Quy trình kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân
QUY TRÌNH LẬP VÀ
TỔNG HỢP KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI HÀNG NĂM VÀ 5 NĂM
Trước khi đi vào tìm hiểu công tác tổ chức thông tin và xử lý thông tin
phục vụ trong ngành kế hoạch, chúng ta cần tìm hiểu quy trình lập và tổng hợp kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm và hàng năm vì chính từ quy trình này, sẽ
phát sinh các nhu cầu thông tin cần thu thập và xử lý.
I- Tổ chức xây dựng kế hoạch:
1) Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ:
Ngày 23 tháng 9/1998, Thủ tướng chính phủ đã có chỉ thị về quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế xã hội thời kỳ đến năm 2010, trong đó có ba điểm lớn:
Một là, toàn bộ quy trình kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân
bao gồm 3 khâu nối tiếp nhau là Chiến lược, Quy hoạch và Kế hoạch, trong đó:
(i) Chiến lược có tầm dài hạn,
thường từ 10 đến 20 năm, trước hết là tập trung xây dựng Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Thủ tướng Chính
phủ giao Viện Chiến lược Phát triển thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm
chủ trì xây dựng các chiến lược phát triển.
(ii) Quy hoạch cùng thường có tầm dài hạn từ 10 năm trở lên, trước hết tập
trung xây dựng các quy hoạch phát triển cho giai đoạn 2001-2010. Viện Chiến lược
Phát triển được Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ chủ trì xây dựng các quy hoạch
phát triển quốc gia.
(iii) Kế hoạch 5 năm, trước hết là kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
2001-2005. Việc xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm được Thủ
tướng Chính phủ giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện. Bộ Kế hoạch
và Đầu tư lại giao cho Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân chủ trì, phối hợp với các
đơn vị trong Bộ tổ chức thực hiện.
(iv) Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm. Việc xây dựng các kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm được Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ
Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện. Bộ Kế hoạch và Đầu tư lại giao cho Vụ Tổng
hợp kinh tế quốc dân chủ trì, phối hợp với các đơn vị trong Bộ tổ chức thực hiện.
Vụ Tổng hợp KTQD còn chịu trách nhiệm chủ trì tổng kết tình hình thực hiện
kế hoạch 5 năm 1996-2000 và chiến lược 10 năm 1991-2000.
Đến kế hoạch 5 năm 2006-2010, ngày 23 tháng 9 năm 2004, Thủ tướng chính
phủ đã có chỉ thị số 33/2004/CT-TTg về xây dung kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội 5 năm 2006-2010 với những yêu cầu về đổi mới quy trình, nội dung và phương
pháp xây dựng kế hoạch nhằm nâng cao chất lượng kế hoạch.
Tuy vậy, về phân công triển khai thực hiện, vẫn theo phân công trên.
Cũng theo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, quy trình kế hoạch hoá phát
triển kinh tế quốc dân đi từ chiến lược đến quy hoạch rồi cụ thể hoá bằng các kế
hoạch 5 năm và hàng năm, trong đó Quy hoạch phải căn cứ vào chiến lược, là cụ
thể hoá của chiến lược và Kế hoạch phải căn cứ vào quy hoạch, là cụ thể hoá của
quy hoạch; tức là:
Quy hoạch phải căn cứ vào chiến lược, là cụ thể hoá của chiến lược;
Kế hoạch phải căn cứ vào quy hoạch, là cụ thể hoá của quy hoạch.
Hai là, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế quốc dân phải
được làm trước; tất cả các kế hoạch chi tiết khác như kế hoạch đầu tư xây dựng
cơ bản, kế hoạch sản xuất ngành, vùng, kế hoạch của các bộ, ngành, địa
phương..., phải được xây dựng sau và căn cứ vào kế hoạch tổng thể.
Ba là, Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm đầu mối chủ trì, phối hợp với
các bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tổ chức xây dựng và thực
hiện các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có
trách nhiệm kiểm tra, giám sát và tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện chiến
lược, quy hoạch và kế hoạch. Trên cơ sở các kế hoạch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối
hợp với Bộ Tài chính bố trí vốn hàng năm để thực hiện kế hoạch.
2) Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bộ Kế hoạch và Đầu tư được thành lập ngày 11/11/1995 trên cơ sở sát nhập
hai cơ quan Ủy ban kế hoạch Nhà nước và Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư.
Trước đó vào đầu năm 1993, chính phủ đã quyết định sát nhập Viện Nghiên cứu Quản
lý Kinh tế Trung ương vào Ủy ban kế hoạch Nhà nước.
Theo Nghị định 61/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan của Chớnh phủ, thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về kế hoạch và đầu tư, bao gồm : tham mưu tổng hợp về
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phỏt triển kinh tế - xó hội chung của cả nước,
về cơ chế, chớnh sỏch quản lý kinh tế chung và một số lĩnh vực cụ thể, về đầu
tư trong nước, ngoài nước, khu cụng nghiệp, khu chế xuất, về quản lý nguồn hỗ
trợ phỏt triển chớnh thức (sau đây gọi tắt ODA), đấu thầu, doanh nghiệp, đăng
ký kinh doanh trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước cỏc dịch vụ cụng trong cỏc
lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của phỏp luật.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư có 18 chức năng, nhiệm vụ trong đó có 10 chức
năng, nhiệm vụ rất quan trọng. Đặc biệt, nhiệm vụ thứ 2 là: "Trỡnh Chớnh phủ, Thủ tướng Chớnh phủ chiến lược, quy hoạch
tổng thể, dự ỏn kế hoạch phỏt triển kinh tế - xó hội của cả nước, vựng lónh thổ,
kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm và các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc
dân, trong đó có cân đối tài chớnh, tiền tệ, vốn đầu tư xây dựng cơ bản làm cơ
sở cho việc xõy dựng kế hoạch tài chớnh - ngõn sỏch; tổ chức cụng bố chiến lược,
quy hoạch tổng thể phỏt triển kinh tế - xó hội của cả nước sau khi được phờ duyệt
theo quy định".
Do các nhiệm vụ trên, việc xây dựng hệ thống thông tin phục vụ xây dựng
và điều hành kế hoạch là một trong những chức năng nhiệm vụ trung tâm của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư.
Đồng thời, Chính phủ cũng giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư chức năng tham
gia điều hành thực hiện kế hoạch. Do đó, Bộ phải bám sát tình hình, phát hiện
những ách tắc khó khăn và đề ra những giải pháp để tháo gỡ nhằm đạt các mục
tiêu đề ra. Điều này càng đòi hỏi nhiều thông tin mới nhất và cần tổ chức thành
ngân hàng dữ liệu để khai thác nhanh nhất.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được tổ chức gồm 26
đơn vị, trong đó có:
+ 20 đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước
+ 2 Viện nghiên cứu, 1 Trung tâm thông tin và dự báo KTXH quốc gia và 1
Trung tâm tin học.
+ Báo Đầu tư, Tạp
chí Kinh tế và Dự báo.
Ngoài ra, Bộ
KH-ĐT còn có cơ quan tham tán kinh tế tại nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ, Hàn Quốc và 10 nước khác.
3) Quy trình kế hoạch hoá và trao đổi thông tin trong nội bộ Bộ Kế hoạch
và Đầu tư:
Trên cơ sở chức năng nhiệm vụ được quy định trong Nghị định 75CP, ngày
25 tháng 12/1996, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ra Quyết định số 337 ban
hành "Quy trình tổ chức nghiên cứu xây dựng, tổng hợp và theo dõi thực hiện
kế hoạch trong nội bộ cơ quan Bộ Kế hoạch và Đầu tư". Bản quy trình gồm ba
phần. Phần một dành để giới thiệu những nguyên tắc chung của quy trình tổ chức
nghiên cứu xây dựng, tổng hợp và theo dõi thực hiện kế hoạch. Nội dung của phần
2 là các quy định chi tiết công việc của từng vụ, từng bộ phận trong Bộ cũng
như phương thức trao đổi thông tin giữa các vụ, bộ phận này trong quá trình tổ
chức nghiên cứu xây dựng, tổng hợp và theo dõi thực hiện kế hoạch. Phần 3 được
dành để làm chi tiết hoá nội dung công việc trong một số quy trình cụ thể.
Tiếp đến, ngày … ban hành "Quy trình tổ chức nghiên cứu xây dựng, tổng
hợp và theo dõi thực hiện kế hoạch trong nội bộ cơ quan Bộ Kế hoạch và Đầu tư sửa
đổi".
Do khuôn khổ bài giảng, ở đây, chỉ liệt kê một vào điểm chính trong ba
phần trên.
a) Về các nguyên tắc chung:
Trong phần này, đã quy định trách nhiệm của từng đơn vị trong các khâu
công tác để quá trình làm việc của Bộ Kế hoạch và Đầu tư với các bộ, địa
phương, tổng công ty nhà nước được thuận tiện theo quy chế một cửa:
- Viện Chiến lược Phát triển chủ trì nghiên cứu soạn thảo các quy hoạch
dài hạn, quy hoạch đầu tư, quy hoạch các vùng, lãnh thổ, các tổ hợp liên doanh
làm cơ sở cho việc lập kế hoạch;
- Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương chủ trì nghiên cứu xây dựng
hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô thực hiện kế hoạch.
- Các Vụ chuyên ngành là đầu mối phối hợp với các vụ, viện làm việc với
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ và các tổng công ty 91.
- Vụ Kinh tế Địa phương và Lãnh thổ là đầu mối phối hợp với các vụ, viện
làm việc với các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các thành phố loại 2.
- Vụ Kinh tế Đối ngoại là đầu mối phối hợp với các vụ, viện giúp Bộ về
xây dựng kế hoạch, điều phối quản lý và sử dụng các nguồn vốn ODA;
- Vụ Đầu tư Nước ngoài tổng hợp kế hoạch thu hút vốn FDI;
- Vụ Quản lý Dự án Đầu tư nước ngoài tổng hợp đánh giá kết quả thực hiện
hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài về vốn đầu tư, sản lượng sản xuất và
xuất khẩu sản phẩm.
Nguyên tắc thứ tư trong phần này là "tập trung cho việc nghiên cứu
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các chương trình, dự án lớn. Chuyển dần
từng bước sang nghiên cứu và xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm
là chính, có cân đối từng năm. Kế hoạch hàng năm chủ yếu là kế hoạch bố trí cụ
thể để thực hiện phướng hướng, cơ cấu và mục tiêu của kế hoạch 5 năm, và là kế
hoạch điều hành kinh tế xã hội trong năm phù hợp với sự phát triển của tình
hình".
Như vậy, theo nguyên tắc này,
không chỉ cần thông tin những năm gần nhất mà để tập trung vào làm kế hoạch 5
năm, cần phải có thông tin của ít nhất cũng của 3 kế hoạch năm năm trước. Ví dụ
để làm kế hoạch 5 năm 2001-2005, cần có thông tin của nền kinh tế xã hội từ năm
1986 đến này.
b) Về quy trình chung xây dựng,
tổng hợp và theo dõi thực hiện kế hoạch kinh tế quốc dân:
Bản quy trình quy định quá trình
xây dựng, tổng hợp và theo dõi thực hiện kế hoạch kinh tế quốc dân gồm 4 giai
đoạn:
- Giai đoạn 1: Chuẩn bị hướng dẫn xây dựng kế hoạch 5 năm, hàng năm;
- Giai đoạn 2: Tổng hợp kế hoạch
5 năm, hàng năm;
- Giai đoạn 3: Giao kế hoạch;
- Giai đoạn 4: Theo dõi quá
trình giao và triển khai thực hiện kế hoạch.
Trong giai đoạn
1, đã quy định:
+ Vụ Tổng hợp Kinh tế Quốc dân
chủ trì phối hợp với các vụ, viện liên quan đánh giá tổng hợp việc thực hiện kế
hoạch của năm báo cáo, 5 năm trước, dự báo tình hình kinh tế khu vực và thế giới,
những thuận lợi và khó khăn, nghiên cứu xây dựng định hướng phát triển kinh tế
xã hội kỳ kế hoạch (khung kế hoạch), xin ý kiến lãnh đạo Bộ để thông báo khung
kế hoạch cho các đơn vị liên quan trong bộ làm cơ sở ban đầu để xây dựng kế hoạch.
Chủ trì nghiên cứu trình lãnh đạo Bộ các chỉ tiêu và biểu mẫu phục vụ cho xây dựng
và tổng hợp kế hoạch 5 năm, hàng năm, những thay đổi về nghiệp vụ kế hoạch hoá
trong kỳ kế hoạch.
+ Các vụ, viện khác có nhiệm vụ
đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch năm báo cáo, 5 năm trước, tổ chức nghiên
cứu xây dựng kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương, vùng lãnh thổ
trong kỳ kế hoạch theo chức năng được phân công sẵn. Ví dụ Vụ Lao động, Văn hoá
xã hội đánh giá về dân số, lao động, y tế, văn hoá xã hội, Vụ Tài chính tiền tệ
đánh giá, phân tích về khả năng thu chi ngân sách, khả năng huy động các nguồn
vốn, dự báo tình hình lạm phát... Báo cáo của các vụ, viện được gửi cho Lãnh đạo
Bộ và cho Vụ Tổng hợp KTQD.
Giai đoạn 2 gồm
hai bước:
Bước 1 là bước chuẩn bị tổng hợp
kế hoạch. Trên cơ sở các thông tin dự báo, Vụ Tổng hợp Kinh tế Quốc dân chủ trì
cùng với các vụ Tài chính - Tiền tệ, Kinh tế Đối ngoại và Đầu tư nước ngoài
tính toán nhu cầu và khả năng các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, dự kiến bố trí
cơ cấu vốn đầu tư thuộc Ngân sách nhà nước, cơ cấu tín dụng đầu tư theo kế hoạch
nhà nước và hướng đầu tư trong các doanh nghiệp và nhân dân. Thông báo tổng mức
vốn đầu tư của các ngành, lĩnh vực, địa phương cho các vụ chuyên ngành để các vụ
làm việc với các đầu mối kế hoạch.
Trong bước này, các vụ chuyên
ngành chủ trì phối hợp với các vụ kế hoạch của các bộ, ngành, tổng công ty 91,
Vụ Kinh tế Địa phương và Lãnh thổ chủ trì phối hợp với các Sở Kế hoạch và Đầu
tư các tỉnh, thành phố... để dự thảo kế hoạch của các bộ, ngành, tổng công ty
91, các tỉnh, thành phố; chuẩn bị để lãnh đạo Bộ làm việc với các bộ, ngành, tổng
công ty 91, các tỉnh, thành phố.
Bước 2 là bước tổng hợp kế hoạch.
Trên cơ sở làm việc với các đơn vị đầu mối kế hoạch, từng vụ theo chức năng của
mình, phải chủ động tổng hợp và xây dựng kế hoạch 5 năm, hàng năm của ngành, lĩnh
vực, địa phương, trong đó tập trung vào 3 vấn đề chủ yếu sau:
- Đánh giá tình hình thực hiện kế
hoạch;
- Phương hướng, nhiệm vụ, mục
tiêu và các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch;
- Đề xuất các biện pháp thúc đẩy
thực hiện kế hoạch, khả năng huy động các nguồn vốn, những kiến nghị bổ sung hoặc
sửa đổi cơ chế, chính sách.
Kế hoạch của các Vụ chuyên ngành
được báo cáo với lãnh đạo Bộ, đồng thời được gửi cho Vụ Tổng hợp KTQD. Vụ Tổng
hợp KTQD trên cơ sở kế hoạch ngành và lãnh thổ do các vụ gửi tới, sẽ rà soát lại
các chỉ tiêu, những cân đối chủ yếu và cơ cấu ngành, lĩnh vực, để hình thành dự
thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trình lãnh đạo Bộ thông qua và chuẩn
bị để Bộ báo cáo cho các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
Giai đoạn 3 là giai đoạn giao
kế hoạch. Kế hoạch hàng năm được giao theo trình tự sau:
- Chuẩn bị giao kế hoạch: Các vụ
chuẩn bị những nội dung giao kế hoạch cho các đơn vị đầu mối kế hoạch và trao đổi
tài liệu cho nhau theo hệ thống chỉ tiêu đã trình Thủ tướng Chính phủ; đồng thời
theo dõi quá trình phân bổ chỉ tiêu giữa các vụ liên quan để kịp bổ xung, điều
chỉnh cho phù hợp; bảo đảm để khi kế hoạch được Quốc hội thông qua là có thể
giao ngay kế hoạch chính thức.
Vụ Tổng hợp KTQD chủ trì chuẩn
xác lại hệ thống chỉ tiêu giao kế hoạch hàng năm (bao gồm chỉ tiêu Thủ tướng
Chính phủ giao và chỉ tiêu do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao theo uỷ quyền
của Thủ tướng Chính phủ) báo cáo Lãnh đạo Bộ.
- Giao kế hoạch: Các vụ chuyên
ngành chủ trì thống nhất với các vụ khác hình thành tập chỉ tiêu giao kế hoạch
cho cho các bộ, ngành, tổng công ty 91, Vụ Kinh tế Địa phương và Lãnh thổ chủ
trì thống nhất với các vụ liên quan hình thành tập chỉ tiêu giao cho các địa
phương, trình lãnh đạo Bộ và gửi cho Vụ Tổng hợp KTQD. Vụ Tổng hợp KTQD tổng hợp
những vấn đề vướng mắc mới phát sinh trong quá trình chuẩn bị giao kế hoạch,
báo cáo lãnh đạo Bộ để xử lý.
- Rà soát lại lần cuối và trình
Thủ tướng Chính phủ: Vụ Tổng hợp KTQD có trách nhiệm rà soát lại lần cuối các tập
chỉ tiêu giao kế hoạch do các vụ đã xử lý để báo cáo Lãnh đạo Bộ và trình Thủ
tướng Chính phủ quyết định. Vụ Tổng hợp KTQD phối hợp với Vụ Kinh tế Địa phương
và Lãnh thổ và các Vụ, Viện liên quan chuẩn bị cho hội nghị phổ biến và giao kế
hoạch.
Giai đoạn 4 là
giai đoạn theo dõi quá trình giao và triển khai thực hiện kế hoạch.
Sau khi đã giao kế hoạch cho các
đơn vị đầu mối kế hoạch, các vụ chuyên ngành sẽ theo dõi sát quá trình triển
khai giao kế hoạch đến tận cơ sở. Nếu phát hiện có những bất hợp lý hoặc sai
sót, cần báo cáo kịp thời để điều chỉnh. Việc theo dõi thực hiện kế hoạch được
phân theo quý, 6 tháng, 9 tháng và ước thực hiện cả năm. Vụ Tổng hợp KTQD tổng
hợp chung báo cáo lãnh đạo Bộ và chuẩn bị để Bộ báo cáo Chính phủ.
Mặt khác, do yêu cầu của công tác điều hành thực hiện kế hoạch trong cơ
chế kinh tế thị trường, theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ, các vụ có
trách nhiệm thường xuyên liên hệ với các vụ thuộc Bộ, địa phương liên quan và
các tổng công ty lớn để chuẩn bị các báo cáo nhanh 2 tuần, 1 tháng về một số lĩnh
vực được phân công, gửi cho Vụ Tổng hợp KTQD tổng hợp, báo cáo kịp thời, đảm bảo
có giải pháp xử lý.
2) Quy trình xây dựng kế hoạch hàng năm
a) Quy trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã
hội
Nói một cách khái quát, việc xây dựng và tổng hợp kế hoạch hàng năm được
thực hiện qua 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch năm hiện tại, dự báo mục tiêu
phát triển và một số chỉ tiêu, chính sách phát triển cho năm tới... Đây là giai
đoạn xây dựng khung kế hoạch năm. Ví dụ trong tháng 5 tới đây, để chuẩn bị cho
việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2007, cần xây dựng khung
kế hoạch năm, bắt đầu bằng đánh giá khả năng thực hiện kế hoạch năm 2006.
Giai đoạn 2: Xây dựng và tổng hợp kế hoạch năm tiếp sau, ví dụ từ tháng 8 tới, sẽ tổ
chức xây dựng và tổng hợp kế hoạch năm 2007.
Trên cơ sở xây dựng và tổng hợp kế hoạch hàng năm, sẽ biên soạn báo cáo
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm.
Về mặt kỹ thuật, có thể phân chia nội dung cụ thể của các giai đoạn xây
dựng kế hoạch hàng năm như sau:
2.1) Giai đoạn 1: Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch năm hiện
tại:
Mục tiêu chủ yếu của giai đoạn này là dự báo, đánh giá tình hình (khả
năng) thực hiện các mục tiêu và các chỉ tiêu của kế hoạch đề ra cho năm trước,
trong đó phải làm rõ những việc đã làm được và những việc chưa làm được, tìm ra
những nguyên nhân thành công và thất bại... Ở tầm kinh tế vĩ mô, cần phải phân
tích tình hình phát triển các ngành và lĩnh vực chủ yếu, phân tích các mối quan
hệ liên ngành, liên lĩnh vực để chỉ ra những nguyên nhân sâu xa, cơ bản và là
nguồn gốc chủ yếu của thành công và thất bại. Ở cấp các ngành, các địa phương,
cần đánh giá kỹ những thành tựu đã đạt được, nhất là những cơ sở vật chất kỹ
thuật tăng thêm do thực hiện các chương trình đầu tư, trong đó chú trọng xem
xét đánh giá kết quả và hiệu quả của các chương trình đầu tư công cộng. Đánh
giá không chỉ khoanh trong các nội dung kinh tế mà phải bao gồm cả các nội dung
xã hội, môi trường...
Một số nội dung chính cần phân tích, đánh giá là:
(1) Khái quát về bối cảnh thực hiện kế hoạch, nhất là tình hình trong nước
và quốc tế có diễn ra như dự kiến không; những biến động của tình hình quốc tế,
giá cả trên thị trường thế giới, thiên tai phát sinh ngoài dự kiến đã ảnh hưởng
như thế nào tới tăng trưởng kinh tế và thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra
trong kế hoạch năm.
(2) Đánh giá khả năng thực hiện các mục tiêu ổn định và phát triển kinh
tế, xã hội, gồm đánh giá khái quát việc thực hiện các mục tiêu chính như tăng
trưởng cao, bền vững và có hiệu quả; ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô; đảm bảo
thực hiện mục tiêu thu ngân sách...; đánh giá cụ thể hơn tình hình phát triển
các ngành, lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường...
(3) Đánh giá khả năng thực hiện các chủ trương, chính sách kinh tế lớn
đã đề ra trong kế hoạch, gồm khả năng phát triển các ngành nghề, chuyển đổi cơ
cấu kinh tế; khả năng phát triển kinh tế đối ngoại, nhất là xuất khẩu; khả năng
huy động các nguồn vốn vào đầu tư phát triển; khả năng thực hiện những cân đối
lớn; khả năng phát triển những lĩnh vực xã hội, nhất là công tác xoá đói giảm
nghèo, bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên môi trường...
(4) Đánh giá công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch của Chính phủ,
các Bộ, ngành Trung ương và địa phương.
(5) Đánh giá khái quát lại toàn bộ thực trạng kinh tế, xã hội của đất nước,
vùng, địa phương sau 1 năm thực hiện kế hoạch, trong đó nhấn mạnh các thành tựu
và các yếu điểm lớn để rút ra bài học cho giai đoạn kế hoạch hoá phát triển năm
sau; đánh giá vị thế của đất nước so với các nước trong khu vực và thế giới...
2.2) Giai đoạn 2: Xây dựng và tổng hợp kế hoạch năm tiếp sau:
Đây là giai đoạn nặng nề nhất trong quy trình xây dựng kế hoạch hàng
năm. Giai đoạn này gồm nhiều bước, song có thể phân ra thành một số bước như
sau:
a) Bước 1: Xây dựng khung kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội năm
Trên tầm vĩ mô, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xác định các chỉ tiêu tổng hợp phát
triển kinh tế xã hội trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch năm trước
và những dự báo mang tính liên ngành có xét đến những điều kiện phát triển của
các ngành, các lĩnh vực, các vùng lãnh thổ trong năm kế hoạch.
Nhìn chung, số liệu tính toán trong bước này là số liệu dự báo. Các dự
báo có thể được thực hiện theo nhiều phương pháp, trong đó có hai phương pháp
cơ bản là:
- Dự báo theo phương pháp chuyên gia. Phương pháp này chủ yếu được áp dụng
khi dự báo các chỉ tiêu cấp ngành (kinh tế, xã hội, môi trường),
- Dự báo theo phương pháp sử dụng các mô hình toán kinh tế. Phương pháp
này chủ yếu được áp dụng khi dự báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.
Ở bước này, ít nhất cũng sẽ phải xác định được một số chỉ tiêu cơ bản
sau:
- Xác định tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) toàn nền
kinh tế nói chung và GDP từng ngành nói riêng. Xác định GDP của năm kế hoạch
theo giá so sánh và giá hiện hành, trong đó có dự báo cụ thể giá trị gia tăng của
các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Xác định cơ cấu GDP theo ngành
theo giá hiện hành.
- Xác định các cân đối lớn của nền kinh tế, gồm cân đối tích luỹ - tiêu
dùng, cân đối thu - chi ngân sách nhà nước, cân đối xuất - nhập khẩu, cân đối
cán cân thanh toán quốc tế, cân đối vốn đầu tư xây dựng cơ bản, cân đối cung -
cầu một số sản phẩm chính.
- Xác định một số mục tiêu về xã hội, môi trường như giảm tốc độ tăng
trưởng dân số, khả năng tạo thêm việc làm, phát triển sự nghiệp y tế, giáo dục,
đổi mới công nghệ và bảo vệ môi trường để đảm bảo duy trì khả năng phát triển bền
vững.
Trong tính toán cân đối hạch toán quốc gia của kế hoạch hàng năm, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư đã đi theo đồng thời hai cách tiếp cận: Tiếp cận cầu và tiếp cận
cung.
(1) Cân đối hạch toán quốc gia theo cách tiếp cận cầu: khâu đầu tiên là dự kiến các khả năng tăng trưởng tiêu dùng bình quân
đầu người và dự báo khả năng tăng trưởng dân số để xác định quy mô dân số bình
quân, để trên cơ sở đó dự báo tốc độ tăng trưởng và giá trị tuyệt đối của quỹ
tiêu dùng của dân cư.
Trong khâu thứ hai, căn cứ vào dự báo tiến triển của cơ cấu giữa tích luỹ
và tiêu dùng, và từ quỹ tiêu dùng đã xác định ở khâu trên, sẽ ước tính được quỹ
tích luỹ và tổng nhu cầu tích luỹ, tiêu dùng cho kế hoạch năm tới; chỉ tiêu này
được gọi là tổng nhu cầu nội địa.
Trong khâu thứ ba, sẽ dự báo khả năng thay đổi cơ cấu giữa nhu cầu nội địa,
gồm quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng, với nhu cầu từ bên ngoài, thể hiện bằng chỉ
tiêu chênh lệch xuất - nhập khẩu. Từ cơ cấu này và nhu cầu nội địa tính ở khâu
2, sẽ xác định được tổng sản phẩm trong nước (GDP) toàn nền kinh tế theo công
thức:
GDP = Tích luỹ +
Tiêu dùng + Chênh lệch xuất nhập khẩu
(1)
Từ giá trị GDP xác định ở trên, sẽ tính được tốc độ tăng trưởng GDP năm
tới.
Khâu cuối cùng trong tính toán cân đối hạch toán quốc gia theo tiếp cận
cầu là tính toán phân tích hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư. Từ tổng quỹ tích luỹ tính được trong bước 2, căn cứ vào dự báo
thay đổi cơ cấu giữa tích luỹ tài sản cố định và tích luỹ tài sản lưu động, sẽ
ước tính được giá trị tích luỹ tài sản cố định hàng năm và tổng nhu cầu vốn đầu
tư toàn xã hội. Từ đây, tính được hệ số vốn - sản phẩm (ICOR) để phân tích thay
đổi hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (trong tính toán cân đối của kế hoạch 5 năm).
(2) Cân đối hạch toán quốc gia theo cách tiếp cận cung: ở khâu thứ nhất, cần xác định khả năng tăng trưởng các sản phẩm và khu
vực chính trong ba ngành kinh tế tổng hợp là công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
Trong khâu thứ hai, sẽ dự báo tốc độ phát triển của ba ngành này và tổng hợp lại
thành phương án tăng trưởng tổng sản phẩm chung toàn nền kinh tế (GDP). Điểm đặc
biệt trong cách tiếp cận cung là không dự kiến thay đổi cơ cấu kinh tế mà xác định
thay đổi cơ cấu kinh tế trực tiếp từ dự báo khả năng phát triển sản xuất từng
ngành, từng loại sản phẩm chính.
Khâu thứ ba là dự báo tổng hợp nhu cầu vốn cho phát triển các sản phẩm
và các ngành kinh tế, sau đó so sánh với giá trị ICOR dự báo cho ngành để cân đối
lại nhu cầu vốn. Cũng trong khâu này, sẽ ước tính tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã
hội, trong đó chia ra nguồn vốn từ ngân sách, nguồn vốn tín dụng nhà nước, vốn
doanh nghiệp nhà nước, vốn của các doanh nghiệp tư nhân và dân cư trong nước và
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Dự báo cung và cầu, vận động và giải ngân vốn
ODA và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng được thực hiện trong khâu này.
(3) Cân đối chung các kết quả thu được từ hai cách tiếp cận cung và cầu:
Sau khi xây dựng các phương án phát triển theo hai tiếp cận cung và cầu,
cần phải lựa chọn phương án đảm bảo sự khớp nhau theo hai cách tiếp cận. Chính
trong bước này, sẽ chọn được phương án phát triển có tốc độ tăng trưởng GDP hợp
lý nhất, đảm bảo được tính phát triển bền vững, cân đối giữa cung và cầu theo
hai cách tiếp cận, đồng thời cũng đáp ứng được các nhu cầu cải thiện điều kiện
sống, giảm thất nghiệp và ổn định cán cân thanh toán quốc tế. Phương án này được gọi là phương án cơ bản.
Trong thực tế, khi so sánh các phương án phát triển theo hai tiếp cận
cung và cầu, thường xảy ra trường hợp không khớp nhau, ví dụ phương án xây dựng
theo tiếp cận cung cho tốc độ tăng trưởng GDP là 7,5% trong khi phương án xây dựng
theo tiếp cận cầu cho tốc độ tăng trưởng GDP là 8%. Khi đó, tại các nước đang
phát triển, người ta thường nghiêng về chọn phương án phát triển theo tiếp cận
cung.
Điều này cũng rất hợp lý trong trường hợp ở nước ta, vì tăng trưởng sản
xuất thường khó hơn nhiều so với tăng trưởng tiêu dùng nên khi xây dựng phương
án thấp, cần lấy cung làm gốc để điều chỉnh tiêu dùng; tức là khi so sánh các kết
quả thu được từ hai cách tiếp cận cung và cầu, kết quả thu được từ cách tiếp cận
cung được coi là phù hợp hơn, đáng tin cậy hơn vì độ chắc chắn khi thực hiện
cao hơn. Nếu chọn phương án tăng trưởng tính từ tiếp cận cung, với giả định khả
năng tăng trưởng của các ngành thấp hơn so với phương án tính từ tiếp cận cầu,
sẽ phải tiến hành điều chỉnh lại các chỉ tiêu tích luỹ, tiêu dùng... trong cân
đối kinh tế vĩ mô cho phù hợp với phương án này.
Ngoài ra, trong xây dựng các phương án kế hoạch phát triển, thường phải
có phương án dự phòng để chủ động đối phó với các tình huống thuận hoặc không
thuận có thể xảy ra. Mặt khác, mặc dù có thể đề ra 2 phương án dự phòng chủ yếu
là phương án tăng trưởng cao và phương án tăng trưởng thấp so với phương án cơ
bản, song trên thực tế khi xây dựng kế hoạch, tuỳ theo dự báo biến động môi trường
theo hướng tích cực hay bất lợi có nhiều khả năng xảy ra hơn mà ưu tiên chọn
phương án tăng trưởng cao hay thấp làm phương án dự phòng.
(4) Tính toán các cân đối khác
Sau giai đoạn dự báo khả năng tăng trưởng GDP, tốc độ phát triển của các
ngành và các cân đối lớn trong khuôn khổ cân đối hạch toán quốc gia trong
đó có dự báo cân đối vốn đầu tư, sẽ chuyển sang thực hiện các dự báo các cân đối
cụ thể hơn gồm cân đối xuất - nhập khẩu, cân đối thu - chi ngân sách, cân đối
cung - cầu tiền tệ, cân đối vay và trả nợ nước ngoài...
- Về cân đối ngân sách nhà nước: dự báo nguồn thu ngân sách nhà nước chủ yếu căn cứ
vào dự báo tỷ lệ huy động thuế và phí trên GDP trong khi tỷ lệ này được dự báo
căn cứ vào khả năng tăng trưởng kinh tế, khả năng biến động giá cả và chính
sách thu ngân sách sẽ áp dụng. Trong các tính toán chi tiết, có thể dự báo thu
ngân sách theo các bộ phận cấu thành chính như thu nội địa (thu từ khu vực
DNNN, thu từ khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thu ngoài quốc
doanh...), thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu và thu từ dầu thô.
Dự báo nguồn chi ngân sách nhà nước căn cứ vào nhu cầu chi ngân sách cho
đầu tư phát triển đã xác định trong bước xác định nguồn vốn đầu tư, và hai
thành phần khác là nhu cầu chi thường xuyên (trong đó thành phần chính là chi
tiền lương) và chi trả nợ - viện trợ. Chi thường xuyên được xác định căn cứ vào
nhu cầu chi các khoản lớn và khả năng cân đối thu - chi ngân sách (tức là mức bội
chi ngân sách dự kiến). Chi trả nợ - viện trợ được tính toán căn cứ vào tình
hình nợ tồn đọng, tiến độ trả nợ và yêu cầu viện trợ.
Trong những năm gần đây, bội chi ngân sách thường được xác định trước
(khoảng 5% GDP) nên tổng chi ngân sách được xác định bằng tổng của thu ngân
sách và bội chi ngân sách. Bội chi ngân sách được bù đắp bằng hai nguồn chính:
vay trong nước (thông qua phát hành trái phiếu chính phủ) và vay nước ngoài.
- Về xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế: Dự báo tổng
giá trị xuất khẩu được xây dựng căn cứ vào dự báo khả năng xuất khẩu các sản phẩm
chính trong khi khả năng xuất khẩu các sản phẩm này được dự báo căn cứ vào dự
báo phát triển sản xuất các sản phẩm dùng để xuất khẩu đã thực hiện theo cách
tiếp cận cung và dự báo nhu cầu của thị trường quốc tế. Ngoài dự báo căn cứ vào
khả năng xuất khẩu các sản phẩm chính, trong giai đoạn xây dựng khung kế hoạch,
có thể dự báo theo xu thế, dựa trên mô hình kinh tế lượng vĩ mô, trong đó tổng
kim ngạch xuất khẩu năm tới được xác định căn cứ vào tăng trưởng kinh tế trong
nước, biến động giá cả trong nước và quốc tế, biến động tỷ giá và tăng trưởng
kinh tế của các nước bạn hàng và đối tác chính.
Tương tự như đối với xuất khẩu, dự báo giá trị nhập khẩu được thực hiện
căn cứ vào nhu cầu nhập từng loại hàng hoá phục vụ các phương án phát triển đề
ra. Mặt khác, ngoài dự báo căn cứ vào nhu cầu khẩu các sản phẩm chính, trong
giai đoạn xây dựng khung kế hoạch, có thể dự báo theo xu thế, dựa trên mô hình
kinh tế lượng vĩ mô, trong đó tổng kim ngạch nhập khẩu năm tới được xác định
căn cứ vào tăng trưởng kinh tế trong nước (cầu nội địa), biến động giá cả trong
nước và quốc tế, biến động tỷ giá (quan hệ cạnh tranh về giá giữa sử dụng hàng
trong nước hay hàng nhập khẩu).
Chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hoá được đưa vào cân đối:
+ Cân đối hạch toán quốc gia trong phương trình cân bằng tổng quát (1)
nêu trên, trong đó chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hoá được bổ sung thêm chênh lệch
xuất nhập khẩu dịch vụ để tạo ra chênh lệch xuất nhập khẩu trong phương trình
cân bằng tổng quát (1).
+ Cân đối cán cân thanh toán quốc tế, trong đó chênh lệch xuất nhập khẩu
(thống nhất tính theo giá FOB) là một thành phần của cán cân thanh toán vãng
lai. Trong tính toán cân đối cán cân thanh toán quốc tế, sẽ đưa vào các chỉ
tiêu như chuyển thu nhập bằng tiền từ trong nước ra nước ngoài, giải ngân vốn
ODA, FDI và các nguồn vốn khác... để xác định cân bằng cán cân thanh toán quốc
tế tổng thể. Từ cân bằng tổng thể, sẽ xác định được cân đối nợ nước ngoài, vay
và trả nợ nước ngoài cũng như dự trữ quốc tế.
(5) Xây dựng khung kế hoạch năm
Sau khi hoàn thành việc tính toán các cân đối vĩ mô của nền kinh tế, sẽ
chuyển sang xây dựng khung kế hoạch năm chi tiết. Nội dung chi tiết của khung kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội sẽ được trình bày trong chương sau. Tuy
nhiên, nói một cách khái quát, khung kế hoạch là dự thảo thô, ban đầu của kế hoạch
năm, do Trung ương xây dựng dựa trên các thông tin của Trung ương có, nhằm đưa
ra bức tranh khái quát về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch năm tới
sao cho có thể góp phần đạt được mục tiêu tổng quát, những mục tiêu và nhiệm vụ
chủ yếu, những cân đối cơ bản và những định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực
và vùng kinh tế đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm đã được
Đảng và Quốc hội thông qua.
Nhiệm vụ xây dựng khung kế hoạch được Chính phủ giao cho Bộ Kế hoạch và
Đầu tư tổ chức thực hiện. Để thực hiện nhiệm vụ này, các đơn vị trong Bộ Kế hoạch
và Đầu tư theo chức năng, nhiệm vụ của mình và căn cứ vào các chỉ tiêu chủ yếu
đã được đề ra trong các bước trên, sẽ nghiên cứu, xây dựng dự thảo thô về
phương án phát triển các ngành, lĩnh vực và vùng kinh tế mà mình phụ trách, gửi
về Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân để tổng hợp thành khung kế hoạch chung.
b) Bước 2: Các Bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch
Trong bước này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tổ chức Hội nghị toàn ngành kế
hoạch và đầu tư để thông báo cho các Bộ, ngành, tổng công ty và các địa phương
những thông tin về dự kiến kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội toàn
quốc, đồng thời hướng dẫn các Bộ, ngành, tổng công ty và địa phương xây dựng kế
hoạch. Tiếp đó, các Bộ, ngành, tổng công ty và địa phương trên cơ sở đánh giá lại
nguồn lực phát triển của mình, sẽ xây dựng kế hoạch phát triển của Bộ, ngành, tổng
công ty và địa phương có kèm theo các bước thực hiện cụ thể. Dự thảo kế hoạch của
các Bộ, ngành, tổng công ty và địa phương được gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư để
tổng hợp thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, đồng thời
được trình qua các cấp quản lý (Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng nhân dân) để
thông qua.
Nội dung khung kế hoạch năm báo cáo tại Hội nghị toàn ngành kế hoạch và
đầu tư thường bao gồm các thông tin chính sách:
- Đánh giá khả năng thực hiện kế hoạch năm trước;
- Phương hướng phát triển chung của nền kinh tế - xã
hội trong năm tới;
- Khả năng huy động và phương hướng sử dụng các nguồn
lực phát triển;
- Các chính sách có thể ban hành và đưa vào áp dụng
trong năm tới;
- Hướng dẫn các Bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương xây dựng kế hoạch, trong đó nêu rõ tiến độ thực hiện
- Phụ lục các biểu mẫu về sản xuất, đầu tư, xã hội,
môi trường... để các Bộ, ngành, tổng công ty và địa phương tính toán và điền
thông tin, gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với báo cáo dự thảo kế hoạch của các Bộ, ngành, tổng công ty và địa
phương.
Trong bước này, các bộ, ngành trung ương và tổng công ty lớn với chức
năng quản lý nhà nước của mình, có nhiệm vụ xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát
triển toàn ngành, tổng hợp, xử lý và tối ưu hoá các phương án kế hoạch xây dựng
từ các tổng công ty, các công ty, các đơn vị sản xuất kinh doanh khác.
Ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Ủy ban nhân dân đứng đầu là
chủ tịch tỉnh, thành phố, có nhiệm vụ tổ chức nghiên cứu quy hoạch và kế hoạch
phát triển của địa phương. Sở Kế hoạch và Đầu tư vừa là ngành dọc của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, vừa có nhiệm vụ tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trong
việc kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mình. Các sở, ban
ngành chuyên môn khác của tỉnh, thành phố với chức năng của mình trên địa
phương, sẽ tham gia xây dựng kế hoạch chi tiết cho lĩnh vực chuyên môn của
mình, có tham khảo ý kiến của các bộ, ngành dọc ở trung ương.
Bản dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương được tổng hợp từ các phương án kế hoạch của các sở, ban, ngành
và các quận, huyện xây dựng lên. Phương án kế hoạch tổng hợp sẽ được gửi lên Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đồng thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
c) Bước 3: Tổng hợp kế hoạch năm và giao kế hoạch năm
(1) Tổng hợp kế hoạch năm:
Khâu đầu tiên là chuẩn bị tổng hợp kế hoạch. Trên cơ sở các thông tin dự
báo, Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân chủ trì cùng với các vụ Tài chính - Tiền tệ,
Kinh tế Đối ngoại và Cục Đầu tư nước ngoài tính toán nhu cầu và khả năng các
nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, dự kiến bố trí cơ cấu vốn đầu tư thuộc Ngân sách
nhà nước, cơ cấu tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước và hướng đầu tư trong
khu vực doanh nghiệp và dân cư. Thông báo tổng mức vốn đầu tư của các ngành, lĩnh
vực, địa phương cho các vụ chuyên ngành để các vụ làm việc với các đầu mối kế
hoạch.
Sau khi các Bộ, ngành, tổng công ty, và các địa phương xây dựng xong kế
hoạch, các văn bản kế hoạch sẽ được gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Trên cơ sở
các kế hoạch này, các cục, vụ chuyên ngành chủ trì phối hợp với các vụ kế hoạch
của các bộ, ngành, tổng công ty 91, Vụ Kinh tế địa phương và lãnh thổ chủ trì
phối hợp với các Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh, thành phố... để cùng nghiên cứu
hoàn chỉnh dự thảo kế hoạch của các bộ, ngành, tổng công ty 91, các tỉnh, thành
phố; chuẩn bị để lãnh đạo Bộ làm việc với các bộ, ngành, tổng công ty 91, các tỉnh,
thành phố.
Khâu tiếp theo là tổng hợp kế hoạch. Trên cơ sở làm việc với các đơn vị
đầu mối kế hoạch của các bộ, ngành, tổng công ty 91 và các địa phương, từng cục,
vụ theo chức năng của mình, chủ động tổng hợp và xây dựng kế hoạch năm của
ngành, lĩnh vực, địa phương, trong đó tập trung vào 3 vấn đề chủ yếu sau:
- Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch;
- Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu và các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch;
- Đề xuất các biện pháp thúc đẩy thực hiện kế hoạch, khả năng huy động
các nguồn vốn, những kiến nghị bổ sung hoặc sửa đổi cơ chế, chính sách.
Kế hoạch của các Cục, Vụ chuyên ngành được báo cáo với lãnh đạo Bộ, đồng
thời được gửi cho Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân. Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân
trên cơ sở kế hoạch ngành và lãnh thổ do các vụ gửi tới, sẽ rà soát lại các chỉ
tiêu, những cân đối chủ yếu và cơ cấu ngành, lĩnh vực, tổng hợp, phân tích, lựa
chọn các giải pháp tối ưu để hình thành kế hoạch tổng thể phát triển nền kinh tế
quốc dân và toàn xã hội. Tiếp đó, Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân chủ trì hình
thành dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trình lãnh đạo Bộ thông qua
và chuẩn bị để Bộ báo cáo cho các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
(2) Giao kế hoạch năm
Sau khi được Quốc hội thông qua, dự thảo kế hoạch năm sẽ trở thành kế hoạch
chính thức và sẽ được thông báo dưới hình thức giao kế hoạch cho các Bộ, ngành,
tổng công ty và địa phương thực hiện. Kế hoạch năm được giao theo trình tự sau:
- Chuẩn bị giao kế hoạch: Các đơn vị chức năng trong Bộ chuẩn bị nội
dung giao kế hoạch cho các đơn vị đầu mối kế hoạch và trao đổi tài liệu cho
nhau theo hệ thống chỉ tiêu đã trình Thủ tướng Chính phủ; đồng thời theo dõi
quá trình phân bổ chỉ tiêu giữa các vụ liên quan để kịp thời điều chỉnh, bổ
sung cho phù hợp, đảm bảo khi kế hoạch được Quốc hội thông qua là có thể giao
ngay cho các đơn vị đầu mối kế hoạch.
Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân chủ trì chuẩn xác lại hệ thống các chỉ tiêu
giao kế hoạch hàng năm, gồm chỉ tiêu do Thủ tướng Chính phủ giao và chỉ tiêu do
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao (xem danh mục các chỉ tiêu trong phụ lục).
Các vụ chuyên ngành thống nhất với các vụ liên quan chuẩn bị nội dung
các biểu giao kế hoạch (gồm các chỉ tiêu và các thông tin liên quan) cho các Bộ,
ngành, tổng công ty 91, trình lãnh đạo Bộ và gửi về Vụ Tổng hợp kinh tế quốc
dân để tổng hợp.
Vụ Kinh tế địa phương và lãnh thổ chủ trì thống nhất với các vụ liên
quan hình thành tập chỉ tiêu giao kế hoạch cho các địa phương, trình lãnh đạo Bộ
và gửi về Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân.
Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân tổng hợp những vướng mắc phát sinh trong
quá trình chuẩn bị giao kế hoạch, báo cáo lãnh đạo Bộ xử lý.
- Giao kế hoạch: Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân rà soát lại lần cuối
các tập chỉ tiêu giao kế hoạch đã được xử lý, báo cáo lãnh đạo Bộ và trình Thủ
tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân phối hợp với Vụ Kinh tế địa phương và lãnh
thổ và các đơn vị liên quan chuẩn bị Hội nghị phổ biến và giao kế hoạch.
d) Bước 4: Theo dõi quá trình giao và triển khai thực
hiện kế hoạch
Sau khi đã giao kế hoạch cho các đơn vị đầu mối kế hoạch, các vụ chuyên
ngành có trách nhiệm theo dõi sát quá trình triển khai giao kế hoạch đến tận cơ
sở. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, các đơn vị đầu mối kế hoạch (Bộ,
ngành, tổng công ty, và các địa phương) phải giao xong kế hoạch trong tháng 12
để các đơn vị trực thuộc có thể triển khai thực hiện kế hoạch ngay từ đầu năm.
Khi theo dõi giao và triển khai thực hiện kế hoạch, nếu phát hiện có những
bất hợp lý hoặc sai sót, các đơn vị chức năng trong Bộ cần kịp thời báo cáo
Lãnh đạo Bộ để có công văn điều chỉnh. Việc theo dõi thực hiện kế hoạch được
phân theo quý, 6 tháng, 9 tháng và ước thực hiện cả năm. Vụ Tổng hợp kinh tế quốc
dân có trách nhiệm tổng hợp chung báo cáo lãnh đạo Bộ và chuẩn bị để Bộ báo cáo
Chính phủ.
Mặt khác, do yêu cầu của công tác điều hành thực hiện kế hoạch trong cơ
chế kinh tế thị trường, theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ, các vụ có
trách nhiệm thường xuyên liên hệ với các vụ thuộc Bộ, địa phương liên quan và
các tổng công ty lớn để chuẩn bị các báo cáo nhanh 2 tuần, 1 tháng về một số lĩnh
vực được phân công, gửi cho Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân để tổng hợp, báo cáo kịp
thời, đảm bảo có giải pháp xử lý.
Ngoài ra, Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân có trách nhiệm xây dựng kế hoạch
điều hành trong năm và cụ thể cho từng quý, trong đó xác định rõ cơ chế điều
hành, phân công phân cấp việc điều hành và theo dõi việc triển khai kế hoạch;
xây dựng các báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch hàng tháng, hàng quý, dự báo
tình hình quý sau và đề ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tiếp tục thực hiện tốt
kế hoạch.
b) Tiến độ và thời gian tổng hợp và giao kế hoạch năm
Căn cứ vào tiến độ thông qua kế hoạch ngân sách và kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội được quy định trong Luật Ngân sách nhà nước, tiến độ xây dựng
và giao kế hoạch hàng năm được thực hiện như sau:
Từ tháng 4 hàng năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành các nội dung của bước
1 trong quy trình chung nêu ở trên, trong đó tập trung vào việc xây dựng khung
kế hoạch.
Vào đầu tháng 6 hàng năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin ý kiến chỉ đạo của
Chính phủ về nội dung đề ra trong khung kế hoạch năm sau và tổ chức hội nghị
ngành để hướng dẫn xây dựng kế hoạch.
Từ đầu tháng 7 đến giữa tháng 8 hàng năm: các đơn vị đầu mối kế hoạch
xây dựng kế hoạch và gửi kế hoạch tới Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Trong thời gian
này, các đơn vị chức năng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư bố trí làm việc trực tiếp với
một số đơn vị đầu mối kế hoạch của các Bộ, ngành, tổng công ty 91 và các địa
phương.
Từ giữa tháng 8 đến đầu tháng 9 hàng năm: Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp
kế hoạch và tiếp tục làm việc với các đơn vị đầu mối kế hoạch.
Từ đầu tháng 9 đến kỳ họp Quốc hội tháng 10: Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn
chỉnh báo cáo trình các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đồng thời bố trí chỉ
tiêu kế hoạch giao cho các đơn vị đầu mối kế hoạch trình cấp trên.
Trong tháng 11, Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư
giao kế hoạch cho các đơn vị đầu mối kế hoạch.
Trong tháng 12, các đơn vị đầu mối kế hoạch tổ chức giao kế hoạch cho
các đơn vị trực thuộc.
d) Nhu cầu thông tin phục vụ xây dựng việc xây dựng kế
hoạch hàng năm và báo cáo năm
Trong mục I, chúng ta đã xem xét quy trình xây dựng kế hoạch năm làm cơ
sở để xây dựng báo cáo năm. Tuy nhiên, đề thực hiện được quy trình này, một
trong những yêu cầu đầu tiên là phải có một hệ thống thông tin cần thiết. Thực
tiễn công tác xây dựng các báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng
năm tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy để có được hệ thống thông tin tốt, đáp ứng
yêu cầu xây dựng báo cáo năm, cần triển khai những việc quan trọng sau:
- Lựa chọn và điều tra thu thập được hệ thống các chỉ tiêu và thông tin
cần thiết, không lãng phí nhưng phải đủ để phục vụ công tác xây dựng và điều
hành kế hoạch năm;
- Quan hệ trao đổi thông tin giữa các cơ quan trong ngành kế hoạch và với
các cơ quan tổng hợp khác phải nhịp nhàng, đồng bộ và theo những tiêu chí dự kiến
trước;
- Có một hệ thống máy tính mạnh, được nối mạng và có các chương trình tổ
chức, truyền thông tin qua máy tính đủ năng lực để đảm bảo cung cấp, truyền tải
thông tin và bảo đảm bí mật, an toàn thông tin.
Hiện nay, công tác tổ chức thông tin theo các yêu cầu trên vẫn chưa được
đảm bảo. Đến nay, mới thực hiện được một số nội dung sau:
1) Thông tin phục vụ xây dựng báo cáo hàng năm
a) Đặc điểm thông tin:
(1) Thông tin quá khứ
Thông tin phục vụ xây dựng báo cáo hàng năm là loại thông tin phản ánh tình hình kinh tế- xã hội
theo từng năm của từng ngành, lĩnh vực. Hệ thống thông tin liên kết nhiều năm sẽ
hình thành các dãy số liệu theo năm.
Hiện nay, hệ thống
thông tin quá khứ hàng năm được chia thành 3 loại:
- Loại thông tin
ước tính
- Loại thông tin
sơ bộ
- Loại thông tin
chính thức.
Ví dụ: Trong quy trình tính toán và công bố số liệu về tổng sản phẩm
trong nước (viết tắt là GDP) và tốc độ tăng trưởng kinh tế (tốc độ tăng trưởng
GDP) của Tổng cục Thống kê, GDP và tốc độ tăng trưởng GDP thường được tính toán
nhiều lần, trong đó:
- Lần đầu (vào khoảng tháng 9-10 trong năm kế hoạch): Tổng cục Thống kê
ước tính khả năng thực hiện GDP cả năm trên cơ sở thông tin ước tính GDP 9
tháng đầu năm và dự báo khả năng tăng trưởng kinh tế 3 tháng cuối năm; đây là số
liệu "ước tính". Số liệu GDP này được Chính phủ báo cáo Quốc hội
trong báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm và dự kiến kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm sau tại kỳ họp Quốc hội cuối năm (báo cáo năm do Bộ Kế
hoạch và Đầu tư chuẩn bị).
- Lần thứ hai (vào khoảng tháng 3-4 năm sau): Tổng cục Thống kê căn cứ
vào thông tin sơ bộ về tình hình phát triển kinh tế - xã hội cả năm trước sẽ
tính lại GDP, công bố trong Niên giám thống kê năm tương ứng, trong đó số liệu
GDP và tốc độ tăng trưởng GDP được ghi rõ là "sơ bộ". Số liệu
này sẽ được Chính phủ báo cáo Quốc hội tại kỳ họp đầu năm của Quốc hội trong
báo cáo bổ sung tình hình thực hiện kế hoạch năm trước và triển khai thực hiện
nhiệm vụ kế hoạch năm kế hoạch (năm hiện tại).
- Lần thứ ba (vào khoảng cuối năm sau): Tổng cục Thống kê căn cứ vào
thông tin chính thức về tình hình phát triển kinh tế - xã hội cả năm trước sẽ
tính lại GDP năm trước, công bố trong Niên giám thống kê năm tiếp sau, trong đó
số liệu GDP và tốc độ tăng trưởng GDP đã là số chính thức nên không còn
được chú thích là "sơ bộ". Sau khi số liệu chính thức được ban hành
thì các số liệu ước hay sơ bộ của cùng chỉ tiêu sẽ không còn giá trị hiệu lực.
Để hiểu rõ hơn,
có thể minh họa quy trình trên qua các số liệu thống kê tốc độ tăng trưởng GDP
những năm gần đây như sau:
Năm 2004:
- GDP năm 2004 được ước lượng lần đầu vào tháng 9-10/2004 và được báo
cáo Quốc hội tại kỳ họp cuối năm (tháng 10-11/2004). Theo ước lượng lần đầu, tốc
độ tăng trưởng GDP năm 2004 là 7,6%;
- GDP năm 2004 được ước lượng lần hai vào tháng 4/2005 và được báo cáo
Quốc hội tại kỳ họp đầu năm 2005 (tháng 5/2005). Theo ước lượng lần hai, tốc độ
tăng trưởng GDP năm 2004 là 7,69% (làm tròn số là 7,7%). Số này được công bố
trong niên giám thống kê 2004 xuất bản vào tháng 8/2005, trong đó có ghi chú là
số "sơ bộ".
- GDP năm 2004 được ước lượng lần cuối vào cuối năm 2005 và được báo cáo
Quốc hội tại kỳ họp cuối năm 2005 (trong các bảng phụ lục của Báo cáo của Chính
phủ trình Quốc hội về tình hình thực hiện kế hoạch năm 2005 và kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm 2006). Theo ước lượng lần ba, tốc độ tăng trưởng GDP
năm 2004 là 7,79%. Số này là số chính thức, sẽ được công bố trong niên giám thống
kê 2005 dự kiến xuất bản vào tháng 8/2006, trong đó không còn ghi chú là số
"sơ bộ".
Năm 2005:
- GDP năm 2005 được ước lượng lần đầu vào tháng 9-10/2005 và được báo
cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 8 vào tháng 10-11 năm nay. Theo ước lượng lần đầu,
tốc độ tăng trưởng GDP năm 2005 là 8,4%;
- GDP năm 2005 sẽ được ước lượng lần hai vào tháng 4/2006 và được báo
cáo Quốc hội tại kỳ họp đầu năm 2006. Theo ước lượng lần hai, tốc độ tăng trưởng
GDP năm 2004 là 8,43%. Số này sẽ được công bố trong niên giám thống kê 2005 xuất
bản vào tháng 7-8/2006, trong đó có ghi chú là số "sơ bộ".
- GDP năm 2005 sẽ được ước lượng lần cuối vào cuối năm 2006, trở thành số
chính thức và sẽ được báo cáo Quốc hội tại kỳ họp cuối năm 2006.
(2) Thông tin dự
báo:
Ngoài nguồn thông tin trên do Tổng cục Thống kê tính toán, công bố và Bộ
Kế hoạch và Đầu tư sử dụng để xây dựng báo cáo năm, còn có nguồn thông tin quan
trọng khác do Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan chủ động tính
toán và đưa vào kế hoạch; đó là các thông tin dự báo, bào gồm 2 loại:
- Thông tin ước khả năng thực hiện kế hoạch; đây là là thông tin tính
toán căn cứ vào diễn biến tình hình kinh tế - xã hội hàng tháng, quý để dự báo
cho cả năm. Tùy thuộc nhu cầu của việc chỉ đạo điều hành của Chính phủ và Uỷ
ban nhân dân các cấp, hàng năm có thể phải ước nhiều lần. Ví dụ báo cáo 9 tháng và dự báo cho cả năm; báo cáo 10
tháng và dự báo cho cả năm; báo cáo 11 tháng và dự báo cả năm và cuối cùng là
báo cáo ước tính cả năm thường vào tháng 12 hàng năm.
- Thông tin dự báo khả năng phát triển kinh tế - xã hội năm tới, trong
đó Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự báo tất cả các chỉ tiêu khi xây dựng khung kế hoạch
năm, đồng thời chủ trì dự báo tất cả các chỉ tiêu tổng hợp của kế hoạch năm;
các Bộ, ngành liên quan dự báo các chỉ tiêu liên quan đến hoạt động của ngành
mình, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để cân đối, tổng hợp và xây dựng báo cáo chung.
(3) Thông tin kế hoạch, thông tin dự toán
Thông tin về tương lai trong các báo cáo năm được gọi là thông tin dự
báo, được trình các cơ quan có thẩm quyền thông qua. Nếu được thông qua, các
thông tin đó sẽ trở thành thông tin chính thức, thông tin kế hoạch, để triển
khai thực hiện. Nếu là các chỉ tiêu kinh tế, xã hội thông thường thì đó là
thông tin kế hoạch; nếu là thông tin ngân sách nhà nước thì được gọi là số dự
toán. Theo quan niệm hiện nay, tính pháp lệnh của số kế hoạch không cao, đa phần
là số hướng dẫn; song tính pháp lệnh của số dự toán rất cao, coi như luật do Quốc
hội thông qua và phải được thực hiện nghiêm ngặt.
Vì mục tiêu thu thập thông tin là để xây dựng báo cáo năm nên số lượng
các chỉ tiêu dự báo hoặc ước tính thường không nhiều, chỉ tập trung vào phản
ánh các mục tiêu chủ yếu và các cân đối lớn về kinh tế - xã hội của cả nước và
các địa phương.
b) Quy trình nghiệp vụ thông tin phục vụ báo cáo năm
Để giúp cho việc xây dựng và điều hành thực hiện kế hoạch hàng năm thuận
lợi, cũng như giúp cho các doanh nghiệp xác định các mục tiêu phát triển sản xuất
kinh doanh của mình trong năm tới, Chính phủ yêu cầu các Bộ và các cơ quan chức
năng khác phải nghiên cứu, đưa ra một số thông tin phân tích tình hình, thông
tin dự báo ngắn và trung hạn, từ đó xây dựng kế hoạch năm và công bố làm định
hướng và cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp, địa phương. Các thông tin này
được trao đổi định kỳ giữa các cơ quan nhà nước; nhiều thông tin được gửi về Bộ
Kế hoạch và Đầu tư.
Hiện nay, Quy trình tổ chức nghiên cứu xây dựng, tổng hợp và theo dõi thực
hiện kế hoạch trong nội bộ cơ quan Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang được nghiên cứu bổ
sung sửa đổi. Tuy nhiên, về cơ bản quy trình xây dựng các báo cáo (trong đó có
báo cáo năm) vẫn sẽ được thực hiện như sau:
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội hàng tháng, hàng quí, hàng năm gồm
hai phần: Phần phân tích đánh giá kết quả thực hiện, phương hướng và biện pháp
cho kỳ tới (thường gọi là phần lời) và phần biểu số liệu. Theo quy định, các
báo cáo này thường kỳ được gửi đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Hiện nay, do chưa
hoàn thiện hệ thống nối mạng giữa các Bộ, ngành nên các báo cáo này thường được
gửi qua đường văn thư. Trong trường hợp phải cung cấp thông tin gấp để Bộ Kế hoạch
và Đầu tư kịp thời tổng hợp thành báo cáo trình các cơ quan lãnh đạo Đảng và
Nhà nước, các Bộ, ngành, địa phương có thể gửi các báo cáo qua đường FAX hoặc
qua email. Ngoài ra, từ năm 2003 đến nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức định
kỳ hàng tháng Hội nghị giao ban sản xuất, đầu tư, thương mại tại Bộ nên cán bộ
các Bộ, ngành, địa phương tham gia Hội nghị có thể đưa trực tiếp các báo cáo
cho Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân của Bộ để xử lý.
Báo cáo hàng tháng, báo cáo quí, báo cáo năm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
được hình thành theo các bước sau đây:
- Dữ liệu thông tin đầu vào ở các Vụ chuyên ngành và bán tổng hợp của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư được thu nhận từ các Bộ chuyên ngành ở Trung ương, các Tổng
công ty 91 (thường từ Ban Kế hoạch), các Sở Kế hoạch và Đầu tư, các chi cục Thống
kê ở địa phương.
- Dữ liệu đó sau khi được các Vụ chuyên ngành và bán tổng hợp của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư xử lý và tổng hợp thành các báo cáo từng lĩnh vực thuộc chức
năng theo dõi quản lý của các Vụ chuyên ngành hoặc bán tổng hợp đó.
- Các báo cáo từng lĩnh vực của các Vụ chuyên ngành và bán tổng hợp chuyển
về Vụ Tổng hợp KTQD.
Căn cứ vào các báo cáo này và báo cáo thống kê hàng tháng, hàng quý và cả
năm do Tổng cục Thống kê cung cấp, Vụ Tổng hợp KTQD sẽ xử lý qua hệ thống thông
tin nhiều chiều, chắt lọc thành những số liệu cần thiết để hình thành các bản
báo cáo hàng tháng, hàng quý, hàng năm. Trong quá trình xử lý, Vụ Tổng hợp KTQD
phối hợp, trao đổi thông tin hai chiều với các Vụ chuyên ngành và bán tổng hợp
để chính xác lại các thông tin hoặc đề nghị bổ sung các thông tin cần thiết
khác.
2) Danh mục các loại thông tin phục vụ xây dựng báo
cáo năm
a) Các thông tin đầu vào để xây dựng báo cáo khung kế
hoạch năm và kế hoạch năm (gọi chung là kế hoạch năm)
Các thông tin đầu vào để xây dựng kế hoạch năm gồm rất nhiều loại thông
tin cần thiết cho quá trình phân tích, dự báo, tiến tới xây dựng được khung kế
hoạch năm. Trên cơ sở các kết quả phân tích, dự báo và các thông tin thu thập,
tính toán được trong quá trình xây dựng kế hoạch năm, khi xây dựng báo cáo kế
hoạch năm, chỉ cần lựa chọn một số thông tin cần thiết nhất để đưa vào báo cáo,
tránh làm báo cáo dài dòng.
Thông tin phục vụ cho việc xây dựng báo cáo kế hoạch năm là các thông
tin phản ánh trong nội dung báo cáo kế hoạch. Ngoài ra, còn phải bổ sung thông
tin về tình hình và khả năng phát triển của một số địa phương có tỷ trọng cao
trong nền kinh tế.
Một số thông tin cơ bản cần chú ý đưa vào báo cáo năm là:
(1) Thông tin về tình hình kinh tế thế giới và ảnh hưởng
của nó tới kinh tế, xã hội nước ta:
- Dự báo tình hình kinh tế thế giới và khu vực trong kỳ kế hoạch;
- Dự báo diễn biến tỷ giá giữa các đồng tiền của các nước bạn hàng chính
của nước ta và phân tích ảnh hưởng của những thay đổi đó tới tăng trưởng và ổn
định kinh tế nước ta.
- Dự báo quan hệ thương mại với các nước bạn hàng chính và quan hệ với
các tổ chức thương mại trên thế giới. Dự báo chính sách thương mại của các nước
và tổ chức này.
- Dự báo khái quát tiến triển của tình hình kinh tế vĩ mô nước ta dưới ảnh
hưởng của những tiến triển kinh tế thế giới và khu vực.
(2) Thông tin về các khả năng phát triển kinh tế vĩ mô
- Dự đoán khả năng tăng trưởng GDP, tăng trưởng các ngành và thay đổi cơ
cấu kinh tế ngành. Dự đoán tỷ lệ lạm phát;
- Ước thực hiện năm hiện tại và dự báo cho năm tới tổng nguồn vốn đầu tư
toàn xã hội, nguồn vốn ODA và FDI,
- Ước thực hiện năm hiện tại và dự báo cho năm tới khả năng thu chi ngân
sách, thâm hụt ngân sách;
- Ước thực hiện năm hiện tại và dự báo cho năm tới xuất nhập khẩu và cán
cân thanh toán quốc tế;
- Ước thực hiện năm hiện tại và dự báo cho năm tới tình hình lao động,
việc làm và tỷ lệ thất nghiệp...
(3) Thông tin về tình hình sản xuất các sản phẩm chủ yếu:
- Hiện trạng và tương lai của các sản phẩm quan trọng đối với nền kinh tế
(thông tin về cung và cầu sản phẩm, về khả năng giá cả sản phẩm);
- Các thông tin về hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh của từng sản
phẩm: Năng suất lao động, tỷ suất lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn đầu tư, tình
trạng công nghệ, khả năng cạnh tranh về chất lượng và giá cả...
- Thông tin về cung cầu các sản phẩm này trên thị trường thế giới, về
giá cả, nơi mua và bán chính...
- Một số sản phẩm cần nghiên cứu kỹ là điện thương phẩm, sắt thép, phân
bón, xi măng, xăng dầu, dầu thô, sản phẩm dệt may, lúa, chè, cà phê, cao su, gỗ,
thuỷ hải sản...
(4) Thông tin về tình hình các địa phương
Phân tích thực trạng và dự báo tình hình kinh tế, xã hội tại một số địa
bàn quan trọng, gồm một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Các chỉ tiêu cần được cung cấp và dự báo để đưa vào
báo cáo kế hoạch là:
- Tăng trưởng và cơ cấu kinh tế;
- Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp;
- Tình hình thực hiện các chương trình mục tiêu;
- Các dự án lớn, nhu cầu về vốn và dự kiến các nguồn vốn;
- Khả năng xuất khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp trên địa bàn;
- Thu và chi ngân sách trên địa bàn;
- Dân số, nguồn lao động và nhu cầu và khả năng giải quyết việc làm;
- Một số chỉ tiêu xã hội tiêu biểu cho từng địa phương.
b) Danh mục các chỉ tiêu:
Trong các bản báo cáo kế hoạch năm, cần phải đưa vào danh mục các chỉ
tiêu phản ánh được hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ mô gồm tăng trưởng, việc
làm, giá cả, cán cân xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế... Bên cạnh đó, theo
nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của từng thời kỳ, cần bổ sung thêm các chỉ
tiêu kế hoạch phản ánh các mục tiêu khác như đổi mới công nghệ và cạnh tranh,
phát triển xã hội, y tế, giáo dục và bảo vệ môi trường... Cũng tuỳ theo tình
hình cụ thể của từng kế hoạch 5 năm và hàng năm, có thể xác định thứ tự ưu tiên
giữa các mục tiêu này.
Hệ thống các chỉ tiêu phải cho phép đánh giá được tình hình phát triển
trong giai đoạn trước và khả năng phát triển trong giai đoạn mới.
Theo kinh nghiệm kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội nước ta trong thời
gian qua, cần xây dựng bố thông tin đầu vào và thông tin đầu ra theo ba nhóm vấn
đề : (i) Kinh tế; (ii) Xã hội; (iii) Môi trường. Ngoài ra, cuối các báo cáo, cần
có các bảng biểu kèm theo để tiện tra cứu, so sánh qua các năm.
Đi kèm mỗi chỉ tiêu, cũng cần phải làm rõ: (i) Nguồn thông tin; (ii)
Phương pháp thu thập thông tin; (iii) Các tiêu chí đi kèm mỗi chỉ tiêu (định
nghĩa, tần xuất, thời điểm có số ước, có số sơ bộ, có số chính thức...)
Cụ thể, có thể xác định hệ thống mục tiêu đi kèm với danh mục các chỉ
tiêu như sau cho cấp tỉnh và toàn nền kinh tế (số quá khứ và số tương lai hay số
kế hoạch):
(1) Nhóm các chỉ tiêu phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng
kinh tế:
- Tốc độ tăng trưởng GDP, chia ra các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ. Cơ cấu GDP theo giá hiện hành...
- Tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp,
- Tốc độ tăng trưởng sản xuất nông nghiệp,
- Tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ,
- Các chỉ tiêu trong phương trình cân đối GDP cho tích luỹ, tiêu dùng và
hoạt động xuất - nhập khẩu,
- GDP bình quân đầu người theo VNĐ và USD,
- Tổng vốn đầu tư của toàn nền kinh tế và so sánh với GDP,
- Hiệu quả vốn đầu tư, ví dụ chỉ tiêu ICOR...
- Sản lượng một vài sản phẩm quan trọng nhất.
(2) Nhóm các chỉ tiêu phục vụ cho mục tiêu ổn định
kinh tế:
- Tổng thu ngân sách, tổng chi ngân sách và các thành phần chính,
- Tỷ lệ bội chi ngân sách trên GDP (%),
- Tỷ lệ tiết kiệm nội địa trên GDP (%),
- Tốc độ tăng trưởng tiền tệ, tín dụng và huy động tiền gửi,
- Tốc độ tăng giá, tốc độ tăng giá một số nhóm hàng chủ yếu,
- Biến động của tỷ giá,
- Tình hình vay và trả nợ nước ngoài:
tổng số nợ nước ngoài đến cuối năm kế hoạch, tỷ lệ nợ nước ngoài trên
GDP, dịch vụ nợ trên xuất khẩu...
- Nợ trong nước của chính phủ trung ương và chính quyền các tỉnh.
(3) Nhóm các chỉ tiêu phục vụ cho mục tiêu giữ các cân
xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế trong tầm kiểm soát:
- Tốc độ tăng trưởng và kim ngạch xuất khẩu,
- Tốc độ tăng trưởng và kim ngạch nhập khẩu,
- Tổng vốn FDI và ODA cam kết và giải ngân,
- Tỷ lệ thâm hụt ngoại thương và cán cân thanh toán quốc tế trên GDP...
(4) Các chỉ tiêu phục vụ mục tiêu tạo công ăn việc
làm:
- Giải quyết việc làm cho lực lượng lao động (toàn nền kinh tế và các
ngành),
- Cơ cấu lao động làm trong ba khu vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch
vụ
- Tỷ lệ thật nghiệp ở thành thị, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông
thôn,
- Số ngày công lao động trong năm của 1 lao động ở nông thôn...
(5) Nhóm các chỉ tiêu phục vụ cho mục tiêu đổi mới công nghệ và tăng cường
năng lực cạnh tranh
- Tỷ lệ đầu tư
cho nghiên cứu phát triển
- Đổi mới công
nghệ trong một số ngành sản xuất chính
- Tăng thị phần trong nước của một số sản phẩm
chính
- Tăng tỷ trọng
xuất khẩu của một số sản phẩm chính.
(6) Nhóm các chỉ
tiêu phục vụ cho mục tiêu phát triển xã hội
- Tỷ lệ phát triển
dân số, quy mô dân số,
- Tỷ lệ học
sinh tiểu học đi học đúng độ tuổi,
- Số tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ
cập trung học cơ sở,
- Tốc độ tăng hàng năm về
quy mô giáo dục các cấp phổ thông, đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp.
- Tỷ lệ lưu ban, bỏ học.
- Số
trường dạy nghề, năng lực các trường dạy nghề,
- Tỷ lệ đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo.
- Tỷ lệ trẻ sơ sinh bị tử vong,
- Mức chênh lệch thu nhập bình quân của nhóm 20% thu nhập thấp nhất so với
nhóm 20% có thu nhập cao nhất,
- Tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng,
- Số gường bệnh / 10 vạn dân,
- Tỷ lệ xã có bác sĩ,
- Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học không đến trường.
(7) Nhóm các chỉ tiêu phục vụ cho mục tiêu bảo vệ,
phát triển tài nguyên và môi trường, đảm bảo phát triển bền vững
- Tỷ lệ che phủ rừng.
- Tỷ lệ
áp dụng công nghệ sạch hoặc được trang bị các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm, đảm
bảo xử lý chất thải: tỷ lệ đô thị loại 3 trở lên, tỷ lệ đô thị loại 4 và tỷ lệ
các cơ sở sản xuất mới, xây dựng phải áp dụng công nghệ sạch hoặc được trang bị
các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm, đảm bảo xử lý chất thải,
- Tỷ lệ
các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn môi trường, tỷ lệ các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ
thống xử lý nước thải tập trung; tỷ lệ
chất thải rắn thông thường, tỷ lệ chất
thải nguy hại và tỷ lệ chất thải y tế...
được xử lý
- Tỷ lệ dân cư thành thị và tỷ lệ dân cư ở nông thôn sử dụng nước sạch.
.....
Tuỳ theo yêu cầu
đặt ra cho bản báo cáo và quy mô cấp trung ương hay cấp tỉnh, có thể chọn những
chỉ tiêu phù hợp nhất trong số những chỉ tiêu nêu trên để đưa vào báo cáo.
Trong phần báo cáo khung kế hoạch năm và báo cáo kế hoạch năm dưới đây, sẽ
trình bày cụ thể hơn về các chỉ tiêu này.
c) Yêu cầu thông tin đi kèm các chỉ tiêu cần thu
thập:
Số liệu, chỉ tiêu trong hệ thống thông tin phục vụ công tác kế hoạch hoá
và xây dựng báo cáo năm không những phải được tổ chức khoa học để thuận lợi khi
tra cứu mà phải chứa đựng những thông tin về chính các số liệu và chỉ tiêu đó
(rất thường xảy ra là chúng ta không chú ý đến ghi lại những thông tin này). Những
yêu cầu thông tin cơ bản phải đi kèm với các số liệu, chỉ tiêu này là:
(1) Phần nguồn gốc của dữ liệu:
- Nguồn gốc số liệu: Lấy từ sách nào, tài liệu, báo cáo nào;
- Tên cơ quan ban hành sách, tài liệu đó;
- Tên chính xác của số liệu này trong tài liệu chính thức;
- Khoảng thời gian có số liệu (ví dụ từ năm 1980 đến nay);
- Số liệu thu thập được theo quý, tháng hay năm ?
- Đơn vị đo lường: tấn, m3, triệu đồng...;
- Số liệu được tính theo giá hiện hành hay so sánh, năm gốc là năm nào;
(2) Phần nội dung của dữ liệu:
- Định nghĩa nội dung của dữ liệu. Ví dụ nói sản xuất 10 triệu tấn xi
măng, vậy gồm các loại xi măng gì, quy đổi giữa chúng ra sao để cộng lại thành
10 triệu tấn. Tương tự đối với các loại đường, gạo,...
- Khoảng thời gian thống kê dữ liệu, ví dụ tỷ giá hoặc giá trung bình của
tháng hay vào ngày giữa tháng, cuối tháng ?
(3) Phần cơ sở ban đầu cung cấp số liệu:
- Đơn vị đầu tiên tạo ra số liệu, dữ kiện và cung cấp cho các cơ quan
ban hành chính thức ? Ví dụ Tổng công ty Thép cung cấp cho Bộ Công nghiệp, rồi
Bộ Công nghiệp cấp cho Tổng cục Thống kê để Tổng cục Thống kê tổng hợp, công bố
thành thông tin dùng chung. Như vậy, số liệu gốc là từ Tổng công ty Thép.
- Phương pháp báo cáo là gì ? Theo điều tra định kỳ và gửi lên Tổng cục
Thống kê hay thỉnh thoảng mới tổ chức điều tra khi có yêu cầu.
- Thời gian có thể có số liệu: Ví dụ ngày 10 hàng tháng thì có số ước
tính của tháng trước, ngày 20 thì có số chính thức.
3) Các bảng biểu liên quan đến báo cáo khung kế hoạch
năm
Để giúp các Bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch theo một phương pháp
luận chung đồng thời cũng để tạo thuận lợi cho quá trình tổng hợp kế hoạch sau
này, cùng với phổ biến khung kế hoạch cho các Bộ, ngành, địa phương, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đã chuẩn bị và phổ biến Danh mục các bảng, biểu giao các đơn vị kế hoạch
điền cùng với khung kế hoạch để cung cấp thông tin phục vụ xây dựng báo cáo
năm. Nội dung các bảng biểu gồm:
a) Các biểu hướng dẫn các Bộ, ngành xây dựng báo cáo
năm (đánh giá thực hiện năm trước, dự kiến kế hoạch năm tới), gửi Bộ Kế hoạch
và Đầu tư.
Đối với các Bộ, ngành và Tổng công ty 91, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị
điền vào 17 bảng sau:
(1) Các chỉ tiêu về sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản;
(2) Các chỉ tiêu về sản xuất công nghiệp;
(3) Các chỉ tiêu về dịch vụ;
(4) Các chỉ tiêu về xuất khẩu, nhập khẩu;
(5) Các chỉ tiêu về vận tải, bưu chính viễn thông;
(6) Các chỉ tiêu về dịch vụ tài chính;
(7) Các chỉ tiêu về văn hoá, phát thanh, truyền hình, du lịch, thể thao;
(8) Các chỉ tiêu về giáo dục và đào tạo;
(9) Các chỉ tiêu về dân số, lao động, y tế, xã hội, môi trường;
(10) Các chỉ tiêu về thu - chi ngân sách nhà nước;
(11) Các chỉ
tiêu về huy động vốn đầu tư phát triển;
(12) Danh mục
các dự án đầu tư (nguồn vốn ngân sách nhà nước);
(13) Danh mục
các dự án đầu tư (nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước);
(14) Danh mục
các dự án đầu tư chủ yếu trong năm tới (thuộc các nguồn vốn khác);
(15) Danh mục
các dự án quy hoạch, chuẩn bị đầu tư;
(16) Các chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án lớn;
(17) Năng lực tăng thêm trong các ngành kinh tế.
b) Các biểu hướng dẫn các địa phương xây dựng báo cáo năm (đánh giá thực
hiện năm trước, dự kiến kế hoạch năm tới), gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Đối với các Bộ, ngành, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị điền vào 11 bảng, gồm:
(1) Các chỉ tiêu kinh tế, xã hội chủ yếu;
(2) Các chỉ tiêu sản xuất chủ yếu;
(3) Các chỉ tiêu về xã hội và xoá đói giảm nghèo;
(4) Các chỉ tiêu
về huy động vốn đầu tư phát triển;
(5) Đầu tư phát
triển trên địa bàn;
(6) Danh mục các
dự án đầu tư của địa phương quản lý (nguồn vốn ngân sách nhà nước);
(7) Danh mục các
dự án đầu tư của địa phương quản lý (nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước);
(8) Danh mục các
dự án đầu tư khác (thuộc các nguồn vốn khác);
(9) Các chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án lớn;
(10) Dự án xây dựng
trung tâm cụm xã;
(11) Danh mục
các dự án đầu tư của các Bộ, ngành Trung ương quản lý trên địa bàn địa phương
(nguồn vốn ngân sách nhà nước).
2.2) Một
số quy trình xử lý những vấn đề cụ thể:
Trong bản quy trình đã có những quy định cụ
thể quy trình tổng hợp và giao kế hoạch đối với một số lĩnh vực đặc thù như:
- Tổng hợp và điều hành kế hoạch đầu tư xây dựng
cơ bản;
- Xây dựng và tổng hợp kế hoạch tài chính -
tiền tệ;
- Quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức ODA;
- Quy trình thẩm định dự án đầu tư;
- Quy trình thẩm định kết quả đấu thầu các dự
án đầu tư.
Vì các quy trình này không gắn nhiều với công
tác kế hoạch hoá cấp tỉnh, huyện nên chúng không được trình bày ở đây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét