vẻ thẩm mỹ của thành phố). Tôi sang Mỹ từ năm 1975, học nốt Trung học ở Mỹ, không phải gốc gác tía em hừng đông đi cày bừa, thế mà 36 năm sau nói tiếng Anh chết lên chết xuống, về Việt Nam nói chuyện cẩn thận không dám thốt ra một chữ tiếng Anh vì mình xấu hổ phát âm sai, và vì không muốn người ở Việt Nam nghĩ rằng mình thuộc loại ta đây lòe thiên hạ. Ấy thế mà những người này về Việt Nam sổ tiếng Anh nhiều còn hơn xe gắn máy ở SàiGòn, nhanh còn hơn đi chợ mua sắm bị người khác gạt. Lý do dễ hiểu là họ có thể hù người Việt Nam. Người Việt không biết tiếng Anh nên không thể nào biết mấy ông chồng này là anh lé giữa đám mù. Xin lỗi, tôi nói sai, lé là còn giỏi, phải nói là anh đui giữa đám mù mới phải.
Đối với những ông chồng tin Chúa, tôi muốn dùng Kinh Thánh thảo luận về vấn đề này. Tôi xin lỗi không phải vì méo mó nghề nghiệp mà trưng dẫn Kinh Thánh. Tôi cũng muốn trưng dẫn kinh Phật lắm, thế nhưng cho dù đã tra khảo và nghiên cứu cách mấy, tôi không tìm được bất cứ kinh Phật nào Đức Phật đề cập đặc biệt về vấn đề ly dị. Kinh Thánh thì khác, hầu như bất cứ những việc gì liên quan đến cách cư xử trong xã hội Chúa đều có luật pháp tỉ mỉ nói rõ vấn đề mình muốn tìm.
Trong Kinh Thánh Chúa dậy thế nào về ly dị? Tôi xin loan tin đáng buồn kèm theo 21 phát súng đại bác bắn mặc niệm là Chúa Jesus hoàn toàn không cho phép ly dị. Trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời còn cho ly dị (“Nếu ông nào lấy một người đàn bà làm vợ, không hài lòng vì thấy nàng có một điều gì xấu hổ nào đó, ông ta có thể viết một chứng chỉ ly dị đưa cho vợ và yêu cầu nàng rời khỏi nhà mình.” Phục Truyền Luật Lệ Ký, Deuteronomy 24:1) thế nhưng khi Chúa Jesus đến trong Tân Ước, thì không ai còn cơ hội ly dị nữa: (“Ngày xưa ai muốn ly dị vợ mình thì chỉ cần đưa cho vợ chứng chỉ ly dị, nhưng ta nói cho các ngươi biết rằng nếu ông chồng nào ly dị vợ mình (ngoại trừ lý do nàng phạm tội ngoại tình), thì làm cho nàng là nạn nhân của tội ngoại tình*, và người đàn ông nào khác lấy người vợ bị ly dị này sẽ phạm tội ngoại tình.” Ma-Thi-Ơ, Matthew 5:31-32). Jesus dậy một khi hai người lấy nhau thì là… tàn một đời hoa, un point final, ò e con ma đánh đu, không ai được ly dị ai nữa (“Ta phán cho các ngươi, những người đã lập gia đình rồi, là vợ không được ly thân chồng (nếu nàng ly thân thì sẽ ở giá cho đến chết hoặc tái giá với chồng mình), và chồng không được ly dị vợ.” 1 Cô-Rinh-Tô, 1 Corinthians 7:10-11)
Nhà tiên tri Malachi trong sách Ma-La-Chi, Malachi 2:10-14 đưa lý do tại sao vợ chồng phải ăn ở với nhau cho đến chết: Loài người được một Cha đời đời sáng tạo, không phải hai, và Chúa là người chứng kiến cuộc hôn nhân và lời thề thốt chung sống trọn đời của hai vợ chồng. Do đó không ai có thể trở mặt với Chúa (“Chúng ta chẳng phải chỉ có một Cha thôi sao? Chẳng phải chỉ có một Đức Chúa Trời tạo ra chúng ta sao? Vậy thì tại sao chúng ta bất trung với nhau để phạm giao ước với tổ phụ của mình?” Malachi 2:10. “Đức Chúa Trời đã làm chứng (cho sự hôn nhân) giữa vợ chồng ngươi, thế mà ngươi (ngoại tình) không trung thành với vợ ngươi, là người bạn đời, và là người vợ ràng buộc trong giao ước hôn nhân.” Malachi: 2:14).
