Thứ Hai, 8 tháng 7, 2013

(4) Ảnh hưởng của vay nợ nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế

Bài viết của tôi năm 2003:
ẢNH HƯỞNG CỦA VAY NỢ NƯỚC NGOÀI TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ - LÝ THUYẾT, KINH NGHIỆM THẾ GIỚI VÀ THỰC TIỄN Ở NƯỚC TA 
CHƯƠNG II
MỘT SỐ PHÂN TÍCH BƯỚC ĐẦU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA VAY NỢ NƯỚC NGOÀI TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ KHÁC
MỤC I - TÌNH HÌNH VAY NỢ NƯỚC NGOÀI Ở NƯỚC TA

Cũng như mọi quốc gia đang phát triển khác, vốn đầu tư có vai trò quyết định đối với tăng trưởng và phát triển dài hạn của nền kinh tế Việt Nam. Đặc biệt, trong những thập kỷ gần đây và trong thời gian tới, nền kinh tế Việt Nam đã và sẽ phải tiếp tục duy trì nhịp độ tăng trưởng khá cao và ổn định, do đó khối lượng vốn huy động hàng năm cần rất lớn, nhất là vốn đầu tư phát triển các kết cấu hạ tầng thiết yếu cho sự phát triển.
Trong bối cảnh là một nước kém phát triển và đang chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, khả năng tích luỹ từ nội bộ của nền kinh tế nước ta còn kém; nếu tính theo số tuyệt đối thì càng kém. Do đó, bên cạnh huy động tối đa mọi nguồn vốn trong nước, coi đó là những nguồn vốn đóng vai trò quyết định, chúng ta đã và sẽ tiếp tục tăng cường huy động các nguồn vốn từ nước ngoài để bổ sung cho nguồn vốn trong nước.
Trong mục này, chúng ta sẽ xem xét tình hình huy động vốn nước ngoài ở nước ta trong những thập kỷ gần đây.

          I- CHÍNH SÁCH HUY ĐỘNG VÀ QUẢN LÝ CÁC NGUỒN VỐN NƯỚC NGOÀI Ở NƯỚC TA
          Cũng như các nước đang phát triển khác, trong những năm qua, các nguồn vốn đầu tư nước ngoài đưa vào nước ta gồm ba loại: Đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI), viện trợ phát triển chính thức (ODA) và các loại vốn gián tiếp (IFI).
1) Đầu tư nước ngoài trực tiếp:
Vốn FDI có vai trò quan trọng nhất trong các loại vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta vì nguồn vốn này không những chiếm tỷ trọng cao nhất mà còn mang kèm theo chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý, kinh nghiệm maketing và mạng lưới phân phối toàn cầu... Hơn nữa, nguồn vốn này có tính ổn định cao vì người nước ngoài đã đem tiền vào đầu tư thì rất khó chuyển vốn ra. Mặt khác, nước chủ nhà không phải trả nợ (trừ khi đối tác nước chủ nhà trong liên doanh với nhà đầu tư nước ngoài tham gia vay nước ngoài với nhà đầu tư nước ngoài) trong khi đối với các nguồn vốn khác (trừ phần viện trợ không hoàn lại) đều có thể dẫn đến nợ nước ngoài và chịu những ràng buộc bất lợi.
Có thể nói, hệ thống các cơ chế chính sách huy động vốn nước ngoài ở nước ta đã được hình thành từ rất sớm; ngay từ năm 1977 khi Chính phủ ban hành Nghị định 115/CP ngày 19/4/1977 về Điều lệ đối với đầu tư nước ngoài, trong đó quy định việc đưa vào sử dụng ở Việt Nam những tài sản và vốn nhằm xây dựng những cơ sở mới hoặc đổi mới trang thiết bị, mở rộng hoặc nâng cấp các cơ sở hiện có. Tuy nhiên, do đặc điểm kinh tế xã hội thời kỳ đó, điều lệ này chưa được sự hưởng ứng của các nhà đầu tư nước ngoài.
          (1) Luật đầu tư nước ngoài năm tháng 12/1987:
Xuất phát từ chính sách mở cửa nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 29/12/1987, Quốc hội nước ta đã ban hành Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động đầu tư nước ngoài tai Việt nam. Luật gồm 4 chương, 42 điều, quy định chi tiết các lĩnh vực khuyến khích đầu tư, các hình thức đầu tư, quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân đầu tư nước ngoài, và chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước Việt nam trong công tác quản lý đầu tư nước ngoài.
          Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam được ban hành trong bối cảnh đất nước ta mới bước vào thời kỳ đổi mới sau Đại hội lần thứ VI của Đảng tháng 12 năm 1986, khi đó nền kinh tế về cơ bản vẫn được quản lý theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung và chưa hề có một đạo luật nào về phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được thông qua, do đó luật đầu tư nước ngoài lúc đó có nhiều điểm hạn chế, ví dụ kết hợp chung giữa luật khung và luật chuyên ngành; quy định không chỉ những vấn đề có tính nguyên tắc mà còn cả những vấn đề cụ thể liên quan trực tiếp đến việc tổ chức, hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên nhiều lĩnh vực. Chính vì vậy mà tác dụng của Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 còn hạn chế.
          (2) Luật sửa đổi năm 1990:
          Trước những mâu thuẫn bất cập trong quá trình tổ chức triển khai Luật đầu tư nước ngoài, tháng 6 năm 1990, Quốc hội Việt nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ xung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài, trong đó sửa đổi, bổ sung 15 điều trong số 42 điều của Luật năm 1987. Nội dung chính của những sửa đổi, bổ sung liên quan đến các vấn đề:
          - Xác định rõ vai trò và trách nhiệm của bên Việt nam,
          - Làm rõ các hợp đồng hợp tác kinh doanh,
          - Làm rõ nội dung của các doanh nghiệp liên doanh: khái niệm, phần góp vốn của bên hoặc các bên nước ngoài, Hội đồng quản trị, Ban giám đốc doanh nghiệp, miễn giảm thuế lợi tức...
          - Quy định việc các tổ chức kinh tế tư nhân Việt nam được hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài.
          Những sửa đổi, bổ sung năm 1990 đã làm rõ hơn, cụ thể hơn các khái niệm và nội dung những quan hệ trong các doanh nghiệp liên doanh, và quan trọng hơn, đã xử lý một số vấn đề quan trọng có tính nguyên tắc là cho phép các tổ chức kinh tế tư nhân Việt nam được trực tiếp hợp tác đầu tư với nước ngoài.
(3) Luật sửa đổi năm 1992:
          Tháng 12 năm 1992, Quốc hội Việt nam đã sửa đổi lần thứ hai Luật đầu tư nước ngoài. Những điểm sửa đổi, bổ sung liên quan đến các vấn đề: Bên Việt nam gồm 1 hoặc nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xây dựng các khu chế xuất và hoạt động của các doanh nghiệp trong khu chế xuất, quy chế hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), quy định việc bên Việt nam tham gia góp vốn pháp định bằng nguồn tài nguyên, quy định việc thoả thuận tăng dần tỷ trọng góp vốn của Bên Việt nam trong vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh, về thời hạn hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, về việc mở tài khoản vốn vay tại ngân hàng ở nước ngoài, về nguyên tắc không hồi tố, và về chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài.
          So với Luật sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất, Luật sửa đổi bổ sung năm 1992 đã bổ sung và làm rõ hơn nhiều khái niệm, nội dung có tính cơ bản hơn. Đó là đã mở ra các hình thức thu hút vốn đầu tư và góp vốn đầu tư mới, đã đưa ra thêm các biện pháp mới để bảo vệ lợi ích của bên Việt nam và Nhà nước Việt nam, đồng thời cũng bổ xung các quy định mới, tạo thêm các điều kiện thuận lợi hơn để người đầu tư nước ngoài an tâm, tin tưởng đầu tư dài hạn.
          Cũng trong giai đoạn từ sau 1990, Quốc hội và Uy ban thường vụ quốc hội Việt nam đã ban hành nhiều văn bản Luật và dưới luật khác có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới thu hút và quản lý luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ví dụ như các Luật đất đai, luật thuế xuất nhập khẩu, luật thuế doanh thu, luật thuế tiêu thụ đặc biệt, luật lao động, luật công đoàn, luật dầu khí, luật công ty, luật doanh nghiệp nhà nước, luật doanh nghiệp tư nhân, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật bảo vệ và phát triển rừng, luật phá sản doanh nghiệp, Pháp lệnh ngân hàng, pháp lệnh hải quan, pháp lênh chuyển giao công nghệ, pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, pháp lệnh đo lường, pháp lệnh kế toán thống kê, pháp lệnh về hợp đồng lao động, pháp lệnh về tài nguyên khoáng sản, pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Quy chế khu chế xuất, quy chế hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), quy chế khu công nghiệp... Tiếp sau các luật và pháp lệnh này, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan đã ban hành nhiều nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành, trong đó có nhiều điều liên quan làm rõ thêm, cụ thể hơn các quy định về đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt nam.
          Trong quá trình sửa đổi luật và các quy định liên quan đến đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt nam tư năm 1992, đã dần dần xuất hiện hiện tượng kiểm soát chặt trở lại nguồn vốn này bằng cách đưa ra nhiều quy định khắt khe, ràng buộc phức tạp. Nhiều ví dụ đã được các nhà đầu tư đưa ra trên báo chí. Kết quả là từ năm 1995-1996, đã bắt đầu xuất hiện những tâm lý lo ngại trong giới đầu tư nước ngoài tại Việt nam. Đặc biệt, số dự án ĐTNN được chấp nhận đã giảm rất mạnh vào cuối năm 1996, và càng trở nên nghiêm trọng từ năm 1997 do diễn biến xấu đi rất nhanh của nền kinh tế Việt nam và do ảnh hưởng của khủng hoảng châu á.
(4) Luật sửa đổi năm 1996:
          Trước những diễn biến xấu đi của ĐTNN tại Việt nam, từ cuối năm 1996, Chính phủ Việt nam đã bắt đầu phải tìm cách đối phó. Giai đoạn 1996-1997 là giai đoạn mang đầy kịch tính với việc các cơ quan Việt nam cố gắng tìm cách thay đổi đáng kể những quy định pháp luật sao cho phù hợp hơn với tình hình nhằm lôi kéo các nhà đầu tư trở lại.
          Sự kiện nổi bật là ngày 12/11/1996, Quốc hội Việt nam đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài (mới) tại Việt nam trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 và các luật sửa đổi, bổ sung năm 1990, 1992. Luật mới ra đời đã thay thế và điều chỉnh rất nhiều văn bản dưới luật được các cơ quan quản lý cấp thấp hơn ban hành vào những năm trước, nhằm tạo ra môi trường pháp lý hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với thay đổi luật đầu tư nước ngoài, Quốc hội Việt nam đã lần lượt sửa đổi và thông qua nhiều luật quan trọng như Bộ Luật thương mại, Luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân...
          Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1996 được kết cấu thành 6 chương, với 68 điều, trong đó có một số bổ sung, sửa đổi cơ bản sau:
          1. Quy định cụ thể những lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư nước ngoài; những lĩnh vực và địa bàn không được cấp phép đầu tư nước ngoài. Giao cho Chính phủ cụ thể hoá các nội dung trên;
          2. Quy định lại việc miễn giảm thuế lợi tức theo đó thời gian miễn thuế lợi tức tối đa có thể đến 4-8 năm;
          3. Việc miễn thuế nhập khẩu được áp dụng cho máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ để tạo tài sản cố định hoặc mở rộng quy mô dự án đầu tư và phương tiện vận chuyển nhập khẩu dùng để đưa đón công nhân. Tuy nhiên, luật mới bỏ quy định miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư và xe con;
          4. Việc miễn giảm tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển được áp dụng cho các dự án xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, xây dựng - chuyển giao; dự án đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn theo quy định của Chính phủ.
          5. Quy định đa dạng hoá các phương thức đầu tư như cho phép đầu tư theo phương thức BOT, BT; cho phép bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu hợp tác đầu tư với nước ngoài; luật hoá khu công nghiệp; cho phép doanh nghiệp liên doanh được hợp tác với doanh nghiệp Việt nam để thành lập liên doanh mới;
          6. Cho phép bên nước ngoài góp vốn bằng tiền Việt nam có nguồn gốc đầu tư tại Việt nam;
          7. Cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép mở tài khoản vốn vay tại ngân hàng ở nước ngoài trong trường hợp đặc biệt được Ngân hàng nhà nước Việt nam chấp thuận.
          8. Giảm các vấn đề phải biểu quyết theo nguyên tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị, theo đó chỉ còn 4 đề mục phải thực hiện nguyên tắc này gồm bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc thứ nhất, kế toán trưởng; sửa đổi bổ xung điều lệ doanh nghiệp; duyệt quyết toán thu chi tài chính hàng năm và quyết toán công trình; vay vốn đầu tư. Đối với những vấn đề khác, Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc biểu quyết quá bán số thành viên Hội đồng quản trị có mặt tại cuộc họp.
          9. Quy định cụ thể mức thuế lợi tức trong trường hợp chuyển nhượng vốn có phát sinh lợi nhuận là 25% lợi nhuận thu được; trường hợp chuyển nhượng cho các doanh nghiệp Việt nam thì được giảm hoặc miễn thuế.
          10. Khuyến khích người Việt nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước: được giảm 20% thuế lợi tức so với các dự án cùng loại, trừ trường hợp được hưởng mức thuế lợi tức 10%; được hưởng mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 5% số lợi nhuận chuyển ra nước.
          11. Cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mở chi nhánh ngoài tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.
          12. Quy định rõ hơn thẩm quyền, chức năng và sự phân công, phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư và các bộ, ngành, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
          13. Quy định các biện pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài như giám định, nghiệm thu, quyết toán công trình, đấu thầu, kiểm toán.
          14. Luật đầu tư rút ngắn thời hạn thẩm định, cấp giấy phép xuống còn 60 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ; các bộ, cơ quan ngang bộ, uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm giải quyết các thủ tục liên quan đến triển khai thực hiện dự án đầu tư trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được giấy phép.
          15. Luật quy định nhà đầu tư nước ngoài, liên doanh có vốn nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, tổ chức và cá nhân được quyền khiếu nại, khởi kiện đối với các quyết định và hành vi trái pháp luật, gây khó khăn, phiền hà của viên chức, cơ quan nhà nước.
          16. Giao cho Chính phủ quy định việc cấp Giấy phép đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, quyết định việc phân cấp giấy phép đầu tư cho các uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có đủ điều kiện, quy định việc cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất.
          Chỉ trong khoảng thời gian ngắn sau khi Luật đầu tư nước ngoài mới được thông qua, ngày 18 tháng 2 năm 1997, Chính phủ đã ban hành Nghi định 12/CP hướng dẫn chi tiết thi hành luật. Các Bộ ngành liên quan cũng khẩn trương ban hành các thông tư hướng dẫn chi tiết cách triển khai thực hiện. Từ tháng 12/1996 đến 3/1998, đã có tới 43 văn bản pháp luật khác nhau liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài được các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ ban hành.
          Trong số các văn bản trên, có 4 văn bản quan trọng nhất được ban hành sau Luật đầu tư nước ngoài là Nghị định 12/CP hướng dẫn áp dụng chi tiết Luật đầu tư nước ngoài, Quyết định 386/Ttg ngày 07/6/1997 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn chi tiết việc phân cấp trong cấp phép đầu tư nước ngoài; Thông tư của Bộ Tài chính số 74/TC-TCT ngày 20/10/1997 hướng dẫn thực hiện các quy định về thuế cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Nghị định số 10/1998/ND-CP của Chính phủ ngày 23/01/1998 đưa ra nhiều biện pháp mới nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam.
          Tuy nhiên, do hệ thống văn bản pháp quy của Việt nam gồm nhiều nấc, nấc dưới cụ thể hoá dần dần các quy định của nấc trên, trong quá trình đó còn nhiều điểm theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài, chưa rõ ràng, mập mờ đòi hỏi phải được cụ thể hoá hơn nữa. Chính vì vậy, sau khi ban hành luật và nghị định, nhiều nhà đầu tư cho rằng vẫn còn nhiều điều không chắc chắn và nhiều rắc rối trong các quy định pháp luật.
          Nghị định 10/1998/ND-CP của Chính phủ là một biện pháp nhằm cố gắng khắc phục tình hình giảm sút quá nhanh của luồng vốn ĐTTTNN bằng cách tạo thêm những điều kiện thuận lợi hơn và tốt hơn cho các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một số điểm chính trong nghị định này và các quyết định, thông tư liên quan từ đầu năm 1998 là:
          1. Giảm một nửa tiền thuê đất cho các dự án đầu tư nước ngoài.
          2. Tăng số tỉnh có thể chấp thuận các dự án đầu tư dưới 5 triệu đô la Mỹ mà không cần sự chấp thuận từ trước của chính phủ trung ương. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ 41/1998/QD-TTg ngày 20/2/1998 đã đưa ra danh sách các Uỷ ban nhân dân tỉnh được cấp phép đầu tư cho các dự án có tổng vốn dưới 5 triệu USD, gồm 8 tỉnh, trừ một số dự án thuộc lĩnh vực phải xin phép Thủ tướng chinh phủ.
          3. Cho phép 8 khu chế xuất, khu công nghiệp được trực tiếp cấp giấy phép đầu tư trong phạm vi khu chế xuất, khu công nghiệp đó. Thông tư 7/KCN ngày 16/6/1997 đã đưa ra danh sách các ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh có quyền cấp và cấp bổ xung giâý phép đầu tư cho các dự án có vốn đầu tư dưới 40 triệu USD mà không thuộc loại dự án phải được Thủ tướng chính phủ cho phép như quy định trong Nghị định 12/CP.
          4. Mở rộng danh mục nhập khẩu không chịu thuế nhập khẩu đối với các vật liệu xây dựng, mới và cũ, máy móc thiết bị và xe cộ phục vụ các dự án đầu tư nước ngoài.
          5. Cho phép rồi yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt nam đáp ứng một phần những nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, cho dù giấy phép của các doanh nghiệp này không đòi hỏi chính phủ phải đảm bảo cung cấp các khoản ngoại tệ như vậy.
          6. Những điều luật mới sẽ không được áp dụng cho các nhà đầu tư nước ngoài nếu chúng ảnh hưởng bất lợi tới lợi ích của họ. Trường hợp chúng có ảnh hưởng có lợi đối với các nhà đầu tư nước ngoài hơn mức họ đang được hưởng theo giấy phép đầu tư của họ, thì  nhà đầu tư nước ngoài có thể sẽ được hưởng những ưu đãi mới của những điều luật mới này.
          7. Miễn thuế doanh lợi trong 4 năm đầu làm ăn có lãi cho những nhà đầu tư nước ngoài vào những dự án được khuyến khích đặc biệt hoặc những dự án thực hiện ở những khu vực được khuyến khích đặc biệt, và cho phép giảm 50% thuế trong 4 năm tiếp theo. Ngoài ra, cho phép các dự án đầu tư nước ngoài được hưởng những mức thuế khuyến khích trong suốt thời gian hoạt động của dự án.
          8. Cho phép các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài sản xuất hàng hoá xuất khẩu tạm hoãn việc đóng thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu thô trong vòng ít nhất 90 ngày kể từ khi nhận được thông báo chính thức liên quan đến số lượng hàng vận chuyển và khoản tiền thuế phải nộp.
          9. Cho phép các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài cũng như các liên doanh được ưu đãi về thuế trong 5 năm đầu làm ăn thua lỗ.
          10. Trừng phạt nghiêm khắc những công chức có những hành vi gây khó khăn cho các nhà đầu tư.
          11. Quy định thời hạn cấp giấy phép xuất khẩu tối đa là 15 ngày kể từ khi đơn xin xuất khẩu được đệ trình đối với những nhà đầu tư xuất khẩu tới 80% hàng hoá của họ.
          12. Cho phép các dự án ĐTNN không sản xuất hàng hoá xuất khẩu được mua hàng hoá sản xuất tại địa phương để xuất khẩu nhằm tăng thu ngoại tệ.
          13. Yêu cầu tất cả các quy định có liên quan đến đầu tư nước ngoài do bất kỳ cơ quan chính phủ hay chính quyền địa phương nào ban hành cũng phải được Bộ Kế hoạch và Đầu tư chấp thuận mới có giá trị. Nếu có tranh chấp giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ khác, hoặc với các ủy ban nhân dân, thì Thủ tướng Chính phủ sẽ đứng ra quyết định.
          14. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua tới 30% cổ phần trong các dự án đầu tư do trong nước sở hữu hoặc kiểm soát.
          15. Yêu cầu các cơ quan chính phủ chấp thuận đơn xin cấp giấy phép đầu tư trong vòng 15 ngày kể từ ngày các nhà chức trách nhận được những giấy tờ cần thiết đối với các dự án thuộc ba lĩnh vực sau:
          - Những dự án sản xuất mà ít nhất 80% sản phẩm được dành để xuất khẩu;
          - Những dự án đầu tư vào các khu chế xuất và khu công nghiệp, gồm các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và kinh doanh;
          - Những dự án có vốn đầu tư dưới 5 triệu đô la Mỹ.
          Hai Nghị định 10 và 12 đã phân loại các chế độ ưu đãi cho 5 loại dự án, trong đó 4 loại thuộc diện ưu đãi theo ngành và 1 loại ưu đãi theo khu vực địa lý. Loại dự án được khuyến khích đặc biệt bao gồm những dự án xuất khẩu 100%, những dự án nông nghiệp định hướng xuất khẩu mà sản phẩm có giá trị gia tăng cao, sử dụng nhiều lao động và sử dụng công nghệ cao, những dự án về bảo vệ môi trường và xử lý chất thải, và các dự án BOT, BTO, BT.
          Loại dự án được khuyến khích bao gồm các dự án khai thác nguyên liệu (khai thác mỏ, hoá chất, hoá dầu, xi măng, các nguyên liệu đầu vào cho ngành công nghiệp giày dép và may mặc) và sản xuất máy móc thiết bị (động cơ diezel, máy công cụ, thiết bị chính xác) trừ hai ngành dược và đóng gói.
          Loại dự án cấp phép có điều kiện áp dụng cho các dự án đầu tư nước ngoài được cấp kèm theo các điều kiện, như về hình thức đầu tư (ví dụ chỉ các hình thức liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh mới được phép đầu tư vào dịch vụ bưu chính viễn thông, dầu và khí đốt, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, ngành xây dựng, dịch vụ vận tải, xi măng, thép, chất nổ công nghiệp, trồng rừng, du lịch, văn hoá và giải trí), về xuất khẩu (đối với sản phẩm mà nhu cầu trong nước đã được thoả mãn thì dự án ĐTNN phải xuất khẩu ít nhất 80% giá trị sản phẩm), và điều kiện về sử dụng nguyên liệu (dầu thực vật, chế biến gỗ).
          Loại dự án thuộc khu vực cấm là các dự án không được cấp phép vì liên quan đến an ninh quốc gia, quốc phòng, dự án gây thiệt hại cho môi trường và nền văn hoá Việt nam, những sản phẩm hoá chất đã được quốc tế cam kết cấm.
          Nghị định cũng đưa ra danh sách các khu vực được khuyến khích đầu tư, bao gồm vùng núi, vùng sâu, vùng xa,  và những vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Những dự án thuộc diện được khuyến khích lại được đặt tại các vùng miền núi và xa xôi thì trở thành loại dự án được khuyến khích đặc biệt.
          Từ sau khi thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư nước ngoài năm 1999 đến nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cấp có thẩm quyền khác đã cho phép nhiều dự án chuyển đổi từ hình thức liên doanh sang 100% vốn nước ngoài hoặc ngược lại để đáp ứng nguyện vọng các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời cũng giảm giá thuê đất cho nhà đầu tư, cho phép họ chuyển đổi ngành nghề kinh doanh cho phù hợp với tình hình mới. Những chính sách này đã góp phần đáng kể hạn chế tốc độ suy giảm đầu tư vào Việt nam hai năm 1998-1999 trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng tăng của các nước trong khu vực.
(5) Luật sửa đổi năm 2000:
          Nhằm tiếp tục huy động vốn nước ngoài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh nguồn vốn FDI thu hút vào Việt Nam giảm sút và cạnh tranh của các nước trong thu hút đầu tư nước ngoài tăng nhanh, tháng 5/2000, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài năm 1996.
          Luật ĐTNN năm 2000 đã bổ sung 2 điều khoản mới và sửa đổi, 20 điều khoản đã có theo hướng vừa tăng thuận lợi cho nhà đầu tư, vừa mở rộng các quy định của Luật đầu tư nước ngoài năm 1996. Những điểm mới trong Luật ĐTNN năm 2000 tập trung làm 3 nhóm vấn đề:
          - Nhóm 1 gồm các quy định nhằm tháo gỡ nhanh những khó khăn, vướng mắc và giảm thiểu tối đa rủi ro trong hoạt động kinh doanh tại Việt Nam của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các sửa đổi bổ sung bao gồm tạo thuận lợi, dễ dàng hơn cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cân đối ngoại tệ, trong việc mở tài khoản ở nước ngoài, trong việc thế chấp quyền sử dụng đất, đền bù và giải phóng mặt bằng, nguyên tắc không hồi tố, trong việc bảo lãnh vay nước ngoài của Chính phủ...
          - Nhóm 2 gồm các quy định nhằm mở rộng quyền tự chủ trong quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, xoá bỏ những can thiệp không cần thiết của các cơ quan nhà nước, tiến tới xây dựng mặt bằng pháp lý về tổ chức quản lý áp dụng chung cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
          Một số sửa đổi, bổ sung chính có liên quan tới nguyên tắc nhất trí, việc chuyển đổi hình thức đầu tư và tổ chức doanh nghiệp, quyền chuyển nhượng vốn, chấm dứt hoạt động và thành lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, quy định lập các quỹ doanh nghiệp, quy định giảm các thủ tục cấp phép đầu tư và triển khai quá trình đầu tư...
          - Nhóm 3 gồm các quy định sửa đổi, bổ sung liên quan đến miễn thuế nhập khẩu, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và các quy định về chuyển lỗ.
Mặc dù đã có một số một số cởi mở hơn, nhưng giới đầu tư đến vẫn chưa nhiệt tình với Việt Nam, vì theo họ, yếu điểm nhất của Việt nam từ lâu vẫn là trong khi các quy định của Luật rất thông thoáng, cởi mở thì các văn bản dưới luật lại bó hẹp các ưu đãi lại và cơ chế thực thi luật rất khó khăn. Mặt khác, nhiều ưu đãi chỉ mang tính nhất thời, không ổn định, thiếu nhất quán, không đồng bộ. Trong thực thi thường thiếu minh bạch và mang nặng phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Nhiều quy định đến nay vẫn chưa phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.
Về thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian gần đây:
Trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp; dòng giao lưu vốn bị hạn chế và phân tán bởi sự canh tranh gay gắt trên thị trường thu hút vốn; nhưng do môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện nên trong hai năm 2001-2003, cả nước đã thu hút được thêm gần 1.900 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 5,6 tỷ USD. Các dự án đang hoạt động tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh với tổng vốn tăng trên 2,5 tỷ USD (đề nghị anh Thực cập nhật lại số theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài gửi anh).
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 80,6% số dự án và 81,2% vốn đăng ký, cao hơn các tỷ lệ tương ứng đối với thời kỳ 1996-2000. Một số dự án đã được cấp Giấy phép đầu tư trong thời gian này như: Dự án điện BOT Phú Mỹ 3 và Phú Mỹ 2.2 xây dựng nhà máy nhiệt điện sử dụng khí với công suất 716,8 MW và 715 MW; Công ty trách nhiệm hữu hạn Hưng Thịnh Formosa tại Khu công nghiệp Đồng Nai, vốn đầu tư  270,3 triệu USD; Dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh điện thoại di động CDMA tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, vốn đầu tư trên 229,6 triệu USD; Công ty trách nhiệm hữu hạn Sài Gòn Sports City tại thành phố Hồ Chí Minh, vốn đầu tư 130 triệu USD; Dự án Metro Cash and Carry tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, vốn đầu tư 120 triệu USD; Dự án sản xuất giày Ching Luh tại Khu công nghiệp Thuận Đạo, Long An, vốn đầu tư 50 triệu USD...
Vốn đầu tư thu hút được ở khu vực vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương khoảng 2,8 tỷ USD, chiếm 69%. Thành phố Hà Nội thu hút 320 triệu USD, tiếp đó là Long An, Đà Nẵng, Vĩnh Phúc, Hải Phòng,... Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung cũng đã có nhiều cố gắng trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên còn rất hạn chế.
Về đối tác đầu tư, các nhà đầu tư từ khu vực Đông Bắc Á vẫn là nguồn cung cấp vốn đầu tư nước ngoài lớn vào Việt nam, trong đó Đài Loan dẫn đầu với 387 dự án, vốn đầu tư đăng ký 861 triệu USD. Các nước châu Âu và Hoa Kỳ tuy vẫn có dự án đầu tư mới vào Việt Nam nhưng số lượng và quy mô vốn còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng của các nhà đầu tư.
Trong ba năm 2001-2003, tổng vốn thực hiện của khu vực đầu tư nước ngoài đạt hơn 7,6 tỷ USD (riêng năm 2002, vốn thực hiện gần 2,6 tỷ USD; năm 2003 đạt 2,65 tỷ USD); trong đó, đầu tư vào ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 78% tổng vốn thực hiện; lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chỉ chiếm 8% và dịch vụ chiếm 14% tổng vốn đầu tư thực hiện.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp xấp xỉ 14% GDP của cả nước, tổng doanh thu tính riêng 2 năm 2001-2002 (không kể dầu khí) đạt 20,4 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu trên 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (trừ dầu khí); nộp Ngân sách nhà nước khoảng trên 832 triệu USD, chiếm 5% tổng thu ngân sách; thu hút thêm khoảng trên 11 vạn lao động. Đến cuối năm 2003, tổng số lao động trực tiếp trong khu vực đầu tư nước ngoài khoảng 66,5 vạn người.
          2) Viện trợ phát triển chính thức ODA
          Nói về viện trợ phát triển chính thức của cộng đồng quốc tế cho Việt Nam không thể không nói đến cấm vận toàn diện của Mỹ chống Việt Nam kéo dài suốt 40 năm, từ khi miền Bắc được giải phóng năm 1954 đến năm 1994. Cấm vận kinh tế và thương mại của Mỹ, và tiếp đó là của cộng đồng thế giới khi Việt Nam can thiệp vào tình hình Campuchia năm 1979, đã ngăn cản hầu như toàn bộ viện trợ ODA của thế giới cho Việt Nam. Không những thế, chính sách cấm vận còn làm cho Việt Nam không thể tiếp cận thị trường quốc tế để nhập khẩu các công nghệ tiên tiến và các chủng loại hàng hoá cần thiết khác vì thị trường của Việt Nam bị thu hẹp rất lớn. Ngoài ra, cấm vận còn ảnh hưởng rất tiêu cực tới thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Nhiều nhà kinh tế đã cho rằng cấm vận của Mỹ và các nước phương tây đã đẩy Việt Nam ngày càng sâu vào khối kinh tế Sô viết (thông qua Hội đồng tương trợ kinh tế - COMECON) mặc dù Việt Nam đã có những bước chuyển sang kinh tế thị trường từ rất sớm (từ năm 1978 khi Hội nghị Trung ương 6 khoá IV thông qua chủ trương khoán sản phẩm trong nông nghiệp, mở rộng đất 5%, phát triển chợ nông thôn và ở đô thị, tự do hoá lưu thông hàng hoá giữa các tỉnh...).
          Trước cải cách 1986, viện trợ của thế giới cho Việt Nam rất thấp (không kể viện trợ từ khối các nước XHCN, trong đó chủ yếu từ Liên Xô). Tổng vốn ODA trong thời kỳ 1976-1980 dao động khoảng 300 triệu USD mỗi năm, nhưng sau sự kiện Việt Nam can thiệp quân sự vào Campuchia năm 1979, khoản viện trợ này tụt xuống còn khoảng trên dưới 100 triệu USD trong suốt thập kỷ 80 của thế kỷ trước.
          Việc bình thường hoá quan hệ với Mỹ chỉ bắt đầu 3 năm sau khi hai nước tham gia ký Hiệp định Paris năm 1991 về lập lại Hoà bình ở Campuchia. Tuy nhiên, trước đó 1 năm, tháng 7/1993, Mỹ đã dỡ bỏ phủ quyết đối với các khoản cho vay của các tổ chức tài chính quốc tế dành cho Việt Nam, mở đường cho việc khôi phục nhanh các khoản viện trợ quốc tế cho Việt Nam trong đó có viện trợ của Nhật Bản.
          Tháng 2/1994, Mỹ tháo bỏ cấm vận kinh tế và thương mại chống Việt Nam. Tháng 8/1994, thượng viện Mỹ biểu quyết dỡ bỏ cấm vận cho vay, đồng thời cho phép cấp tín dụng và bảo lãnh của chính quyền Mỹ đối với Việt Nam. Tháng 7/1995, Mỹ chính thức công nhận chính phủ Việt Nam là đại diện hợp pháp cho nhân dân Việt Nam. Tháng 12/1996, Việt Nam thanh toán 146 triệu USD nợ cũ của chính quyền Sài gòn đối với chính phủ Mỹ. Tháng 6/1997, Mỹ thanh toán lại cho Việt Nam 400 triệu USD liên quan đến tài sản của chính quyền Sài gòn trên đất Mỹ...
          Việc dỡ bỏ các lệnh cấm vận kinh tế của Mỹ và các nước phương Tây đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử trong huy động vốn ODA vào phát triển kinh tế Việt Nam, nhất là vốn ODA để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng lớn như đường xá, bến cảng, điện, nước, trường học, bệnh viện... Tổng giá trị viện trợ ODA có xu hướng tăng dần qua các năm, dao động khoảng 1,86-2,9 tỷ USD mỗi năm. Vấn đề đặt ra từ khi Việt Nam trở lại nhận viện trợ ODA là khả năng tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn quan trọng này.
          Công tác quản lý nguồn vốn ODA trong thời kỳ đầu còn rất kém. Để tăng cường quản lý và thu hút nguồn vốn ODA, từ năm 1997, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều Nghị định, như Nghị định 87/CP ngày 5/8/1997 về quy chế quản lý và sử dụng vốn ODA, Nghị định 22/1988/NĐ-CP ngày 24/4/1998 về giải phóng mặt bằng cho các dự án ODA, Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 về quy chế quản lý đầu tư và xây dựng (sau này sửa đổi trong các Nghị định 12/2001/NĐ-CP...), Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 về ban hành quy chế đấu thầu... Kèm theo các Nghị định này là các thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành liên quan.
          Theo quy định, vốn ODA là các loại vốn nước ngoài trong đó phần viện trợ không hoàn lại và viện trợ ưu đãi có yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 25% giá trị khoản vay (điều 2, Nghị định 87/CP), được thực hiện dưới các hình thức như hỗ trợ cân đối cán cân thanh toán quốc tế, hỗ trợ theo chương trình, dự án, hỗ trợ kỹ thuật và hỗ trợ dự án...
          Các Nghị định đã quy định một cách cụ thể chức năng, quyền hạn của các Bộ, ngành tham gia quản lý và điều hành nguồn vốn ODA như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Ngoại giao và Văn phòng Chính phủ...
          Ngoài ra, các Nghị định cũng được điều chỉnh dần theo hướng mạnh dạn hơn trong phân cấp quản lý và thu hút vốn ODA, rõ ràng hơn về mặt quy trình thẩm định, phê duyệt các dự án ODA. Các thủ tục cũng được tinh giản hơn; nội dung quy định của các Bộ, ngành liên quan trong các văn bản hướng dẫn ngày càng thống nhất với nhau theo cùng một hướng là khuyến khích huy động vốn ODA. Đặc biệt, chính sách đền bù thiệt hại đối với các địa phương bị ảnh hưởng khi triển khai công trình ODA đã được áp dụng thống nhất và chi tiết cho mọi trường hợp trong cả nước.
Công tác quản lý nhà nước về ODA trong 3 năm gần đây tiếp tục được tăng cường và hoàn thiện. Ngày 4/5/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định 17/2001/NĐ-CP về quản lý và sử dụng ODA, thay thế Nghị định số 87/CP ngày 5/8/1997. So với các Nghị định trước đây về quản lý và sử dụng ODA, Nghị định 17/2001/NĐ-CP có nhiều tiến bộ đáng kể, bao quát khá toàn diện quy trình dự án ODA từ khâu vận động nguồn vốn này cho tới khâu theo dõi và đánh giá dự án. Vai trò, chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước về ODA, các cơ quan chủ quản và cơ quan thực hiện dự án được phân định rõ ràng hơn, nhất là việc phân cấp phê duyệt các dự án ODA.
Các nhà tài trợ đánh giá cao Nghị định 17/2001/NĐ-CP, coi Nghị định  này là cơ sở để tiến hành hài hòa thủ tục giữa Chính phủ và các nhà tài trợ.
Các cơ quan quản lý nhà nước về ODA như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành Nghị định 17/2001/NĐ-CP, như Thông tư số 06/2001/TT-BTC của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 20/9/2001 hướng dẫn thi hành Nghị định trên, Thông tư liên bộ số 02/2003/TTLT/BKH-BTC của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính ngày 17/3/2003 hướng dẫn lập kế hoạch tài chính đối với các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).
Tuy vậy, tính đồng bộ và nhất quán của các văn bản pháp luật về quản lý và sử dụng ODA còn cần phải tiếp tục hoàn thiện. Nghị định 17/2001/NĐ-CP là văn bản pháp luật cơ bản về quản lý và sử dụng ODA nhưng lại chịu sự chi phối của nhiều văn bản pháp luật khác (quản lý đầu tư và xây dựng, đấu thầu…), song các văn bản này lại hay thay đổi và thiếu nhất quán đã gây khó khăn đối với việc thi hành Nghị định 17/2001/NĐ-CP về quản lý và sử dụng ODA.
Công tác chỉ đạo của Chính phủ đối với việc quản lý và thực hiện các dự án ODA tiếp tục được coi trọng. Trong các Nghị quyết của Chính phủ về các giải pháp điều hành kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2001, 2002, 2003 đều có các chỉ thị phải bảo đảm đủ vốn đối ứng cho các dự án ODA. Khi ngân sách có nguồn vốn bổ xung thì các dự án ODA cũng được xếp vào loại ưu tiên được sử dụng nguồn vốn này để tăng cường vốn đối ứng.
Việc theo dõi và đánh giá tình hình thực hiện dự án ODA được tăng cường một bước. Trong các báo cáo tháng, báo cáo quý và báo cáo 6 tháng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ đều có những đánh giá về tình hình thực hiện các dự án ODA.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các cơ quan tổng hợp, các cơ quan, đơn vị thụ hưởng dự án duy trì chế độ kiểm điểm hàng tháng, kiểm điểm định kỳ hoặc hàng năm về tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA với các nhà tài trợ.
Để tăng cường công tác theo dõi dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã công bố danh mục các dự án ODA trọng điểm của Kế hoạch 5 năm (2001 – 2005) để yêu cầu các Ban quản lý dự án và các cơ quan chủ quan thực hiện nghiêm chỉnh chế độ báo cáo được quy định tại Nghị định 17/2001/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý và sử dụng ODA.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư hiện đang phối hợp với một số Bộ và địa phương có sử dụng ODA triển khai xây dựng thí điểm hệ thống theo dõi và đánh giá dự án ODA.
Với các nhà tài trợ, trong 3 năm qua, ta tiếp tục tiến hành các hoạt động cụ thể nhằm từng bước hài hòa thủ tục ODA ở những khâu công việc có thể hài hòa nhằm tinh giản thủ tục như lập các quy trình thủ tục hỗn hợp, chọn các khâu công việc thích hợp trong quy trình đấu thầu, hệ thống báo cáo… để thực hiện hài hòa thủ tục giữa hai bên.
Các nhà tài trợ đánh giá cao các hoạt động hài hòa thủ tục ODA của ta và chọn nước ta là một trong một số nước điển hình về tinh giản và hài hòa thủ tục ODA.
          Mặc dù đã có nhiều điểm tích cực nêu trên, nhưng đến nay các Nghị định về huy động và quản lý nguồn vốn ODA vẫn còn nhiều điểm hạn chế, trong đó nổi bật là số đầu mối tham gia quản lý và điều phối vốn ODA còn nhiều nên các thủ tục hành chính còn nhiều, nhất là thủ tục giải ngân, do đó làm chậm quá trình tiếp nhận nguồn vốn này. Các quy định, quy trình kiểm tra, theo dõi, đánh giá tình hình và hiệu quả hoạt động của các dự án sử dụng vốn ODA còn thiếu và chưa đồng bộ. Việc hỗ trợ vốn và kỹ thuật xây dựng dự án còn yếu; chủ dự án thường phải dựa vào hỗ trợ của nước ngoài nên bị động. Nhìn chung, các quy định còn thiên về quản lý hành chính hơn là nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn nên chưa thực sự tạo thuận lợi cho chủ dự án và tăng chất lượng thực hiện các dự án.
......
Tình hình thu hút vốn ODA:
Bước vào thời kỳ 5 năm (2001 - 2005), do khó khăn kinh tế toàn cầu, nguồn ODA của thế giới có xu hướng giảm đáng kể. Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, nguồn ODA mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam trong 3 năm qua vẫn liên tục tăng lên, năm 2001 đạt 2,4 tỷ USD, năm 2002 đạt 2,5 tỷ USD, năm 2003 đạt 2,83 tỷ USD. Điều này thể hiện sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồngcác nhà tài trợ quốc tế đối với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Tình hình ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về ODA trong ba năm 2001-2003 đã diễn ra thuận lợi; tổng giá trị các hiệp định đã được ký kết đạt khoảng 6,1 tỷ USD, trong đó, vốn vay ưu đãi khoảng 5,1 tỷ USD, vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 1 tỷ USD.
Các khoản ODA đã được ký kết trong thời gian qua, về cơ bản phù hợp với định hướng cơ cấu sử dụng ODA mà Đại hội IX đã đề ra trong phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (2001 – 2005). Điều này được thể hiện trong bảng so sánh dưới đây:
Bảng so sánh cơ cấu sử dụng ODA
                                                                                                         Đơn vị: %
Lĩnh vực sử dụng ODA
Theo các Hiệp định
đã ký kết
(2001 – Quý I/2003)
Cơ cấu định hướng sử dụng ODA theo Đại hội IX
1. Giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và hạ tầng đô thị
33%
25%
2. Năng lượng và công nghiệp
21%
25%
3. Nông nghiệp và phát triển nông thôn, thủy lợi, lâm nghiệp và thủy sản
19%
15%
4. Các lĩnh vực khác (giáo dục và đào tạo, y tế, quản lý, khoa học và công nghệ…)
27%
35%

Bảng so sánh trên cũng cho thấy trong thời gian tới cần có những biện pháp để điều chỉnh cơ cấu định hướng sử dụng ODA giữa lĩnh vực 1 (giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và hạ tầng đô thị) và lĩnh vực 4 (giáo dục và đào tạo, y tế, quản lý, khoa học và công nghệ) bằng cách tích cực vận động ODA không hoàn lại và lựa chọn, sử dụng hợp lý nguồn ODA vốn vay cho lĩnh vực 4.
Trong số các chương trình, dự án ODA đã được ký kết trong 3 năm (2001 – 2003) có cả những dự án quốc gia, có ý nghĩa kinh tế, xã hội đối với cả nước như Cầu Cần Thơ (289 triệu USD), Cầu Bãi Cháy (62,2 triệu USD), Nhà ga quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất (169,82 triệu USD), Đường dây tải điện 500 KV Phú Mỹ – Nhà Bè – Phú Lâm (114,15 triệu USD), và các chương trình, dự án mà người được hưởng lợi trực tiếp là nhân dân các tỉnh, thành phố như dự án Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng (102,78 triệu USD), dự án Phát triển thủy lợi lưu vực sông Hồng (70 triệu USD), dự án Vệ sinh môi trường thành phố Hồ Chí Minh (166,50 triệu USD)…
Việc vận động nguồn ODA trực tiếp tập trung cho các vùng nghèo, có nhiều khó khăn cũng được cải thiện một bước trong 3 năm qua so với trước đây.
Giá trị ODA bình quân đầu người mà các vùng nghèo, khó khăn được thụ hưởng trực tiếp trong thời gian qua đã được cải thiện một bước như vùng trung du và miền núi phía Bắc (53,86 USD/người), vùng duyên hải miền Trung (55,16 USD/người), vùng Tây Nguyên (59,12 USD/người), vùng đồng bằng sông Cửu Long (47,11 USD/người).
Nhiều công trình đầu tư bằng nguồn vốn ODA đã hoàn thành đưa vào sử dụng góp phần tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống người dân như hầu hết các đoạn đường trên Quốc lộ 10, Quốc lộ 18, cầu Tân Đệ, Nhiệt điện Phả Lại 2, Thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi, nhiều trường học, bệnh viện, hệ thống cấp nước ở nhiều tỉnh, thành phố…
Trong 3 năm 2001 - 2003, ước giải ngân nguồn vốn ODA khoảng 4,6 tỷ USD, trong đó vốn vay ưu đãi khoảng 3,6 tỷ USD, viện trợ không hoàn lại 1 tỷ USD. Mức giải ngân này chưa đạt được kế hoạch đề ra (bình quân 1,8 tỷ USD/năm trong thời kỳ 2001 - 2005).
Tuy nhiên, giải ngân ODA trong 3 năm 2001-2003 mới chỉ đạt khoảng 75% mức ODA bình quân phải thực hiện (6 tỷ USD) trong 3 năm (2001 - 2003) theo phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 5 năm (2001 - 2005).
Giải ngân ODA chưa đạt được kế hoạch do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Về khách quan, so với thời kỳ trước đây, nhiều dự án quy mô lớn đã đi vào giai đoạn kết thúc nên không có lượng vốn giải ngân lớn như Nhiệt điện Phả Lại 2, Thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi, nhiều đoạn đường trên Quốc lộ 1A… Bên cạnh đó, một số dự án đầu tư quy mô lớn hiện đang ở giai đoạn đầu với công tác chuẩn bị là chủ yếu (giải phóng mặt bằng bằng nguồn vốn trong nước, chuẩn bị tài liệu thiết kế, đấu thầu...) như Cầu Thanh Trì, Cầu Cần Thơ, Cầu Bãi Cháy, Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất... Bên cạnh đó, quy trình thủ tục của một số nhà tài trợ cũng còn phức tạp, chậm được cải tiến.
Tuy vậy, nguyên nhân chủ quan vẫn là chính, trong đó nổi bật là: Chậm đền bù, di dân, tái định cư để giải phóng mặt bằng bàn giao cho bên thi công xây dựng. Có thể nói hầu hết các dự án ODA đều phải vừa thi công vừa giải phóng mặt bằng (gần đây, dự án Cầu Bãi Cháy là dự án đầu tiên có mặt bằng được bàn giao trước khi khởi công xây dựng). Có trường hợp thời hạn giải ngân ODA đã sắp hết mới kết thúc giải phóng mặt bằng như dự án Đài truyền hình Việt Nam. Ngoài sự bất cập trong các văn bản pháp luật như Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 22/1998/NĐ-CP của Chính phủ về đền bù và tái định cư đến nay vẫn chưa được ban hành, còn phải kể đến kế hoạch di dân và tái định cư của các dự án làm còn sơ sài, thiếu nghiên cứu một cách bài bản và việc thực hiện không nghiêm túc.
Vốn đối ứng có nơi, có lúc thiếu hoặc bố trí không kịp thời, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án.
Do kế hoạch giải ngân thường bấp bênh do bị ảnh hưởng của những yếu tố khó dự kiến như giải phóng mặt bằng nên việc bố trí kế hoạch vốn đối ứng thường gặp trở ngại. Ngoài ra, ở một số Bộ và địa phương, kế hoạch vốn đối ứng cho dự án ODA được xem như phần “thêm vào”, nên nguồn đáp ứng thường không chắc chắn, sử dụng tùy tiện.
Chậm trễ trong công tác đấu thầu. Bản thân việc đấu thầu trong đầu tư xây dựng cơ bản là một công việc phức tạp. Song đối với dự án ODA, sự phức tạp này còn gấp đối do phải vừa tôn trọng quy định của luật pháp Việt Nam và của nhà tài trợ. Thực tế trong thời gian qua, các quy định của hai phía còn có những điểm khác nhau. Đây là một trong nhiều nguyên nhân làm cho đấu thầu dự án bị kéo dài. Một ví dụ gần đây là dự án Xây dựng hệ thống cấp nước ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, do có sự khác biệt về quy định đấu thầu giữa ta và Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) nên nguy cơ dự án này sẽ bị hủy bỏ.
Thủ tục tài chính trong nước còn nhiều bất cập trong các vấn đề như cơ chế cho vay lại vốn ODA có sự khác nhau, kể cả đối với các dự án trong cùng một lĩnh vực và không được thông báo trước khi chuẩn bị dự án; vấn đề thuế đối với các dự án ODA của các nhà tài trợ khác nhau chưa nhất quán, thủ tục giải ngân còn quá nhiều quy trình phức tạp.
Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý dự án nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu do thiếu về số lượng, phần lớn làm kiêm nhiệm và yếu về chất lượng, thiếu tính chuyên nghiệp.
Việc giải ngân các nguồn vốn ODA còn chậm, nếu chúng ta không kịp thời xử lý những vướng mắc trong việc chuẩn bị thực hiện dự án và giải ngân theo tiến độ đã cam kết thì sẽ có những ảnh hưởng bất lợi trong việc thu hút vốn trong thời gian tới.
Ngoài ra, những hạn chế trong cơ chế chính sách và sự thiếu đồng bộ, nhất quán trong tổ chức thực hiện dẫn đến sự giảm sút thu hút các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Việc thực hiện các cam kết song phương, đa phương của nhiều cơ quan nhà nước và doanh nghiệp còn chậm. Chưa xây dựng được Chương trình quốc gia về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tầm nhìn trung hạn và dài hạn. Việc thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế chậm.
Trong điều kiện nền kinh tế khu vực và toàn cầu sau thời kỳ chiến tranh I-rắc đang có những chiều hướng phức tạp vừa thuận, vừa không thuận, sẽ gây cho ta không ít khó khăn trong việc thu hút vốn từ bên ngoài. Mặt khác, thị trường xuất khẩu đòi hỏi khắc khe về chất lượng và cạnh tranh gay gắt về giá cả, trong khi các ngành hàng, các cơ sở sản xuất của ta chưa có nhiều chuyển biến, sẵn sàng thích nghi để hoạt động có hiệu quả trên thương trường. Đồng thời, cơ chế chính sách, tổ chức bộ máy quản lý, đội ngũ cán bộ trong các cơ sở sản xuất kinh doanh còn nhiều yếu kém,... là thách thức rất lớn trong chủ động hội nhập và cạnh tranh kinh tế quốc tế.
Điều đó đòi hỏi chúng ta cần có những cố gắng và quyết tâm lớn, phát huy những thành quả của công cuộc đổi mới mang lại, khai thác tốt nguồn nội lực và những lợi thế so sánh để vượt qua những khó khăn do thực trạng kinh tế còn thấp kém, nắm bắt, tận dụng những cơ hội, tăng khả năng cạnh tranh trong hội nhập và phát triển có hiệu quả.
          3) Các nguồn vốn nước ngoài khác
          Các nguồn vốn nước ngoài khác được đưa vào nước ta chủ yếu là tín dụng thương mại và một số khoản vay nợ nước ngoài khác. Trong những năm trước 1998, công tác quản lý vay và trả nợ nước ngoài còn rất kém, trước hết là do thiếu các văn bản quy phạm pháp luật có tính pháp lý cao để điều chỉnh loại hoạt động đặc biệt này.
Trong những năm gần đây, Chính phủ đã ban hành khá nhiều văn bản quy định việc quản lý vay và trả nợ nước ngoài đối với nguồn vốn này, trong đó có một số văn bản đáng chú ý là: Quy chế quản lý và trả nợ nước ngoài ban hành kèm theo Nghị định 90/1998/NĐ-CP; Quyết định số 72/1999/QĐ-BTC ngày 9/7/1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành quy chế lập, sử dụng và quản lý quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài; Quyết định số 233/1999/QĐ-TTg ngày 20/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế bảo lãnh của Chính phủ đối với các khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng; thông tư số 3/1999/TT-NHNN ngày 12/8/1999 về hướng dẫn vay và trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp...
(cần cập nhật thêm các văn bản mới)
          Theo các quy định của Nhà nước, vay nước ngoài là các khoản vay ngắn hạn (thời hạn vay đến 1 năm) và trung và dài hạn (trên 1 năm) do Nhà nước Việt Nam hoặc doanh nghiệp là pháp nhân Việt Nam (kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) vay của các tổ chức tài chính quốc tế, của chính phủ nước ngoài, của ngân hàng nước ngoài hoặc của tổ chức, cá nhân nước ngoài.
          Vay nước ngoài của Chính phủ là các khoản vay nước ngoài do cơ quan được Nhà nước hoặc Chính phủ Việt Nam uỷ quyền ký vay với bên nước ngoài dưới danh nghĩa nhà nước hoặc Chính phủ Việt Nam. Các khoản vay chính phủ bao gồm vốn ODA, tín dụng thương mại, phát hành trái phiếu chính phủ.
          Vay nước ngoài của các doanh nghiệp là các khoản vay do doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo pháp luật hiện hành của Việt Nam (kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) trực tiếp ký vay với bên cho vay nước ngoài theo phương thức tự vay, tự chịu trách nhiệm trả nợ hoặc vay thông qua phát hành trái phiếu ra nước ngoài.
          Các Nghị định quản lý vay và trả nợ nước ngoài của nước ta đến nay vẫn còn ít song bước đầu cũng đã phát huy tác dụng tích cực. Bước đầu đã hình thành được khung khổ pháp lý cần thiết để điều chỉnh các hoạt động vay và trả nợ nước ngoài; đã có các quy định hướng dẫn chi tiết và khá rõ ràng, nhất là qua các thông tư, quyết định của các Bộ, ngành liên quan về thực hiện quy chế vay, trả nợ nước ngoài của Chính phủ và các doanh nghiệp.
          Tuy nhiên, việc quản lý vay, trả nợ nước ngoài đối với nguồn vốn này còn nhiều bất cập. Trước hết, đến nay văn bản cao nhất trong lĩnh vực này vẫn là Nghị định nên tính pháp lý chưa cao. Thứ hai, các văn bản chưa đề ra được cơ chế hài hoà để vừa quản lý được tình hình vay và trả nợ nước ngoài, vừa tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn nước ngoài, nhất là các doanh nghiệp tư nhân (hiện nay việc vay nước ngoài của các doanh nghiệp còn rất hạn chế do những ràng buộc quá chặt của các quy định của Nhà nước). Thứ ba, trong khi có những quy định quá chặt, lại đồng thời thiếu các quy định cần thiết để đảm bảo trách nhiệm trả nợ của một số tổ chức và doanh nghiệp nhà nước. Thứ tư, một số quy định giữa các văn bản còn chưa thống nhất...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét