Thứ Bảy, 12 tháng 4, 2014

(2) Những ngày cuối cùng của Sài Gòn (hết)

Xem phần trước ở đây: Những ngày cuối cùng của Sài Gòn
Những ngày cuối cùng của Sài Gòn
Công việc bàn giao chức vụ được tiến hành vào ngày thứ hai, 28 tháng Tư, buổi chiều 17 giờ, trong dinh tổng thống, nằm trong một tam giác với đại sứ quán Mỹ và nhà thờ công giáo. Mây mưa nặng nề kéo đến trên thành phố. Trời đã tối. Đèn trong dinh được bật lên khi những người của “lực lượng thứ ba”, nhóm nhỏ những người trung lập, quốc gia chủ nghĩa và phật tử chiến đấu, những người cho tới lúc đó không được phép vào trong dinh tổng thống mới của năm 1964, bước qua cánh cửa mở rộng vào trong gian sảnh tiếp đón và tạm thời ngồi xuống ở hàng ghế thứ hai.
Tổng thống Trần Văn Hương (giữa) ngày 27-4-1975 – 
một ngày trước khi trao quyền cho ông Dương Văn Minh

Hàng ghế đầu dành cho phó tổng thống Hương và các bộ trưởng cho tới thời điểm đó. Có lẽ khoảng 100 người, cho tới 17 giờ hầu như chỉ làm đầy được một nửa gian sảnh. Tiếp theo ở phía sau đó là giới báo chí quốc tế. Trên các lối đi, cách bục diễn thuyết không xa, là máy quay của các đài truyền hình.

Chống gậy khập khiển, phó tổng thống Hương bước vào gian sảnh, có “Big Minh” đi kèm, người mà người ta có thể nhận ra một vẻ hãnh diện nhất định cho vai trò mới này. Minh nhìn những người bạn và những người theo ông ở hàng ghế thứ nhì, những người dưới thời Thiệu đã bị gièm pha và bị các cơ quan nhà nước hành hạ nhiều năm trời; cuối cùng thì cũng đứng trước ngưỡng cửa của ảnh hưởng và sự công nhận của giới công khai: Nguyễn Văn Huyền, một luật sư mà sự hiểu biết về chuyên môn của ông có nhiệm vụ bổ sung cho sức thu hút của Big Minh; thượng nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, một con người nhanh nhẹn, hiền lành, luôn mỉm cười lịch sự, một Phật tử sùng đạo và là người cầm cờ của các nhà sư quốc gia chủ nghĩa ở chùa Ấn Quang; và bên cạnh nhiều người khác nữa cũng là Nguyễn Văn Tuyên, một người yêu nước thành thật, người qua chiếc kính mắt dầy cộm của mình đã phát hiện nhiều biển thủ, cẩu thả và tham nhũng trong chính phủ đã từ chức hơn là tất cả các thành viên khác của quốc hội cộng lại.

Khi cuối cùng rồi Trần Văn Hương bước lên bục diễn thuyết có treo huy hiệu tổng thống ở mặt trước, một cơn mưa bắt đầu trút xuống, lớn tới mức trong Sài Gòn nhiệt đới cũng được xem là bất thường. Cơn mưa đầu tiên sau mùa khô kéo dài nhiều tháng trời rơi xuống như một trận ngập lụt từ trên trời. Mây đen phủ tối bầu trời; giống như màn đêm đã buông xuống Sài Gòn. Bài diễn văn của Hương được nhiều tia sét đi kèm, rồi tiếng sấm tiếp theo sau đó. Richard Wagner cũng không thể dàn dựng đỉnh cao này tốt hơn.

Nhiều câu trong bài diễn văn ngắn của Trần Văn Hương bị cơn mưa đầy sấm sét này che phủ mất. Gió bão thổi màn che của những chiếc cửa sổ cao bay tung lên, đánh lạc hướng mối quan tâm của thính giả ra khỏi con người nói chuyện mờ nhạt này. Hương khiến cho khán giả của ông phải chán ngán với tính bướng bỉnh của một người muốn giữ đúng một hình thức đã mất ý nghĩa của nó từ lâu. Người thị trưởng từng được mến chuộng của Sài Gòn trước đây đã đánh mất phần còn lại của sự tin tưởng trong lần hợp tác với Thiệu, người đã lợi dụng tiếng tốt của ông mà không giao quyền lực thật sự cho người phó. Còn lại là một sự cứng đầu cứng cổ giả làm tính nguyên tắc. Người đàn ông già ốm đau này, cần dùng một cây gậy để đi lại, thật sự là một biểu tượng của trật tự đang sụp đổ.
Sài Gòn, 30 Tháng Tư 1975, xe tăng Bắc Việt bị bắn cháy gần phi trường Tân Sơn Nhứt. Hình: Jacques Pavlovsky/Sygma/CORBIS

Ông hẳn đã diễn thuyết độ mười phút. Các nhà báo không quan tâm và cũng bị trận mưa đánh lạc hướng cho tới mức hầu như không ai để cho phiên dịch bài diễn văn. Tất cả mọi người đều chờ “Big Minh”, chờ một chính phủ mới, một kế hoạch lập hòa bình mà người cộng sản muốn chấp nhận.

Hương khập khiển trở về chỗ của mình. Cả gian sảnh im lặng. Mọi ánh mắt đều hướng tới “Big Minh”, vì người ta chờ bước kế tiếp từ ông. Nhưng ông vẫn ngồi trên ghế của mình. Lần ngưng giữa chừng trong nghi thức mà không nhận ra được ý nghĩa của nó làm tăng sự căng thẳng.

Rồi cuối cùng người ta nhìn thấy một người lính canh, đeo thắt lưng trắng và dây đeo, đứng ở phía trước bên trái, cạnh cửa cánh, bước vào giữa gian sảnh tới bục diễn thuyết. Ông dùng hai tay cầm huy hiệu của tổng thống, giật nó ra khỏi móc treo, quay người với những cử động giật nhanh, tạo một vẻ buồn cười cho những người lính đang đi duyệt binh, bước ra hướng cửa và mang biểu tượng của tổng thống Việt Nam Cộng hòa ra khỏi gian phòng với những bước chân khoan thai.

Giới chính khách và nhà báo giữ im lặng, một sự im lặng mà người ta có thể xem như phút mặc niệm cho một trật tự được mang một cách tượng trưng từ sân khấu chính trị sang đống rác của lịch sử. Khán giả chăm chú theo dõi những cử động long trọng của người lính vệ binh bây giờ đang tiến gần tới lá cờ Nam Việt Nam ở bức tường phía trước, nhấc nó lên khỏi giá cắm và mang nó một cách chậm chạp, lúc nào cũng đi thẳng, ra khỏi gian phòng.

Lá cờ màu vàng với ba sọc đỏ là do người linh mục trẻ tuổi Trần Hữu Thanh phác thảo năm 1945, người sau này thân cận với tổng thống công giáo Diệm và tuyên truyền cho “triết lý chủ nghĩa cá nhân” của ông ta. Bây giờ, trong tháng Tư 1975, cha Thanh đã tham gia phe đối lập chống Thiệu từ lâu. Ông đã tạo khoảng cách với một hệ thống đã được xóa bỏ một cách tượng trưng qua lần mang lá cờ đi ra ngoài.


29 tháng Tư 1975: Một người phụ nữ Việt Nam ngồi trên boong của một con tàu đổ bộ tấn công của Mỹ trong cuộc di tản khỏi Sài Gòn. Hình: AP

Đối với tôi, lá cờ ít có ý nghĩa. Nhưng từ chuyến đi tường thuật đầu tiên của tôi trong cuộc chiến này, tôi đã trải nghiệm nó như là biểu tượng của một quốc gia mà nhiều trăm ngàn người Việt đã hy sinh cho nó. Hơn 500.000 lính Mỹ đã được gởi tới đây để củng cố cho nền cộng hòa Nam Việt Nam mà 50.000 người trong số đó đã tử trận. Lá cờ vàng đỏ này đã trang trí cho các quan tài khi trên nghĩa trang quân đội lớn ở ngoài Sài Gòn, trên đường đi Biên Hòa, khi mỗi năm một lần người ta tiến hành tưởng niệm những người đã hy sinh trong một buổi lễ quốc gia long trọng.

Hàng triệu người đã chết một cái chết vô nghĩa. Đối với tôi, đó dường như là một hành động cay độc, để cho lá cờ biến mất và qua đó mà trốn tránh một trách nhiệm lịch sử.

Người lính vệ binh quay lại gian sảnh, cầm một dấu hiệu tổng thống mới trên hai tay. Với một cú đánh mạnh, ông gắn chặt biểu tượng của tổng thống “Big Minh” vào bục diễn thuyết. Hoa sen xanh nổi bật trên nền trắng. Chắc là một người nghiệp dư đã phải hấp tấp tạo ra kiểu mẫu này. Hẳn là không còn có thể tìm được một bản nào tốt hơn trong Sài Gòn. Vì không còn có thể điều hành quốc gia với những phần còn lại của xã hội này được nữa. Chỉ những kẻ mơ mộng mới tìm được hy vọng trong lần thay đổi biểu tượng vào giờ chót này.

Chỉ sau khi người lính trở về chỗ ban đầu của ông, giống như qua đó mà quá khứ đã được xóa bỏ và con đường đi tới một tương lai tốt hơn được mở ra, “Big Minh” đứng dậy từ ghế ngồi của ông, khoan thai đi tới bục diễn thuyết và bắt đầu đọc một tuyên bố của chính phủ mà trong đó lời đề nghị ngưng bắn ngay tức khắc được đưa ra. Như đã thỏa thuận với đại sứ Mỹ Graham Martin, Minh không nhắc tới lời yêu cầu di tản ngay tức khắc tất cả các quân nhân Mỹ. Nhưng ông cũng không còn nói về “những người cộng sản” nữa, mà là về “những người bạn của chúng ta ở phía bên kia… Chúng tôi thật sự mong muốn hòa giải. Các anh chắc chắn biết điều đó. Hòa giải đòi hỏi mỗi một thành phần của quốc gia đều tôn trông quyền được sống của những thành phần khác. Đó là tinh thần của Hiệp định Paris… Những ngày sắp tới sẽ hết sức khó khăn…Tôi không hứa hẹn nhiều.” “Big Minh” bổ nhiệm luật sư Nguyễn Văn Huyền làm phó tổng thống. Thượng nghị sĩ Vũ Văn Mẫu làm thủ tướng. Một chính phủ chưa được giới thiệu.

Tướng Dương Văn Minh nhậm chức tổng thống, Sài Gòn, 28 tháng Tư 1975.

Lúc đó, tôi không nghe bài diễn văn của “Big Minh” cho tới khi kết thúc. Đối với tôi, nội dung lời tuyên bố của ông là hoàn toàn không có ý nghĩa gì trong sự so sánh với những cảnh tượng trưng cho một lần tự xóa bỏ nhà nước mà chúng tôi vừa quay xong. Nhà nước Sài Gòn thật sự đã hy sinh cái lớn nhất, để thúc đẩy Bắc Việt đi tới thỏa hiệp chính trị vào phút cuối cùng: nó đã tự tan rã, từ bỏ những biểu tượng cho sự tồn tại của chính mình, tự sát vì sợ chết.

Để đưa cuốn phim lên chiếc máy bay chuyến tối sang Bangkok càng nhanh càng tốt, tôi đã cùng đội quay phim rời gian sảnh trước. Ở trước cửa, tôi trình bày một “dự thảo văn bản” cho ban biên tập. Vài phút sau đó, người quay phim và cộng tác viên người Việt lâu năm của chúng tôi đi xe ra phi trường. Đó là vào khoảng 18 giờ, mưa đã giảm bớt đi rất nhiều.

Cho tới khách sạn “Continental” có nhiều nhà báo sống ở trong đó chỉ tốn mười phút đi bộ. Hàng hiên, vào buổi chiều là điểm gặp gỡ cho giới báo chí, quân nhân Mỹ, giới ngoại giao và dân kinh doanh đủ các loại, bây giờ trông như bị bỏ hoang. Các nhà báo vẫn còn quan sát lần thay đổi quyền lực trong dinh tổng thống. Phần khách còn lại đã hiểu được những dấu hiệu của cuộc chiến và chuẩn bị cho tình huống khẩn cấp. Cũng có không ít người đang theo dõi trực tiếp lần nhậm chức của “Big Minh” trước các màn hình. Những chiếc taxi màu xanh-nâu sáng đỗ trước “Continental” như thường lệ. Để giết thời gian, tôi thuê một chiếc cho một chuyến đi vào Chợ Lớn.

Sau hai kilômét, chúng tôi tới nhà ga. Bất chợt có những chiếc A-37 bay ở phía trên chúng tôi, bổ nhào xuống tấn công. Người ta nghe được tiếng bom nổ ở hướng phi trường. Vài giây sau đó, hỗn loạn xảy ra trong thành phố. Ai có súng đều bắt đầu bắn lên trời. Người dân chạy, nằm xuống đất, tiếp tục chạy đi. Tiếng ồn của vũ khí tăng lên thành một nền âm thanh, càng làm cho người ta hoảng sợ, và hầu như không ai nhận biết được nguyên do nổ súng. Sài Gòn bắn lên trời vì sợ. Bốn chiếc máy bay chiến đấu hạng nhẹ kiểu A-37 bị không quân Bắc Việt tịch thu đã cất cánh từ Phan Rang Air Base, khoảng 200 kilômét đông bắc Sài Gòn, và được gởi tới phi trường Tân Sơn Nhứt dưới sự lãnh đạo của một phi công Nam Việt đào ngũ.

Hiệu ứng tâm lý của lần bỏ bom thủ đô Nam Việt vượt quá mọi sự mong đợi. Sau khi những quả bom đó rơi xuống và Sài Gòn đạt tới một trạng thái hoảng loạn, cái khiến cho người ta nhớ tới những cảnh đông người trên các bậc thang Odessa của [nhà đạo diễn] Sergei Eisenstein, thì ai cũng biết rõ rằng giờ của trận đánh đã bắt đầu.

Lần bắn súng vô nghĩa mà dân cư vũ trang của Sài Gòn đã dùng nó để kết thúc lần tự phá hủy trật tự cho tới nay kéo dài cho tới khi trời tối, hơn một giờ đồng hồ. Giới nghiêm bắt đầu sau đó. Việt Nam Cộng Hòa đã chấm dứt tồn tại trước khi bị xâm chiếm.

Sài Gòn, 30 tháng Tư 1975, Trung tá Cảnh sát Quốc gia Nguyễn Văn Long tuẫn tiết dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến trước Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa. Hình: Jacques Pavlovsky / Sygma / CORBIS

Tháo gỡ các biểu tượng nhà nước và phản ứng hoảng loạn của người dân Sài Gòn trước lần ném bom phi trường cho tới nay đã không được nhắc tới hay chỉ được đề cập sơ qua trong các tường thuật của nhân chứng và trong các diễn tả lịch sử.

Các cơ chế phòng vệ tâm lý đã đẩy cuộc di tản bằng máy bay đầy kịch tính, bắt đầu vào trưa ngày hôm sau đó, 29 tháng Tư, vào trong trung tâm điểm. Những dịch chuyển trọng tâm như vậy cũng được quan sát thấy tại các chiến bại lịch sử khác của “người da trắng” ở châu Á. Trong văn học và trong điện ảnh, lần quân đội Mỹ đầu hàng ở Corregidor, tháng Tư 1942 trong vịnh Manila, đã bị che phủ bởi những sự tàn bạo của người Nhật trong “chuyến bộ hành tử thần Bataan” để đi tới các trại tù binh; và “Câu cầu sông Kwai” đã quan tâm tới sự tưởng tượng của Phương Tây nhiều hơn là kết cuộc của doanh trại Anh tại Malaya và Singapore.

Thật sự là hoạt động chính trị-ngoại giao cuối cùng mà “Big Minh” đã đứng tại tâm điểm của nó – được khuyến khích và cố vấn bởi Graham Martin và Jean-Marie Merillon – đã trì hoãn cuộc di tản Sài Gòn và qua đó đã gây hại nghiêm trọng về tâm lý và chính trị.

Ngay sau bài diễn văn của “Big Minh”, đài phát thanh Hà Nội đã phát đi một tuyên bố với lời lẽ cứng rắn hết sức bất thường và với một tính yêu cầu dứt khoát, vượt quá tất cả các phát ngôn trong những ngày vừa qua. Đài phát thanh kêu gọi người dân Sài Gòn hãy “nổi dậy”.

Chẳng bao lâu sau đó, đại diện phe cộng sản, những người đã xây nơi cư trú của họ trong khu vực của phi trường thành một căn cứ chỉ huy mà các nhà quan sát ở bên ngoài hoàn toàn không hay biết gì, đã gọi điện tới các thông tấn xã Mỹ và tờ New York Times. Một phát ngôn viên đọc một bản tuyên bố mà trong đó Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ bị cáo buộc vẫn tiếp tục can thiệp vào tình hình. Nước Mỹ được yêu cầu hãy “xóa bỏ chính quyền của chiến tranh và áp bức ở Sài Gòn”. Lời tuyên bố của Mr. Minh không đáp ứng được yêu cầu này…

Qua đó, Bắc Việt đã phá hủy ảo tưởng cuối cùng. “Giải pháp Lào” giống như một canh bạc. Mỹ và các đại diện của Sài Gòn đã đi nước cờ cuối cùng của họ. Họ đã đi tới kết cuộc. Sự hấp tấp và hoảng loạn đặc trưng cho cuộc di tản của ngày hôm sau đó cũng đã lấy đi cả “thể diện” của họ dưới con mắt của châu Á.

Lần ném bom phi trường vào lúc 18 giờ chiều ngày thứ hai thật sự đã là tín hiệu cho cuộc tấn công. Suốt cả đêm đó, Sài Gòn bị bắn phá bởi đạn pháo và hỏa tiển. Cuộc di tản bằng máy bay bắt đầu vào chiều ngày thứ ba: lúc đầu là từ một điểm tập trung trong khu vực phi trường, sau đó từ nóc nhà của tòa đại sứ quán Mỹ. Bốn giờ sáng ngày thứ tư, 30 tháng Tư, đại sứ Mỹ Graham Martin rời khỏi nước. Những người lính Mỹ cuối cùng, mười một lính thủy quân lục chiến, bay vào lúc 7 giờ 53 phút từ Sài Gòn ra hạm đội trước bờ biển. Vào lúc 11 giờ trưa, 30 tháng Tư, xe tăng Bắc Việt tới dinh tổng thống ở nội thành. Một người lính với lá cờ của “chính phủ cách mạng lâm thời” lao lên cầu thang, để gắn nó lên ban công như là dấu hiệu của chiến thắng.

Lá cờ cũ đã được lấy vào từ lâu rồi.

Winfried Scharlau
Phan Ba dịch từ báo Die Zeit, số 18, ra ngày 26/04/1985:
http://www.zeit.de/1985/18/die-letzten-tage-von-saigon/komplettansicht

http://phanba.wordpress.com/2014/04/11/nhung-ngay-cuoi-cung-cua-sai-gon-het/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét