Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2014

Biển ngọt

Biển ngọt

“Bóng xoài ba tôi mắc võng 
Sáng chiều hai hướng chờ mong 
Con ở thị thành nắng bỏng 
Bóng xoài mát đến con không?
Vỡ òa bước chân trẻ dại 
Tôi quỳ khóc với rơm khô 
Cổ tích từ xưa kể lại: 
Còn đây một dấu chân cò”…

1. Tôi không biết câu thơ của ai, nhưng lời thơ đang chạm vào lòng tôi buổi sáng mai hôm nay. Như tiếng chim kêu qua một lòng trống vắng.


Năm sáu tuổi tôi đã biết mồ côi và dựa lưng vào nỗi buồn mất cha để nhìn ra cuộc đời trước mặt. Sáu tuổi tôi đã biết mùi vị cô đơn và thèm thuồng một hơi ấm.
Ðầu thập niên năm mươi, người Pháp dùng Vũng Tàu làm nơi nghỉ mát cuối tuần- Có một nhà ăn giống như một Câu lạc bộ nằm bên cạnh sân vận động Lam Sơn, dưới chân Núi Lớn, góc đường Thành Thái và Thủ Khoa Huân sau này. Nơi mỗi đêm Ba tôi làm bồi bàn và phụ bếp.

Một đêm, những “người phía bên kia” về tấn công Câu Lạc Bộ. Họ tàn sát tận tình những “kẻ thù da trắng” và chiếu cố luôn những thường dân vô tội da vàng. Họ tàn sát thẳng tay những ai có mặt trên con đường họ đi qua với chủ trương thà giết lầm hơn bỏ sót.

Những người chủ động cuộc thảm sát phần đông có gốc gác từ xã Long Ðiền, Bà Rịa. Sau này lớn lên, có một lần Mẹ tôi nói cho tôi biết đêm đó có vài người là người quen của Ba tôi. Người ta đưa Mẹ tôi đi nhận diện xác chồng. Giữa mấy chị em thao thức trong đêm xảy ra biến cố chỉ có mình tôi được bà dẫn theo- một phần vì tôi luôn kề cận bà- một phần vì tôi là con trai lớn. Chính vì vậy mà sau này trong tất cả chị em chỉ có tôi là người cảm nhận được rõ ràng những đau khổ từ chiến tranh. Trong tâm hồn thơ dại của tôi ngày đó, sự mất mát và chia tay bổng trở nên lạ lùng khó hiểu. Giống như một tờ giấy trắng chưa từng chia ô, chưa từng viết chữ đã bị lấm lem vết mực.

Ðêm đen tối hãi hùng, nhưng Mẹ tôi không còn biết sợ. Bà len lỏi giữa những người bị thương đang nằm, chờ xe cứu thương tới, để tìm kiếm Ba tôi, lòng hi vọng có ông trong số những người sống sót. Nhưng không một ai thấy ông. Vì chỗ của ông chìm khuất trong một góc cùng với những người chết. Tất cả đều được phủ kín sơ sài bằng những tấm khăn trải bàn ăn. Và khi giở đúng một tấm khăn để kịp nhìn thấy khuôn mặt quen thuộc của Ba tôi, bà sững sờ hồi lâu trước khi òa khóc. Tôi cũng khóc theo.

Trời gần sáng, Ông bà ngoại tôi và cậu Sáu tôi hay tin từ Long Ðiền quá giang xe đò chạy qua để lo việc tẫn liệm. Vì mẹ con tôi đều không biết làm gì ngoại trừ ngồi khóc. Tôi cố nén tiếng khóc của mình (vì thật tình lúc đó tôi cảm thấy xấu hổ nếu để ai thấy tôi mềm lòng và biễu lộ tình cảm giống như con gái). Ðến khi không còn nén được, tôi tìm một nơi để tự dỗ dành mình. Dưới mái hiên sau hè, đêm tối mơ màng những vì sao trên đầu và vành khăn tang vội vàng không che hết cơn mưa phùn tháng sáu. Tôi đứng khóc một mình và nhớ Ba tôi.

Người đàn ông vừa ba mươi ba tuổi không có kịp một ước mơ ngày còn sống. Nếu có chắc cũng còm cõi như thân hình ông. Tôi nhớ ông, nhớ những buổi chiều, ông chở tôi ngồi trên xe đạp chạy một vòng bãi biển.

Ngày đó chỉ có một kiểu xe đạp đàn ông có một thanh sắt tròn nối liền từ cổ xe đến yên xe. Chưa có những chiếc xe đạp nữ thuôn thả mượt mà có chỗ ngồi phía sau. Chưa có xe đạp Peugeot và cũng chưa từng có xe đạp Phượng Hoàng. Tôi được đặt ngồi trên thanh sắt “đòn vông” đó, hai chân xuôi về một bên. Ðể tạo thêm cho tôi sự thoải mái, ông chêm thêm một chiếc gối bên dưới. Và từ thân ngang chiếc đòn vông xe, hai bàn tay tôi nắm chặt ghi đông. Dưới vạt áo ngực mở tung của ba và dưới những hơi thở vội vàng, ngất ngây mùi nắng gió, tôi nhìn xuống những vòng quay êm đềm của bánh xe, trái tim tôi lấp lánh những nan hoa hạnh phúc đầu đời.

Ðó là những gì tôi còn nhớ về ông, trong ký ức mờ nhạt của đứa bé sáu tuổi. Không phải ai lớn lên cũng đều có cùng chung một nỗi bất hạnh. Nhưng tôi biết mọi kích thước đau khổ đều giống nhau.

Ðứa bé ngồi khóc trước rơm khô ở bài thơ trên, hay tôi ngồi trên xe đạp của Ba tôi lúc bấy giờ, đều an lòng đi qua những hiểm nguy đến tận cùng trời cuối đất. Mỗi người con đều mang trong tâm hồn niên thiếu của mình những an bình của biển gió mênh mông buổi chiều hay mặt trời buổi sáng. Tiếng sóng đập hồn nhiên vào bờ đá bên đường, như tuổi thơ hồn nhiên của tôi lớn lên mỗi ngày. Gió biển ngược đường xe đi, thổi mát vầng trán và tóc tai Ba, ngào ngạt từng góc lòng mộng mị.

Đôi lần tôi được ngồi sau lưng ông, trên một chiếc “bọt ba ga” bằng nhôm sơ sài. Nhưng rất ít khi- vì ba sợ tôi mãi mê nhìn cảnh vật mà vô tình bỏ chân và bánh xe đang chạy. Đàng sau chiếc lưng ốm o kia, những oan khiên và bất trắc dường như không hề chạm đến tôi. Chỉ còn lại hạnh phúc trong trẻo như một tiếng sông chưa từng ngậm phù sa trong lòng.

Nói về công lao Cha Mẹ sẽ không bao giờ nói đủ. Cho dù chúng ta thành danh để viết trăm pho nghìn quyển- Cho dù mọi dòng mực sẽ khô cạn trong những nghiên đời. Không có bệ phóng nào chịu đựng được hết khổ đau của họ để tung tải lên cuộc đời mọi vinh danh. Và chúng ta sẽ học biết từ đó sự hi sinh không ồn ào, lặng yên nhưng lấp lánh những tinh cầu.

2. 
Năm tôi giải ngũ về, nhìn lại biển của ngày nào. Cơn sóng vẫn vô tư vỗ vào ghềnh đá và cuối cùng thì mất tăm trên bờ cát lạnh lùng. Chưa phải mùa thu để những chiếc lá bàng rơi trên lề đường dành cho người đi bộ. Vài cánh chim hải âu đang đùa nghịch bên những đám rong trôi trác lên bờ. Con đường trải nhựa mà ba tôi chở tôi ngày xưa đã có triệu chứng suy sụp vì thời gian. Chỉ có gió là vẫn mát rượi. Vẫn phơi phóng một niềm tự hào của biển. Những bờ đường mùa hè không có lửa nhưng có tiếng ve kêu vang những điệp khúc học trò. Rất ít khi có xe đạp đi qua vì những chiếc xe hai bánh “thô sơ” dần dà không còn trong thời đại mới. Thảng hoặc nếu có chỉ để trang trí trên một vài trang sách tập học trò. Lạ lùng làm sao, có một người đàn ông úp mặt vào tay dấu nỗi đau đầm đìa.

Tôi không cần nhớ về một góc thời gian chật hẹp nhưng đầy những gió sớm. Vì tất cả tự nó sẽ ùa đến. Mùi hoa sứ ràn rụa bên khứu giác và hương thơm bồng bế những quá khứ- như cánh tay của ba tôi ngày nào nâng tôi lên giỏ ngồi của xe. Những vòng xe xoay tròn chóng mặt.

Khi bạn không còn một người cha hay người mẹ trong đời, bạn sẽ thấy khổ sở để được trưởng thành. Những nhạc sĩ thường viết dễ dàng về Mẹ, ít khi nói đến cha. Y Vân viết “Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình”… “là dòng suối thần tiên…” của Phạm Thế Mỹ. Còn Cha thì sao? Cha cũng lớn lao và ngọt ngào trên từng cột mốc tháng năm. Những bước chân của Cha dù âm thầm nhưng khua động trên những trang đời của con. Trên những giấc mơ bồng bềnh, mộng mị…

Tôi qua hết Tiểu Học. Qua hết Trung Học và đi xuống cuộc đời không có Cha bên cạnh. Ðã bao nhiêu người con trong cuộc đời nầy không có Cha đã tự gượng dậy đứng trên những chông chênh để qua mọi dâu bể ngậm ngùi?

Khi tôi hiểu tường tận về cuộc đời với mọi ngọn ngành khúc nôi thì tất cả đều rất muộn. Bao cành nhánh mùa đông nghe hốc hác không biết đến việc đâm chồi? Những hình ảnh giống như tôi ngày xưa ở Việt Nam (thời tôi còn trong nước) hình như chưa từng biết công cha nghĩa mẹ như thế nào. Chưa từng vở lòng để nghe đau những khổ cực. Những em bé xuống đường hôm qua mang trên vai “khăn quàng đỏ” lòng hân hoan chỉ biết tôn sùng lãnh tụ. Người đàn ông lạ lùng, râu ria mang nhân dáng đầy nghi hoặc đang có chỗ đứng chễm chệ trong lòng của các em.

3.
Mẹ tôi kể lại rằng ba tôi không biết chữ. Thời niên thiếu ba tôi sống trên ruộng đồng bên nội. Ông không có cơ hội đến trường, không có dịp làm quen với sách vở. Cho đến ngày ông gặp Mẹ tôi, một cô gái cũng quê mùa nhưng học hành hơn ông chút đỉnh. Nên khi nghe tin tôi được vào học lớp năm (lớp 1 bây giờ) ba tôi mừng vô cùng. Buổi chiều trước khi đi làm ông chở tôi vòng quanh biển, vừa khoe xe đạp, vừa trải lòng ra đón nhận thành tích của con. Nhiều khi xe đang chạy, bị xẹp bánh, ông đặt tôi ngồi bên đường, hì hục tự mình vá xe. Ngày đó không có những chỗ vá xe đạp như bây giờ. Dụng cụ sửa xe được ông treo thường xuyên sau yên xe. Những lúc đó tôi nhìn mông lung ra biển, không biết tại sao ba tôi biết nhiều việc như vậy. Dưới mắt tôi, ông là một người đàn ông kỳ diệu không thể thay thế.

Hơi thở của mùa hè thổi qua tuổi thơ tôi. Những tiếng chim cứ hót mãi vào tim. Cùng những cánh bướm luôn bay từng đôi trên những lá cỏ màu ngọc bích. Những viên sỏi rộn ràng trân mình nghe tháng năm chuyển mình. Những lúc như vậy, má tôi nôn nóng đợi chờ cha con tôi bên mâm cơm ở nhà.

Tôi không mang theo trong ký ức nhiều về ba tôi. Thật tình mà nói tôi chỉ sống chung với ông chưa đầy 6 năm. Thời gian không dài và đủ để trong trí nhớ tôi sâu đậm những đường nét rõ ràng về ông. Một lần ông dắt tôi vào xem đá banh tại sân vận động gần nhà. Ba tôi có nhiều đam mê. Mỗi thứ một chút. Nên không có đam mê nào tròn trịa. Gần cuối trận, có một đường banh đi lạc ra ngoài sân, lao vào hướng chúng tôi ngồi. Ba cuống quít đưa người ra trước dùng ngực đón đường banh đi tới. Tôi bị một phen sợ hãi. Về nhà nghe tôi nói lại, mẹ tôi cự nự ba và cấm không được mang tôi đi xem đá banh. Nhưng đó là lần cuối vì ông sẽ không còn một cơ hội để cùng đi với tôi.

Ông dừng lại đâu đó mà không đi bên cạnh mẹ tôi hết cuộc đời. Ông chẳng kịp thấy đứa con trai qua hết tuổi học trò mang trên vai những mùa trăng rực rỡ. Có những chân trời lạ xa mà ba không đi đến nên suốt đời ông chiêm bao. Tôi từng nhủ với lòng khi lớn khôn, tôi sẽ làm liền lạc giấc mơ của ông bằng khả năng và kiến thức của mình. Như hai dòng sông nhìn nhau mà không thấy một chân trời, tôi sẽ vịn tình yêu vạm vỡ của ông dành cho chúng tôi như vịn một nhịp cầu đi tới. Tôi đi về tương lai và trang bị trong lòng cùng những nắng mưa quá khứ.

Mấy chục năm rồi, tôi nghĩ Ba tôi vẫn là một vì sao nhìn xuống lòng biển xưa. Đứa con trai già nua mang trong lòng những thơ ấu trầy trụa. Giống như một cánh buồm không về kịp vì chưa chất đủ ước mơ để làm no một lòng thuyền.

4.
Tháng sáu có tin bão thổi về từ Ðại Tây Dương, đang dự tính đi ngang vùng vịnh Mexico. Mùa hè ngổn ngang những góc đời lưu xứ. Mùa hè cũng dài những cơn mưa. Trên phố quen chiều nay thầm nhớ một hồn phượng rưng rưng. Từ nhiều tuần lễ trôi qua tôi không có cơ hội để nhìn những chuyến buýt tạt ngang nhà. Vì đang là mùa bãi trường.

Không khí nóng bức làm người ta phải tìm một chút mát mẻ trong các siêu thị, trong các quán cà phê. Những cô gái hở vai đi ra đi vào. Vòng eo thon gợi lên những ham muốn trần tục.
Có những nghịch lý nở hoa trái mùa như cây hồng đào bên đường. Nắng chói chang mỗi ngày mà vẫn ra hoa.

Lúc tôi rời VN, con gái tôi vừa lên 5 tuổi. Khi mẹ nó mất, nó chưa kịp trưởng thành. Tôi dành hết tình yêu cho nó và hứa với lòng sẽ bảo bọc cho đến khi nó không cần đến tôi.
Bốn năm trước nó yêu một thanh niên Mễ làm chung hãng và quyết định kết hôn không đợi sự ưng thuận của tôi. Tôi làm một nhạc phụ bất đắc dĩ với một chàng rễ khác chủng tộc, khác ngôn ngữ, màu da.

Hai vợ chồng nó sống chung với tôi trong nhà vì chúng không có khả năng tài chánh để sống riêng. Ngoài ba người, trong nhà tôi có thêm hai con chó. Mỗi ngày tôi đi làm về, hai con chó mừng rỡ quấn quít, coi như bù đắp phần nào nỗi bất hạnh không đợi chờ mà vẫn có.

Mùa Giáng Sinh cách đây ba năm, thêm một đứa bé trai có mặt để bổ sung thêm thành viên trong gia đình. Tôi làm ông ngoại bất đắc dĩ. Đứa bé lớn dần lên, biết lật, biết ngồi và hôm nay biết đi chập chững.

Vài người phụ nữ ghé ngang qua đời. Họ ngập ngừng khi nhìn thấy hoàn cảnh gia đình tôi. Hạnh phúc chưa thấy đâu nhưng rõ ràng những giông bão. Cuộc sống vô tình như mơ, như thực chồng lên nhau và cuối mỗi giấc mơ đêm là những giọt mồ hôi lướt thướt điều huyễn hoặc.

Như một câu chuyện dài lầm lỡ, con gái tôi vướng mắc từ sai lầm này đến sai lầm khác. Tháng vừa rồi nó báo tin tôi biết nó và người chồng Mễ sắp ra tòa ly dị. Tôi hỏi nó đã nghĩ kỹ chưa? Nó trả lời “Đã”.

Tôi không biết chúng nó đã bàn luận với nhau như thế nào. Nhưng tôi biết đã có những buổi tối chúng cãi nhau trong phòng riêng. Trong khi đứa bé ngủ một mình trong phòng khác.

Từng đêm qua lặng thinh trong thành phố oi nồng mùa hè. Tiếng trái khô rơi hay tiếng một con chim nào ngủ quên bị rớt ngoài sân. Tình yêu bây giờ sao không giống như thời tôi khôn lớn. Chúng yêu nhau dễ dàng và chia tay cũng dễ dàng giống như thay đổi một chiếc áo. Tuổi trẻ bây giờ không mắc nợ quá khứ nên quay lưng lại dễ dàng với quá khứ.

Tôi không muốn tham dự vào chuyện gia đình của hai vợ chồng nó. Chung cuộc nào xảy ra, cũng đều do lỗi của hai người. Tại sao chúng không thể ngồi xuống để hóa giải một vấn đề chưa phải là nan đề? Tôi chỉ buồn cho đứa cháu ngoại sớm rời xa một trong hai người thân trong cái nghĩa bình thường nhất. Nó chưa đủ trí khôn để biết buồn. Nhưng năm mười năm sau thì sao?

Chương trình chia tay cũng được con gái tôi đưa ra. Trong thời gian chờ ngày ra tòa, chồng nó phải tìm một chỗ ở khác, và mỗi tháng có thể phải cấp dưỡng cho đứa nhỏ vì hắn không đủ hoàn cảnh và thời gian chăm sóc. Một trong hai con chó sẽ được hắn đem theo. (Hai con chó một đực một cái- Con chó đực là anh, vì sinh ra trước- có tên Oso- Con chó cái là em, tên Roxie).

Mai mốt, căn nhà sẽ vắng đi hai thành viên. Con gái tôi với bản tính hời hợt cố hữu, chắc sẽ dần dà thích ứng với một hoàn cảnh của một “single mom”. Vì bên cạnh nó còn có đứa con trai và tôi. Chỉ không biết người đàn ông không cùng suy nghĩ và không cùng tập quán kia sẽ sống như thế nào khi mất đi một chỗ dựa to lớn- vừa tinh thần vừa vật chất. Những ngõ quen xưa mỗi chiều đi làm về có còn gợi trong lòng hắn những thổn thức? Thành phố sẽ lớn thêm giống như đứa con sẽ lớn thêm mỗi ngày và cuộc đời sẽ mênh mông hay chật hẹp ra sao?

Riêng tôi, kinh nghiệm về sự mất mát trở thành nỗi ám ảnh. Những cuộc chia tay nơi ngả ba đường, hay lạc mất nhau giữa lúc đang mặn nồng luôn làm mũi lòng người trong cuộc. Cuộc đời nhiệm mầu như quá khứ. Sự vĩnh biệt hay tương phùng đều làm xanh môi miệng của nhau và để lại trong hồn nhau vết răng tê điếng.

Đêm qua, có tiếng rấm rức bên ngoài cửa phòng tôi. Tôi thức giấc và hỏi thăm con gái tôi. Con tôi nói rằng đó là tiếng khóc của con Roxie. Nó linh cảm sự chia tay sắp tới với Oso, anh nó.
Hãy nghe nỗi thinh lặng đáng sợ tự đáy lòng. Tôi buồn rầu nhìn quanh căn phòng ngập tràn bóng tối. Đêm sẽ trằn trọc vì kỷ niệm trở mình.

Từng cơn gió cuốn hút mùi muối mặn bay qua tuổi thơ buồn. Chúng kể về tháng năm góa bụa của mẹ tôi và sự ra đi của ba tôi. Chúng cũng kể về sự yếu đuối và về sự cứng lòng, như một tiếng chim rót hoài một quá khứ. Chính vì vậy, mà tôi cảm nhận được giá trị của sự mất mát. Có sự mất mát nào không đau và không mặn mùi vị nước mắt? Nhưng với biển của tôi, muôn đời vẫn ngọt ngào…

Pham Ngu Yen

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét