Nỗi buồn chiến tranh và văn học phản chiến
Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh ra đời năm 1987, xuất bản lần đầu tiên ở Việt Nam năm 1990. Nó trở thành một trong ba tiểu thuyết được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải trong năm 1991, tuy nhiên sau đó giải thưởng đã bị thu hồi trước sự phản đối của công chúng. Nguyên nhân là do tác giả đã hư cấu ra nhiều tình tiết xúc phạm, bịa đặt về người lính Quân đội Nhân dân Việt Nam, và những nhận xét mang tính bôi nhọ cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam. Sau 30 năm tranh cãi, ngày 30/11/2025, tác phẩm này được chọn là một trong 50 tác phẩm văn học – nghệ thuật xuất sắc nhất sau năm 1975, được Phó thủ tướng Mai Văn Chính và Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Trịnh Thị Thủy đến dự lễ vinh danh và trực tiếp trao giải cho nhà văn Bảo Ninh.
Tôi đã đọc tiểu thuyết này khoảng năm 1992-1993 nhưng nói thật là không thích nó, cũng như không thích một số tiểu thuyết nổi đình nổi đám của các nhà văn đối lập với nhà nước thời đó (dĩ nhiên nhà văn Bảo Ninh không phải là nhà văn loại này). Bây giờ đang bận nhiều việc, nên tôi cũng không muốn mất thời gian xem lại. Có điều hôm qua, ngồi ăn trưa với một GSTS đáng kính, ông có nhắc tới tiểu thuyết này. Sáng nay xem FB, thấy một số ý kiến tranh luận về nó, nên tôi muốn viết mấy dòng. Lưu ý là tôi chỉ viết nhận thức chung về lịch sử và chiến tranh của tôi chứ không bàn trực tiếp tới Nỗi buồn chiến tranh vì tôi không nhớ nội dung của nó.
1. Chiến tranh là tất yếu ?
Tôi giảng môn học Lịch sử kinh tế và Kinh tế Việt Nam, trong đó thường nhấn mạnh Lịch sử loài người thường được nhìn nhận là lịch sử chiến tranh cướp đất đai, tài nguyên của nhau. Điều này không chỉ đúng với con người mà còn đúng với hầu hết các sinh vật trên thế giới, kể cả cỏ cây hoa lá.
Nguyên nhân thì rất nhiều, trước tiên là nguyên nhân Kinh tế và Tài nguyên: Trong suốt chiều dài lịch sử, đặc biệt là trong các xã hội nông nghiệp và tiền công nghiệp, đất đai là nguồn tài nguyên quan trọng nhất, quyết định sự sinh tồn và giàu có. Nó cung cấp nơi ở, nguồn lương thực, và các tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, nước, rừng...). Việc sở hữu nhiều đất đai và tài nguyên giúp một cộng đồng, giai cấp hay quốc gia tích lũy tư bản, từ đó dẫn tới tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra không thể không kể tới sự tham lam vô độ của nhiều thế lực; họ không chấp nhận chia đều tài nguyên cho tất cả mọi người, từ đó gây ra các cuộc chiến tranh để tranh giành tài nguyên, của cải .
Nguyên nhân Chính trị và Xã hội là những người mạnh, nước mạnh thường muốn khẳng định Quyền lực và Vị thế. Do đó chiến tranh là công cụ để các cá nhân và quốc gia mở rộng lãnh thổ, gia tăng quyền lực và vị thế trên trường quốc tế. Chiếm được đất đai đồng nghĩa với việc gia tăng dân số, lực lượng lao động, lực lượng vũ trang và khả năng kiểm soát giao thương.
Nguyên nhân Chính trị và Xã hội là những người mạnh, nước mạnh thường muốn khẳng định Quyền lực và Vị thế. Do đó chiến tranh là công cụ để các cá nhân và quốc gia mở rộng lãnh thổ, gia tăng quyền lực và vị thế trên trường quốc tế. Chiếm được đất đai đồng nghĩa với việc gia tăng dân số, lực lượng lao động, lực lượng vũ trang và khả năng kiểm soát giao thương.
Mặt khác, con người có xu hướng muốn thay đổi trật tự ổn định hiện có để tối đa hóa lợi ích của bản thân mình, trong khi lợi ích của các cá nhân, các quốc gia thường khác nhau. Vì không thể thuyết phục đối phương nhượng bộ, họ vừa không ngại, vừa bắt buộc phải sử dụng vũ lực. Chính vì thế giới luôn luôn có xung đột lợi ích giữa các dân tộc nên các dân tộc và quốc gia luôn có nhu cầu bảo vệ tổ quốc và lợi ích của mình, điều này đòi hỏi phải có quân đội và quốc phòng, tạo ra sự lo sợ và đối đầu lẫn nhau, dẫn tới kẻ mạnh thường ra tay tiêu diệt kẻ yếu để phòng trừ hiểm họa.
Các nhà triết học và nhà xã hội học thường nói về nguyên nhân Tâm lý và Bản chất. Nhiều người cho rằng chiến tranh là thuộc tính vốn có của loài người, luôn luôn tồn tại và không thể tránh được, tương tự như bản năng hiếu chiến được quan sát thấy ở một số loài linh trưởng. Đối với những người này, chiến tranh Vẫn Là Tất yếu, nó xuất phát từ Bản chất của Con người. Con người có nhận thức là có ngay tham vọng vị kỷ. Rồi mỗi nhóm người, mỗi dân tộc đều có văn hóa khác nhau và có xu hướng xung đột nhau. Đây cũng là những đặc tính cố hữu của con người. Có lòng tham, có va chạm văn hóa, bất công xã hội, áp bức dân tộc và đói nghèo cũng không bao giờ chấm dứt thì chiến tranh sẽ luôn luôn tồn tại; có chăng chỉ thay đổi hình thức. Ví dụ thay cho chiến tranh hạt nhân hủy diệt tất cả, họ gây chiến trên không gian mạng và dùng diễn biến hòa bình để can thiệp chính trị, đặc biệt là dùng chiến tranh ủy nhiệm.
Thực tế các lý thuyết kinh tế thời chiến và lý thuyết kinh tế hiện đại có bàn về chiến tranh đều không bác bỏ được chiến tranh dù chiến tranh là tai họa cho cả bên thắng trận cũng như bên thua trận. Họ cho rằng con người chỉ có thể Giảm thiểu được Chiến tranh. Có nhiều con đường để đạt mục tiêu này. Ví dụ lý thuyết tân tự do (Neo-Liberalism) cho rằng việc xây dựng một nhà nước chung cho cả thế giới với Liên hợp quốc là Chính phủ, các bộ ngành là IMF, WB, WTO, WHO, FAO, UNIDO, UNESCO,… trong đó các nhà nước chấp nhận từ bỏ ngày càng nhiều chủ quyền quốc gia và tự giới hạn khuôn khổ hành động của mình trong luật pháp quốc tế, không có một quyền lực nhà nước nào vượt trội hẳn lên, đóng vai trò “siêu nhà nước” để điều phối, tổ chức và chế tài quan hệ giữa các quốc gia; tất cả các quốc gia, kể cả Mỹ, đều bình đẳng trước luật lệ quốc tế chung, thì chiến tranh sẽ giảm thiểu. Tương tự, mô hình chuỗi giá trị toàn cầu cũng biến các quốc gia thù địch thành các đối tác kinh doanh thân thiết, từ đó cũng giảm được nguy cơ chiến tranh.
Con đường thứ hai là triết lý hòa bình của các nước NATO ngay từ sau chiến tranh thế giới thứ hai: Chạy đua vũ trang và phát triển sức mạnh của Vũ khí Hạt nhân. Khi hai bên đều có khả năng hủy diệt nhau thì cả hai đều phải kiềm chế không gây ra chiến tranh toàn cầu. Con đường thứ ba phát Phát triển Con người, làm cho con người tiến hóa về mặt nhận thức, xã hội để có thể tìm ra những cách thức giải quyết xung đột mà không cần đến bạo lực. Những người theo chủ thuyết này cho rằng việc đạt được hòa bình vĩnh viễn phụ thuộc vào khả năng của loài người trong việc kiểm soát các thuộc tính tiêu cực của bản năng, tăng cường hợp tác quốc tế, và giải quyết triệt để các gốc rễ của sự bất bình đẳng và tranh chấp lợi ích.
2. Chiến tranh là “ta thắng, địch thua” ? Trong bối cảnh đó, văn học có nhiệm vụ gì ?
Chiến tranh trong thực tế không chỉ là bảng tổng kết thắng – thua, mà còn là bi kịch của con người: mất mát, tan vỡ, mất niềm tin, tổn thương tâm lý, đổ vỡ gia đình… Khi đọc Nỗi buồn chiến tranh, nhiều cựu chiến binh không phản đối việc nói về nỗi đau, mà bất bình khi cảm thấy mình bị “xuyên tạc” hoặc “phủ nhận lý tưởng” chiến đấu vì độc lập tự do của tổ quốc của mình. Nhưng cũng có rất nhiều cựu chiến binh ủng hộ việc phản ánh sự thật toàn diện, vì chính họ là những người đã phải trả giá đắt nhất cho cuộc chiến tranh.
Thực tế “Thắng lợi vĩ đại” và “Nỗi đau sâu sắc” không loại trừ nhau; chúng tồn tại song hành trong cùng một sự thật lịch sử.
Rõ ràng văn học không phải là bản tin tuyên truyền, mà là gương soi tâm hồn con người trong các hoàn cảnh cực đoan, nhất là trong chiến tranh. Những tác phẩm như Nỗi buồn chiến tranh được viết ra không nhằm phản đối Tổ quốc, phản đối tinh thần chiến đấu hy sinh quên mình của các chiến binh mà phản đối chiến tranh, một bi kịch luôn luôn có mặt trong lịch sử loài người. Bi kịch vì ngay cả người thắng cuộc cũng phải gánh chịu rất nhiều tổn thất, có khi làm kiệt quệ cả quốc gia trong hàng thế kỷ.
Nếu văn học chỉ “tô hồng” chiến tranh, chỉ nói đến anh hùng, chiến thắng, khí phách, thì sẽ mất đi chiều sâu nhân văn, và dễ dẫn đến việc lãng mạn hóa chiến tranh, khiến thế hệ trẻ không hiểu rõ giá phải trả. Chính nhờ có những tác phẩm như Nỗi buồn chiến tranh mà con người, nhất là những thế hệ trẻ hiện nay và mai sau, mới hiểu rõ giá trị của hòa bình đồng thời cũng sẵn sàng tham gia bảo vệ Tổ quốc, nhưng tham gia một cách tỉnh táo, chứ không phải vì ảo tưởng “chiến tranh như phim”.
Vậy “tô hồng” “ta thắng, địch thua” có cần thiết không ? Cũng rõ ràng là phải Có, nhưng nhất định tô hồng phải có giới hạn.
Tuyên truyền chính trị cần nhấn mạnh tinh thần yêu nước, ý chí quật cường, và thành tích chiến thắng. Điều đó không sai, giống như động viên nhau trong thi đấu thể thao.
Nhưng văn học nghệ thuật cần không gian để trung thực, để đặt câu hỏi, để phơi bày vết thương, vì đó là cách để hàn gắn và để trưởng thành, làm cho con người tiến hóa về mặt nhận thức, xã hội từ đó có thể tìm ra những cách thức giải quyết hòa bình các xung đột mà không cần dùng đến bạo lực.
Lịch sử cũng đã chứng minh một dân tộc mạnh không phải là dân tộc chỉ kể về chiến thắng, mà là dân tộc dám nhìn thẳng vào nỗi đau của mình, để không bao giờ lặp lại sai lầm, và trân trọng hòa bình, coi hòa bình là thứ quý giá, thiêng liêng nhất.
Một câu hỏi nữa là thanh niên có chịu ra trận chiến đấu bảo vệ tổ quốc không sau khi đọc những tác phẩm như Nỗi buồn chiến tranh ?
Thế gian này không có cái gì là tuyệt đối; con người luôn luôn đối mặt với sự đánh đổi, được cái này phải mất cái kia. Đây là nguyên lý, là cơ sở đầu tiên để xây dựng ra ngành khoa học kinh tế. Do đó lo ngại nêu trên là đúng, có cơ sở, tuy nhiên điều đó chưa đủ vì thiếu toàn diện.
Thanh niên ngày nay không mù quáng, họ có học, có trí tuệ. Họ chỉ cần lý do chính đáng để hy sinh. Nếu họ biết hy sinh để bảo vệ độc lập của tổ quốc, chủ quyền và nhân phẩm dân tộc, vì cuộc sống hòa bình, hạnh phúc của người thân và đồng bào, thì họ sẽ vẫn sẵn sàng ra trận.
Đọc những tác phẩm như Nỗi buồn chiến tranh, họ hiểu rõ sự thật về chiến tranh, gồm cả những thắng lợi và cả mất mát, hy sinh, nên họ sẽ không khao khát chiến tranh, nhưng cũng sẵn sàng chiến đấu khi Tổ quốc lâm nguy, vì họ hiểu hòa bình không tự đến, mà phải trả giá để giữ gìn.
Thực tế, nhiều nước có nền tự do dân chủ và văn học phản chiến mạnh rất mạnh vẫn có lực lượng vũ trang trung thành và tinh nhuệ vì những người lính ở đó phục vụ lý tưởng bảo vệ tự do dân chủ, quyền và cuộc sống của con người, chứ không phải vì họ không biết chiến tranh là tàn khốc, là chết chóc.
3. Vậy có nên trao giải cho “Nỗi buồn chiến tranh” không ?
Theo tôi, việc Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch đưa tác phẩm này vào danh sách “50 tác phẩm tiêu biểu” có lẽ không phải để phủ nhận chiến thắng, mà chỉ là ghi nhận chiều sâu nhân văn của những ký ức chiến tranh. Nó giúp mỗi người chúng ta trưởng thành hơn trong cách quan sát, nhìn nhận và đánh giá lịch sử: từ đơn tuyến (chỉ thắng – thua) sang đa chiều (chiến thắng + bi kịch + bài học). Điều này cũng giống như tôi giảng lịch sử và kinh tế: Có thành công và có những thất bại, vấn đề là phải nhìn thẳng vào những sự thật đó để chỉ ra được những nguyên nhân và rút ra được những bài học.
Nhiều nước từng trải qua chiến tranh đã tôn vinh dòng văn học phản chiến, nhưng lòng yêu nước của người dân vẫn vững chắc, vì họ phân biệt rõ: phản đối chiến tranh, nêu ra mặt trái của chiến tranh không phải là phản đối Tổ quốc.
Điều quan trong là chỉ nên “tô hồng” có giới hạn để duy trì ý chí chiến đấu, và không được trần trụi hóa chiến tranh đến mức bóp méo tinh thần dân tộc và sự hy sinh của những người lính.
Sự thật đầy đủ, bao gồm cả vinh quang lẫn nỗi đau, mới là nền tảng vững chắc nhất để giáo dục lòng yêu nước chân chính và trách nhiệm công dân. Một thế hệ trẻ hiểu rõ giá trị của hòa bình, sẽ sẵn sàng hy sinh khi cần, nhưng không bao giờ khao khát chiến tranh, đó mới là biểu hiện của một dân tộc văn minh và trưởng thành.
Nếu “Nỗi buồn chiến tranh” phản ảnh được triết lý đó, thì việc trao giải cho nó là hoàn toàn chính xác. Dĩ nhiên, nếu ngược lại, chỉ bôi đen, chỉ phản ánh mặt trái, tiêu cực, làm người đọc bi quan, thất vọng, thì trao giải cho nó là hoàn toàn sai.
Các nhà triết học và nhà xã hội học thường nói về nguyên nhân Tâm lý và Bản chất. Nhiều người cho rằng chiến tranh là thuộc tính vốn có của loài người, luôn luôn tồn tại và không thể tránh được, tương tự như bản năng hiếu chiến được quan sát thấy ở một số loài linh trưởng. Đối với những người này, chiến tranh Vẫn Là Tất yếu, nó xuất phát từ Bản chất của Con người. Con người có nhận thức là có ngay tham vọng vị kỷ. Rồi mỗi nhóm người, mỗi dân tộc đều có văn hóa khác nhau và có xu hướng xung đột nhau. Đây cũng là những đặc tính cố hữu của con người. Có lòng tham, có va chạm văn hóa, bất công xã hội, áp bức dân tộc và đói nghèo cũng không bao giờ chấm dứt thì chiến tranh sẽ luôn luôn tồn tại; có chăng chỉ thay đổi hình thức. Ví dụ thay cho chiến tranh hạt nhân hủy diệt tất cả, họ gây chiến trên không gian mạng và dùng diễn biến hòa bình để can thiệp chính trị, đặc biệt là dùng chiến tranh ủy nhiệm.
Thực tế các lý thuyết kinh tế thời chiến và lý thuyết kinh tế hiện đại có bàn về chiến tranh đều không bác bỏ được chiến tranh dù chiến tranh là tai họa cho cả bên thắng trận cũng như bên thua trận. Họ cho rằng con người chỉ có thể Giảm thiểu được Chiến tranh. Có nhiều con đường để đạt mục tiêu này. Ví dụ lý thuyết tân tự do (Neo-Liberalism) cho rằng việc xây dựng một nhà nước chung cho cả thế giới với Liên hợp quốc là Chính phủ, các bộ ngành là IMF, WB, WTO, WHO, FAO, UNIDO, UNESCO,… trong đó các nhà nước chấp nhận từ bỏ ngày càng nhiều chủ quyền quốc gia và tự giới hạn khuôn khổ hành động của mình trong luật pháp quốc tế, không có một quyền lực nhà nước nào vượt trội hẳn lên, đóng vai trò “siêu nhà nước” để điều phối, tổ chức và chế tài quan hệ giữa các quốc gia; tất cả các quốc gia, kể cả Mỹ, đều bình đẳng trước luật lệ quốc tế chung, thì chiến tranh sẽ giảm thiểu. Tương tự, mô hình chuỗi giá trị toàn cầu cũng biến các quốc gia thù địch thành các đối tác kinh doanh thân thiết, từ đó cũng giảm được nguy cơ chiến tranh.
Con đường thứ hai là triết lý hòa bình của các nước NATO ngay từ sau chiến tranh thế giới thứ hai: Chạy đua vũ trang và phát triển sức mạnh của Vũ khí Hạt nhân. Khi hai bên đều có khả năng hủy diệt nhau thì cả hai đều phải kiềm chế không gây ra chiến tranh toàn cầu. Con đường thứ ba phát Phát triển Con người, làm cho con người tiến hóa về mặt nhận thức, xã hội để có thể tìm ra những cách thức giải quyết xung đột mà không cần đến bạo lực. Những người theo chủ thuyết này cho rằng việc đạt được hòa bình vĩnh viễn phụ thuộc vào khả năng của loài người trong việc kiểm soát các thuộc tính tiêu cực của bản năng, tăng cường hợp tác quốc tế, và giải quyết triệt để các gốc rễ của sự bất bình đẳng và tranh chấp lợi ích.
2. Chiến tranh là “ta thắng, địch thua” ? Trong bối cảnh đó, văn học có nhiệm vụ gì ?
Chiến tranh trong thực tế không chỉ là bảng tổng kết thắng – thua, mà còn là bi kịch của con người: mất mát, tan vỡ, mất niềm tin, tổn thương tâm lý, đổ vỡ gia đình… Khi đọc Nỗi buồn chiến tranh, nhiều cựu chiến binh không phản đối việc nói về nỗi đau, mà bất bình khi cảm thấy mình bị “xuyên tạc” hoặc “phủ nhận lý tưởng” chiến đấu vì độc lập tự do của tổ quốc của mình. Nhưng cũng có rất nhiều cựu chiến binh ủng hộ việc phản ánh sự thật toàn diện, vì chính họ là những người đã phải trả giá đắt nhất cho cuộc chiến tranh.
Thực tế “Thắng lợi vĩ đại” và “Nỗi đau sâu sắc” không loại trừ nhau; chúng tồn tại song hành trong cùng một sự thật lịch sử.
Rõ ràng văn học không phải là bản tin tuyên truyền, mà là gương soi tâm hồn con người trong các hoàn cảnh cực đoan, nhất là trong chiến tranh. Những tác phẩm như Nỗi buồn chiến tranh được viết ra không nhằm phản đối Tổ quốc, phản đối tinh thần chiến đấu hy sinh quên mình của các chiến binh mà phản đối chiến tranh, một bi kịch luôn luôn có mặt trong lịch sử loài người. Bi kịch vì ngay cả người thắng cuộc cũng phải gánh chịu rất nhiều tổn thất, có khi làm kiệt quệ cả quốc gia trong hàng thế kỷ.
Nếu văn học chỉ “tô hồng” chiến tranh, chỉ nói đến anh hùng, chiến thắng, khí phách, thì sẽ mất đi chiều sâu nhân văn, và dễ dẫn đến việc lãng mạn hóa chiến tranh, khiến thế hệ trẻ không hiểu rõ giá phải trả. Chính nhờ có những tác phẩm như Nỗi buồn chiến tranh mà con người, nhất là những thế hệ trẻ hiện nay và mai sau, mới hiểu rõ giá trị của hòa bình đồng thời cũng sẵn sàng tham gia bảo vệ Tổ quốc, nhưng tham gia một cách tỉnh táo, chứ không phải vì ảo tưởng “chiến tranh như phim”.
Vậy “tô hồng” “ta thắng, địch thua” có cần thiết không ? Cũng rõ ràng là phải Có, nhưng nhất định tô hồng phải có giới hạn.
Tuyên truyền chính trị cần nhấn mạnh tinh thần yêu nước, ý chí quật cường, và thành tích chiến thắng. Điều đó không sai, giống như động viên nhau trong thi đấu thể thao.
Nhưng văn học nghệ thuật cần không gian để trung thực, để đặt câu hỏi, để phơi bày vết thương, vì đó là cách để hàn gắn và để trưởng thành, làm cho con người tiến hóa về mặt nhận thức, xã hội từ đó có thể tìm ra những cách thức giải quyết hòa bình các xung đột mà không cần dùng đến bạo lực.
Lịch sử cũng đã chứng minh một dân tộc mạnh không phải là dân tộc chỉ kể về chiến thắng, mà là dân tộc dám nhìn thẳng vào nỗi đau của mình, để không bao giờ lặp lại sai lầm, và trân trọng hòa bình, coi hòa bình là thứ quý giá, thiêng liêng nhất.
Một câu hỏi nữa là thanh niên có chịu ra trận chiến đấu bảo vệ tổ quốc không sau khi đọc những tác phẩm như Nỗi buồn chiến tranh ?
Thế gian này không có cái gì là tuyệt đối; con người luôn luôn đối mặt với sự đánh đổi, được cái này phải mất cái kia. Đây là nguyên lý, là cơ sở đầu tiên để xây dựng ra ngành khoa học kinh tế. Do đó lo ngại nêu trên là đúng, có cơ sở, tuy nhiên điều đó chưa đủ vì thiếu toàn diện.
Thanh niên ngày nay không mù quáng, họ có học, có trí tuệ. Họ chỉ cần lý do chính đáng để hy sinh. Nếu họ biết hy sinh để bảo vệ độc lập của tổ quốc, chủ quyền và nhân phẩm dân tộc, vì cuộc sống hòa bình, hạnh phúc của người thân và đồng bào, thì họ sẽ vẫn sẵn sàng ra trận.
Đọc những tác phẩm như Nỗi buồn chiến tranh, họ hiểu rõ sự thật về chiến tranh, gồm cả những thắng lợi và cả mất mát, hy sinh, nên họ sẽ không khao khát chiến tranh, nhưng cũng sẵn sàng chiến đấu khi Tổ quốc lâm nguy, vì họ hiểu hòa bình không tự đến, mà phải trả giá để giữ gìn.
Thực tế, nhiều nước có nền tự do dân chủ và văn học phản chiến mạnh rất mạnh vẫn có lực lượng vũ trang trung thành và tinh nhuệ vì những người lính ở đó phục vụ lý tưởng bảo vệ tự do dân chủ, quyền và cuộc sống của con người, chứ không phải vì họ không biết chiến tranh là tàn khốc, là chết chóc.
3. Vậy có nên trao giải cho “Nỗi buồn chiến tranh” không ?
Theo tôi, việc Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch đưa tác phẩm này vào danh sách “50 tác phẩm tiêu biểu” có lẽ không phải để phủ nhận chiến thắng, mà chỉ là ghi nhận chiều sâu nhân văn của những ký ức chiến tranh. Nó giúp mỗi người chúng ta trưởng thành hơn trong cách quan sát, nhìn nhận và đánh giá lịch sử: từ đơn tuyến (chỉ thắng – thua) sang đa chiều (chiến thắng + bi kịch + bài học). Điều này cũng giống như tôi giảng lịch sử và kinh tế: Có thành công và có những thất bại, vấn đề là phải nhìn thẳng vào những sự thật đó để chỉ ra được những nguyên nhân và rút ra được những bài học.
Nhiều nước từng trải qua chiến tranh đã tôn vinh dòng văn học phản chiến, nhưng lòng yêu nước của người dân vẫn vững chắc, vì họ phân biệt rõ: phản đối chiến tranh, nêu ra mặt trái của chiến tranh không phải là phản đối Tổ quốc.
Điều quan trong là chỉ nên “tô hồng” có giới hạn để duy trì ý chí chiến đấu, và không được trần trụi hóa chiến tranh đến mức bóp méo tinh thần dân tộc và sự hy sinh của những người lính.
Sự thật đầy đủ, bao gồm cả vinh quang lẫn nỗi đau, mới là nền tảng vững chắc nhất để giáo dục lòng yêu nước chân chính và trách nhiệm công dân. Một thế hệ trẻ hiểu rõ giá trị của hòa bình, sẽ sẵn sàng hy sinh khi cần, nhưng không bao giờ khao khát chiến tranh, đó mới là biểu hiện của một dân tộc văn minh và trưởng thành.
Nếu “Nỗi buồn chiến tranh” phản ảnh được triết lý đó, thì việc trao giải cho nó là hoàn toàn chính xác. Dĩ nhiên, nếu ngược lại, chỉ bôi đen, chỉ phản ánh mặt trái, tiêu cực, làm người đọc bi quan, thất vọng, thì trao giải cho nó là hoàn toàn sai.
Bai viet tuyet voi ---hom nay nhu ngoi lai giang duong cam on bac Duc
Trả lờiXóa