Đức Chúa Trời ghét ly dị đến nỗi Ngài so sánh hành động ly dị vợ của người chồng là một hành động bạo lực (violent act): “Đức Chúa Trời của dân Do Thái phán rằng: Ta ghét người nào bỏ vợ của mình. Ta ghét người nào có hành động bạo hành như thế đối với vợ mà nghĩ đó là chuyện tầm thường không đáng kể như mặc một chiếc áo.” (Malachi 2:16)
Do đó, luật lệ trong Tân Ước vẫn áp dụng cho đến bây giờ: dưới mắt Chúa, hôn nhân là chuyện vĩnh viễn. Nếu chẳng may một ông chồng lấy nhằm một bà chằng lửa hay một bà vợ lấy nhằm một ông chồng bê tha không chịu đi làm, tối ngày nằm nhà chờ sung rụng, chờ tối vợ đi làm về rồi hối thúc vợ nấu cơm nhanh nhanh cho mình ăn thì dù có tức mình đến đâu, không ai được ly dị ai cho đến chết.
Tôi biết mọi người sẽ nhẩy dựng đứng khi đọc đến đây, bực mình khi thấy luật lệ đâu mà kỳ khôi, không thể nào hiểu được; nhất là mấy cô sẽ nghĩ nhỡ mình lấy nhằm một thằng chồng chết tiệt thì chẳng lẽ phải nấu cơm, hầu hạ cho nó ăn trọn đời, không được ly dị nó sao? Tôi xin trả lời là trí óc con người chúng ta nông cạn, không thể nào tìm hiểu hết được những huyền bí của tạo hóa, chẳng hạn như tại sao phụ nữ mê shopping, tại sao đàn bà nào cũng có hai mươi đôi giầy trở lên mang làm sao cho hết, tại sao đàn ông lười biếng tắm… Chúa là Đấng sáng tạo loài người thì chắc chắn Chúa có câu trả lời, chúng ta chỉ không biết nó là gì đấy thôi, xin tất cả mọi người hãy bớt cơn nóng giận, uống vài ly nước mía cho hạ hỏa. Không, uống nước mía ở Mỹ sẽ tức trào máu họng không thể nào hạ hỏa được vì ở Việt Nam ly nước mía chỉ có 20 cents, trong khi ở Mỹ đến 3 dollars! Thay vì thế, hãy uống một ly nước chanh đường để hạ hỏa thì rẻ hơn.
Những ông chồng nào là Cơ-Đốc-nhân, theo Thiên Chúa Giáo cho dù là bất cứ đạo phái nào, Công Giáo hay Tin Lành đủ loại giáo phái khác nhau (Baptist -Hội Thánh Tin Lành Báp-Tít, Methodist -Hội Thánh Tin Lành Giám Lý, Seventh-Day Adventist -Hội Thánh Cơ Đốc Phúc Lâm, Assemblies of God -Hội Thánh Phúc Âm Ngũ Tuần, The Christian and Missionary Alliance CMA -Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp, Pentecostal -Hội Thánh Tin Lành Ngũ Tuần) mà về Việt Nam tìm gái, nếu chỉ gian dối vợ không cho vợ biết thì đã phạm tội ngoại tình (Điều răn thứ 10: “Ngươi chớ tham nhà lân cận của ngươi, ngươi chớ mơ tưởng đến vợ người láng giềng.” (Xuất Ê-Díp-Tô Ký, Exodus 20:2-17), hay“Hễ ai nhìn một người đàn bà với lòng thèm muốn thì đã phạm tội tà dâm trong lòng của họ rồi.” (Ma-Thi-Ơ, Matthew 5:28). Nếu ly dị vợ hay sẽ ly dị vợ bên Mỹ để lấy con gái ở Việt Nam thì cũng đã phạm tội ngoại tình như tôi đã trưng dẫn Kinh Thánh ở trên.
Như thế, trốn vợ về Việt Nam đi chơi với gái, hay về Việt Nam lấy em xinh đẹp, ly dị vợ bên Mỹ thì trong cả hai trường hợp, trước mặt Chúa người chồng đều có tội. Khi chết ông chồng sẽ đi xe lửa tốc hành xuống địa ngục, ngồi ở hạng ghế cứng chứ không được hạng đắt hơn, ghế mềm. Tầu hỏa sẽ không dừng ở trạm Bà Rịa hay Ninh Hòa để xin được ân xá hay khoan hồng. Khi trở lại Mỹ, những ông chồng này không còn lý do đi nhà thờ làm gì nữa.Trong sổ địa ngục đã có tên ông mạ vàng 24 carat, chỉ chờ khi ông ngủm củ tỏi là cho ông đi máy bay Hạng Nhất đến địa ngục cho nhanh nên có đi nhà thờ cầu khẩn lạy lục đến đâu cũng vô ích.
Cho dù tin hay không tin vào bất cứ một đạo nào, những ông chồng ở hải ngoại về Việt Nam tìm khoái lạc chẳng khác gì những ca sĩ, MC về Việt Nam hát kiếm sống: họ không thấy xấu hổ trong hành động họ làm. Ngày xưa họ bỏ chạy vì một chính thể, bây giờ họ lại vác mặt quay về cùng chính thể đó. Nếu tôi là chính thể hiện tại, tôi sẽ không cho phép những người này trở lại Việt Nam vì họ bất trung, phản chính nghĩa. Ngày xưa họ sợ tôi nên bỏ chạy, ích kỷ chỉ lo bảo toàn cho sinh mạng của họ, không cần biết người khác sống chết ra sao. Bây giờ họ trở lại đất của tôi nhưng mang danh công dân của một nước khác, với mục đích duy nhất là chỉ để làm tiền, chỉ để kiếm gái, ích kỷ mang lợi cho riêng họ, và lại một lần nữa không cần biết đời sống người khác nghèo đói như thế nào, không đóng góp gì cho chính thể của tôi, cũng như không đóng góp gì cho chính thể trước.
Chính vì họ bất trung và ích kỷ trong lập trường sống mà trong đời sống hôn nhân, họ cũng bất trung với vợ ở bên Mỹ để mang cái lợi, ích kỷ riêng cho mình là tìm bồ nhí hay vợ mới ở Việt Nam. Thiện hay Ác là ở trong cái tâm, cái bản ngã của mình. Nếu một người đã có cái bản ngã Ác thì nó sẽ không bao giờ thay đổi: một khi họ khám phá ra bồ nhí, vợ mới cưới Việt Nam không còn mang lợi đến cho họ, họ sẽ bỏ như họ bỏ vợ bây giờ để tìm những người mới.
Mặc dù chúng ta ai cũng biết những ông chồng ở hải ngoại trốn vợ về Việt Nam chơi gái, hay ly dị vợ để lấy con gái trẻ hơn ở Việt Nam là vô liêm sỉ, chết thế nào cũng xuống địa ngục, tôi nghĩ chúng ta nên khoan hồng, cho ông ta chọn lựa cực hình khi xuống âm phủ:
Khi ông ta xuống gặp Diêm Vương, Diêm Vương cho ông ta biết là có ba cửa ngục với ba hình thức tra tấn khác nhau, ông ta được quyền chọn một. Diêm Vương dẫn ông đến cửa ngục thứ nhất. Ở nơi đây, tù nhân bị cởi hết quần áo, tay bị trói xích sắt treo toòng teng hổng chân, phía trước phía sau có người cầm roi mây quất nát lưng nát mặt, máu ra đầm đìa. Ông ta sợ quá, nói với Diêm Vương thôi, cho xem cửa ngục thứ hai.
Ở cửa ngục thứ hai, chưa đến mà ông đã nghe tiếng thét kêu la thảm thiết từ trong vọng ra.Khi đến nơi thì ông ta thấy tù nhân bị gác-dan dùng kìm kéo hết móng tay móng chân sứt hết cả ra, máu trôi lênh láng. Sau đó tay chân họ bị dây xích kéo căng ra bốn bên trên một lò lửa cháy bừng bừng cháy lưng, nám thịt. Ông ta sợ quá, xin cho xem cửa ngục thứ ba.
Đến cửa ngục thứ ba thì ông ta ngửi thấy mùi hôi thối nồng nặc, thế nhưng có tiếng cười, tiếng hát. Đến nơi thì ông thấy một phòng đầy phân người, trong đó tù nhân đứng trong phân cao ngập đến cổ. Tuy hôi thối kinh khủng, ông thấy mọi người cười hát và nói chuyện vui vẻ. Nghĩ rằng tuy bị hôi thối nhưng thân thể không bị đau vì hành hạ tra tấn, ông chọn cửa ngục thứ ba để chịu tội. Diêm Vương bèn cho ông ta vào ngục, đóng cửa lại. Bước chân vào phòng, tuy là phân ngập đến cổ hôi thối, ông ta tự nhủ dần rồi sẽ quen, mừng là thân thể không bị hành hạ đau đớn. Định hỏi người bên cạnh ở trong ngục đã lâu chưa thì ông ta nghe tiếng chuông reng thật lớn, rồi người chủ ngục ở đó quát tháo với tất cả mọi người:
“Hết giờ nghỉ giải lao rồi! Xin mời tất cả ngồi xuống!”
Nguyễn Tài Ngọc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét