QUỐC HỘI KHÓA XIII
UỶ BAN KINH TẾ
Số: 1123/BC-UBKT13
|
CỘNG HOÀ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do
- Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 17 tháng 5
năm 2013
|
BÁO CÁO
thẩm tra đánh giá bổ sung kết
quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội
về Kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội năm 2012, tình hình triển khai
thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013
thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013
Để chuẩn bị cho Kỳ họp thứ 5
Quốc hội khóa XIII, ngày 26/4/2013, Ủy ban Kinh tế đã tổ chức phiên họp toàn
thể thẩm tra Báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2012, tình hình triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội năm 2013 của Chính phủ. Tham dự phiên họp có Phó Chủ tịch Quốc hội
Nguyễn Thị Kim Ngân, đại diện Thường trực một số Ủy ban của Quốc hội và lãnh
đạo một số Bộ, ngành, cơ quan hữu quan[1].
Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội, Báo cáo của Chính phủ, trên cơ sở ý
kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội; qua tổng hợp ý kiến của Hội đồng dân tộc,
các Ủy ban của Quốc hội, một số Đoàn ĐBQH, các chuyên gia kinh tế, nhà khoa học
và báo cáo của một số UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, qua giám sát,
khảo sát thực tế tại địa phương và ý kiến thảo luận tại phiên họp toàn thể, Ủy
ban Kinh tế
thay mặt Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội xin báo cáo một số nội dung như
sau:
PHẦN I
ĐÁNH GIÁ BỔ SUNG KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ
QUYẾT CỦA
QUỐC HỘI VỀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- XÃ HỘI NĂM 2012
Theo Báo cáo
đánh giá bổ sung của Chính phủ, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị chúng ta đã đạt những
kết quả quan trọng trong việc thực hiện Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012. Có 11/15 chỉ
tiêu đạt và vượt Kế hoạch cao hơn số báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 (10/15)[2], cán cân thương mại đã cải thiện rõ rệt[3],
xuất siêu 780 triệu USD, cán cân thanh toán tổng thể thặng dư gần 9 tỷ USD đã góp phần tăng dự trữ ngoại hối; thị trường ngoại tệ
và tỷ giá ổn định[4]. Chỉ số giá tiêu dùng tăng 6,81% thấp hơn nhiều so
với mức tăng 18,13% năm 2011 và 11,75% năm 2010. Các lãi suất chủ chốt của NHNNVN đã được điều chỉnh
giảm dần[5].
Tăng trưởng lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt cao hơn so với Kế hoạch. Trong
bối cảnh ngân sách nhà nước gặp nhiều khó khăn nhưng kinh phí bố trí thực hiện các chính sách an sinh xã
hội đạt 35,8% tổng chi NSNN, tăng 33,2% so với thực hiện năm 2011. Công tác đối
ngoại tiếp tục được tăng cường, ngày càng khẳng định vai trò và vị thế của nước
ta trong khu vực và trên thế giới. Quốc phòng, an ninh tiếp tục được củng cố, an
ninh chính trị trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Lực lượng Công an đã tăng
cường các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, điều tra, khám phá nhiều vụ
án lớn, nghiêm trọng.
Tuy nhiên, nền
kinh tế đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn có mặt còn
nghiêm trọng hơn so với năm trước. Tăng trưởng kinh tế cả năm chỉ đạt 5,03% là mức tăng
chưa hợp lý, thấp hơn số báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 là 5,2% và thấp hơn
nhiều so với Nghị quyết của Quốc hội tăng từ 6-6,5%[6]. Tổng
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội cả năm 2012 dù tăng 7% so với năm trước[7] nhưng chỉ
bằng 28,5% GDP và thấp hơn so với Nghị quyết của Quốc hội là 33,5%, là năm có
tỷ trọng vốn đầu tư so với GDP thấp nhất trong những năm gần đây[8]. Tổng
phương tiện thanh toán tăng 22,4% trong khi dư nợ tín dụng cả năm chỉ tăng
8,91%, nối tiếp đà sụt giảm mạnh dư nợ tín dụng từ tăng 31% năm 2010
xuống còn mức tăng 14,41% năm 2011.
Chỉ số hàng tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng[9]; tồn kho bất động sản và nợ xấu vẫn ở mức cao[10]. Khu vực doanh nghiệp, động lực chính tạo
ra của cải, vật chất, việc làm gặp rất nhiều khó khăn[11].
Số lượng
doanh nghiệp giải thể, phá sản, ngừng hoạt động năm 2012 là 54.261 doanh
nghiệp, cao hơn năm 2011. Đến hết năm 2012 cả nước có tới 69% số doanh nghiệp báo
lỗ. Riêng thành phố Hà Nội có khoảng 46.000 doanh nghiệp trong tổng số khoảng
90.000 doanh nghiệp báo lỗ với số lỗ khoảng 47.000 tỷ đồng[12]. Tình hình này đã tác
động tiêu cực đến lao động,
việc làm; số lao động đăng ký bảo hiểm thất nghiệp tăng[13].
Xuất siêu là một tín hiệu
tốt, tuy nhiên phân tích tình hình xuất, nhập khẩu cho thấy thâm hụt thương
mại với Trung Quốc lớn[14],
có ý kiến cho rằng việc nền kinh tế chuyển nhanh từ trạng thái nhập siêu lớn
trong nhiều năm sang xuất siêu trong khi cơ cấu giữa các khu vực kinh tế, cơ
cấu ngành hàng và cơ cấu thị trường chưa được cải thiện nhiều, điều đó chưa
hẳn là dấu hiệu tích cực hoàn toàn và chưa mang tính bền vững mà phản ánh một
phần thực trạng đáng lo ngại là năng lực hấp thụ đầu vào của nền kinh tế đang
bị suy yếu, sản xuất vẫn chưa phục hồi.
Giá gạo xuất khẩu giảm do
nguồn cung gạo toàn cầu tăng và dự trữ gạo thế giới lớn[15].
Chính sách mua tạm trữ lúa, gạo còn nhiều bất cập, gây bức xúc trong nông dân
vì số lượng người được hưởng lợi trực tiếp còn ít, việc triển khai mua tạm trữ
còn chậm, thời hạn thực hiện ngắn trong khi thời gian thu hoạch cao điểm ở các
tỉnh chênh lệch nhau. Mặt khác, sự trao đổi, phối hợp giữa Hiệp hội lương thực
Việt Nam và UBND các tỉnh, thành phố trong việc phân giao chỉ tiêu và tổ chức
thu mua còn hạn chế, nhiều doanh nghiệp không có mạng lưới thu mua trực tiếp từ
nông dân mà thông qua các thương lái nên tình trạng ép giá vẫn xảy ra phổ biến.
Tổng thu
NSNN tăng 2.690 tỷ đồng so với dự toán và tăng 1.690 tỷ đồng so với số báo cáo
Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, phần tăng thu chủ yếu từ dầu thô và viện trợ không
hoàn lại[16].
Thu nội địa và thu xuất, nhập khẩu giảm mạnh[17],
nếu không có nguồn thu thêm từ hoạt động dầu khí thì ảnh hưởng lớn đến nhiệm vụ
chi năm 2012. Có ý kiến cho rằng cần đánh giá thực chất bội chi ngân sách 4,8%
GDP do đã ứng chi chưa bố trí được nguồn thu hồi 67.400 tỷ đồng hoặc phải chi
nhưng chưa có nguồn như hoàn thuế VAT 33.500 tỷ đồng, cấp bù chênh lệch lãi
suất tín dụng ưu đãi và phí quản lý đối với Ngân hàng Phát triển và Ngân hàng
Chính sách xã hội 6.260 tỷ đồng. Như vậy, tuy một số chỉ tiêu của năm 2012 đạt
Kế hoạch nhưng chưa thực chất và sẽ gây áp lực cho việc bố trí và điều hành
ngân sách các năm sau.
Có ý
kiến cho rằng lạm phát giảm mạnh trong năm 2012 nhưng thực tế có thể duy trì ở
mức thấp hơn nếu thực hiện hợp lý lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ công đối với y
tế và giáo dục[18];
khi duy trì lạm phát ở mức thấp, ổn định sẽ cho phép có thể hạ lãi suất ngân
hàng nhanh hơn. Cũng có ý kiến cho rằng việc chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp hơn
so với kế hoạch đã ảnh hưởng tiêu cực đến chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức
hợp lý. Việc can thiệp thị trường bằng các công cụ hành chính trong một số thời
điểm là cần thiết, trên thực tế đã phát huy tác dụng và mang lại nhiều kết quả
tích cực, tuy nhiên cần cân nhắc không để kéo dài, nhất là khi kinh tế vĩ mô
đạt mức độ ổn định nhất định để tránh méo mó về các chính sách và phân bổ nguồn
lực.
Vấn đề y đức, giá thuốc
và quá tải bệnh viện tuyến trung ương vẫn là những vấn đề được dư luận xã hội quan tâm. Kinh tế và
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi còn thiếu và yếu kém,
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Đời sống đồng bào dân tộc thiểu số và người
lao động còn nhiều khó khăn, kết quả giảm nghèo thiếu bền vững, tỷ lệ hộ tái
nghèo còn cao. Công tác đảm bảo trật
tự, an toàn giao thông, phòng cháy, chữa cháy đã có chuyển biến nhưng chưa thật
sự vững chắc. Việc
kiểm soát kém hiệu quả nhập khẩu hàng mất an toàn vệ sinh thực phẩm, sản xuất,
buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng diễn ra trong nhiều năm qua đã tác động
xấu đến sức khỏe người tiêu dùng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các doanh
nghiệp sản xuất trong nước.
PHẦN II
TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI
VỀ KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013
Những tháng đầu năm 2013, xu hướng chung của các nền kinh tế vẫn phải đối mặt với nhiều
khó khăn trong việc phục hồi đà tăng trưởng mặc dù tình hình các thị trường tài
chính đã được cải thiện một bước[19]. Cân bằng giữa hai
mục tiêu tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô vẫn là thách thức chính sách của đa
số các quốc gia. Hầu hết các khu vực kinh tế lớn đều áp dụng nới lỏng chính
sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Các nền
kinh tế đang phát triển ở châu Á được dự báo sẽ tăng trưởng cao hơn trong năm
nay nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn. Lạm phát tại các quốc gia châu Á dù
đang được kiểm soát ổn định nhưng áp lực lạm phát sẽ gia tăng lên khi hoạt động
sản xuất, kinh doanh phục hồi cùng với dòng vốn đầu tư từ các nền kinh tế phát
triển.
Triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, kinh tế 4 tháng đầu năm đạt được một số kết quả nhất định như Báo cáo
Chính phủ đã nêu: lạm phát tiếp tục được kiềm chế; dự trữ ngoại hối tăng cao; tỷ giá
ngoại tệ tương đối ổn định; xuất khẩu tăng
trưởng khá, nhập khẩu thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất bắt đầu tăng trở lại.
Các chính sách xã hội tiếp tục được quan tâm và triển khai kịp thời.
Tuy nhiên, đa số ý kiến
cho rằng các nỗ lực thực hiện các giải pháp về chính sách và điều hành thời
gian qua, những kết quả tích cực đạt được bước đầu vẫn chưa thể chuyển được xu
thế khó khăn và đạt tăng trưởng kinh tế năm 2013 như mục tiêu đề ra; trong khi
đó tái cơ
cấu nền kinh tế chưa có những chuyển biến cụ thể, chuyển đổi mô hình tăng trưởng cũng chưa có một
chương trình toàn diện theo ngành, vùng, lĩnh vực và đơn vị[20].
Tốc độ tăng trưởng GDP quý I/2013 tăng 4,89% có cao hơn
quý I/2012 (tăng 4,75%) nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với quý I/2011 (tăng 5,53%)
và quý I/2010 (tăng 5,84%). Tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp quý I/2013
chỉ đạt 4,93% là mức tăng thấp nhất so với quý I các năm 2010-2011-2012[21].
Tốc độ tăng trưởng nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I chỉ đạt 2,24% là mức tăng
thấp nhất so với cùng kỳ một số năm gần đây[22].
Xuất khẩu 4 tháng đầu năm của một số mặt hàng chủ lực như cà phê, cao su, thủy
sản giảm so với cùng kỳ.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tính
theo giá thực tế tăng 5,5% so với cùng kỳ, nhưng nếu loại trừ yếu tố tăng giá
thì sụt giảm[23];
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội quý I đạt 29,6% GDP, cũng thấp hơn so với
cùng kỳ của năm 2012 (36,2%). Cùng với
việc nguồn vốn FDI và tín dụng cho nền kinh tế tăng thấp, nguồn lực cho tăng
trưởng năm 2013 là rất khó khăn trong điều kiện hiệu quả đầu tư chưa thực sự
cải thiện.
Về tái cơ cấu đầu tư công,
nhiều ý kiến cho rằng hiện nay mới chỉ thực hiện theo Chỉ thị 1792/CT-TTg của
Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và
trái phiếu Chính phủ thì không thể bao hàm đầy đủ toàn diện các nội dung; mặt
khác dự án Luật đầu tư công chậm trình Quốc hội so với dự kiến và chuyển trình
Quốc hội từ Kỳ họp thứ 4 lên Kỳ họp thứ 6.
Về tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước, việc triển khai thực hiện chưa có tiêu
chí phân loại theo ngành nghề, lĩnh vực hoặc theo các nhóm để có giải pháp tái cấu
trúc đối với từng nhóm[24] mà thực hiện ở từng doanh nghiệp, chủ yếu tập trung vào ngành nghề
sản xuất, kinh doanh chính, chuyển giao nội bộ tập đoàn, tổng công ty hoặc
giữa các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, chưa tạo ra động lực và áp lực để buộc
các doanh nghiệp nhà nước đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ, ứng dụng khoa
học - kỹ thuật, nâng cao trình độ quản trị, tính cạnh tranh, tính hiệu quả và
phát triển bền vững. Đồng thời chưa ban hành hệ thống chính sách hỗ trợ các
doanh nghiệp thực hiện tái cơ cấu, nhất là vấn đề xử lý các khoản lỗ, dôi dư
cán bộ, người lao động.
Về tái cơ cấu các tổ chức tín
dụng, một số ý kiến cho rằng các ngân hàng đã triển khai có kết quả bước đầu
tái cơ cấu theo Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhưng cần minh bạch
thông tin đối với các ngân hàng, kể cả các ngân hàng thương mại hoạt động lành
mạnh và các ngân hàng thương mại hoạt động yếu kém để minh chứng đã triển khai
đúng hướng và không bị chi phối bởi nhóm lợi ích nhằm tăng lòng tin thị trường
và xã hội. Về việc xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng, một số ý
kiến đánh giá cao việc tăng cường trích lập dự phòng rủi ro giải quyết nợ xấu
và đảm bảo mục tiêu an toàn tiền gửi cho người gửi tiền.
Điều
hành thị trường vàng với một số kết quả ban đầu, nhưng còn nhiều luồng ý kiến
khác nhau khi giá vàng trong nước và giá vàng thế giới còn chênh lệch ở mức cao,
chưa đảm bảo giá vàng trong nước sát với giá vàng quốc tế như Nghị quyết của
Quốc hội. Số liệu nợ
xấu thông tin ra công chúng có lúc thiếu nhất quán cũng tạo hoài nghi, tác động
tâm lý xã hội, thị trường. Công tác đảm bảo an ninh,
trật tự, an toàn xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Tai nạn giao thông
tuy có chiều hướng giảm về số vụ, nhưng số người chết vẫn tăng so với cùng kỳ[25]. Tình hình dịch bệnh,
thiên tai diễn biến phức tạp gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, nhất là sản
xuất nông nghiệp. Tình trạng thiếu đói cục bộ xuất hiện ở một số địa phương,
đáng chú ý là khu vực đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Thực trạng quá tải tại các bệnh viện trung ương và bệnh viện các thành phố lớn
vẫn còn cao, trong khi đó nhân lực tuyến y tế cơ sở vừa thiếu về số lượng, vừa
hạn chế về chất lượng.
Từ tình hình trên Ủy ban Kinh tế cho rằng nhiệm vụ
trong những tháng còn lại của năm 2013 là hết sức nặng nề; vấn đề đặt ra là
phải xử lý hài hòa và đảm bảo thực hiện cả hai mục tiêu tăng trưởng và kiềm chế
lạm phát trong điều kiện nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn.
Đa
số ý kiến cho rằng sau một thời gian dài kiểm soát tăng
trưởng tín dụng để ưu tiên mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
nhiều doanh nghiệp đã ngừng sản xuất, giải thể, phá sản, một bộ phận lớn doanh
nghiệp đang nỗ lực vượt qua thời điểm khó khăn nhưng không thể kéo dài tình
trạng này hơn nữa. Cùng với yếu tố năng suất tổng hợp của nền kinh tế chậm cải
thiện do quá trình tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng mới chỉ bắt đầu, nếu
không sử dụng hợp lý các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng thì một mặt năng lực
sản xuất của nền kinh tế chưa thể phục hồi nhanh, mặt khác sẽ gây áp lực lên
lạm phát. Dự báo năm 2013 nền kinh tế chưa có thêm nhiều sản phẩm mới có khả
năng đẩy mạnh xuất khẩu trong khi đó dự báo giá cả thế giới sẽ giảm so với năm
2012 nên kim ngạch xuất khẩu 2013 khó có sự bứt phá mạnh. Vì vậy, bên cạnh các giải pháp hỗ
trợ sản xuất, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, các
giải pháp đối với chính sách tài khoá, tiền tệ để kích thích tổng cầu cần được
thực hiện ngay, việc linh hoạt các chính sách phải theo diễn biến và liều lượng
thích hợp, kiên định và nhất quán với mục tiêu tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô. Một số ý kiến cho rằng, tổng cầu
của nền kinh tế đang thấp, dự báo giá hàng hóa thế giới cũng không có biến động
lớn, nên áp lực lạm phát năm 2013 là không cao. Do lạm phát đang có xu hướng giảm
và mục tiêu lạm phát thấp hơn năm 2012 có khả năng đạt được nên trong những
tháng còn lại của năm 2013 chính sách kinh tế vĩ mô nên ưu tiên mục tiêu tăng
trưởng, phấn đấu đạt mức tăng trưởng kinh tế khoảng 5,5% như Nghị quyết của
Quốc hội.
Một số kiến nghị về nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới
Đa số ý kiến đề nghị cần quyết tâm cao tiếp tục thực hiện
các nhiệm vụ, giải pháp đã nêu trong Nghị quyết của Quốc hội được cụ thể hóa
trong Nghị quyết số 01/NQ-CP và 02/NQ-CP của Chính phủ; cơ bản tán
thành với các nhóm nhiệm vụ, giải
pháp bổ sung cần tập trung thực hiện trong những tháng còn lại của năm 2013
trong Báo cáo của Chính phủ, đồng thời đề nghị cần tập trung một số nhiệm vụ,
giải pháp dưới đây:
1. Triển khai nhanh và đồng bộ các chính sách
trong Nghị quyết số 01/NQ-CP và số 02/NQ-CP của Chính phủ, có các phương án tháo gỡ khó khăn cụ thể
đối với doanh nghiệp. Đề nghị Chính
phủ chỉ đạo các bộ, ngành liên quan xây dựng phương án hoặc kế hoạch triển khai
cụ thể về mục tiêu, chỉ tiêu, hạn định thời gian và các biện pháp mạnh hơn nhằm
giảm hàng hóa tồn kho và giảm nợ xấu, các giải pháp cụ thể để doanh nghiệp có
thể tiếp cận vốn vay với lãi suất hợp lý và các giải pháp hỗ trợ, khai thông
thị trường bất động sản theo chủ trương đã ban hành. Tập trung mọi nỗ lực tìm
kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nông sản, thủy sản; nâng cao công tác dự
báo tình
hình sản xuất và sản lượng lúa, gạo để quyết định thời gian, khối lượng tạm trữ
phù hợp, góp phần thúc đẩy việc tiêu thụ lượng lúa, gạo hàng hóa tại các địa
phương đảm bảo cho người trồng lúa có lãi tối thiểu 30%. Các phương án và kế
hoạch cụ thể cần được thông tin rộng rãi đến doanh nghiệp và người dân.
2. Rà soát lại tổng thể các dự
án đầu tư công, đánh giá việc cắt giảm, dừng thi công để có điều chỉnh hợp lý, hạn chế gây ra tổn
thất lớn và sự mất cân đối trong việc thực hiện đồng bộ qui hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của một số địa phương; đảm bảo bố trí đủ nguồn vốn để phát huy hiệu quả của dự án đầu tư sau khi
rà soát; đẩy nhanh hơn nữa tốc độ giải ngân vốn đầu tư phát triển nhằm hỗ trợ tổng
cầu của nền kinh tế; đồng thời có phương án xử lý nhanh các khoản nợ đọng, đặc
biệt là nợ đọng đối với doanh nghiệp trong xây dựng cơ bản.
3. Thận trọng trong việc điều chỉnh chính sách thu NSNN,
tránh giảm thu quá lớn; đồng thời cần đánh giá lại cơ cấu thu NSNN. Tiếp tục thực hiện hiệu quả việc thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong sinh hoạt, đời sống
của nhân dân, trong chi tiêu ngân sách nhà nước, giảm hội họp, hạn chế tổ chức
lễ hội, kỷ niệm thành lập ngành, cắt giảm các đoàn đi công tác nước ngoài bằng
nguồn ngân sách, kể cả đối với các doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu nhà nước nắm
quyền chi phối; đồng thời có
biện pháp chế tài xử lý người đứng đầu khi vi phạm. Không ban hành chính sách,
chế độ mới làm tăng chi ngân sách. Hạn chế tối đa việc ứng vốn đầu tư; các công
trình, dự án vốn không hoàn trả trong năm phải được Ủy ban thường vụ Quốc hội
xem xét, quyết định. Kiểm soát chặt chẽ chi dự phòng và các khoản chuyển nguồn.
4. Tiếp tục cụ thể
hóa và tập trung thực hiện những chủ trương, những mục tiêu đã được xác định
trong Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế, hướng tới tạo lập một hệ thống
động lực khuyến khích mới để phân bổ lại nguồn lực hiệu quả, hợp lý và bền vững
hơn. Sớm ban hành Đề án tái cơ cấu đầu tư công gắn với cải cách thể chế, đổi
mới phân cấp quản lý kinh tế, quản lý ngân sách nhằm thay đổi rõ rệt phương
thức phân bổ nguồn lực công, nâng cao hiệu quả đầu tư công. Rà soát, điều chỉnh
các quy định về sở hữu của các tổ chức tín dụng, giám sát hiệu quả việc sáp
nhập, hợp nhất, không gây xáo trộn trong hệ thống tổ chức tín dụng và đảm bảo
an toàn tiền gửi của người gửi tiền; tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng
trích đủ dự phòng rủi ro và đảm bảo nguồn tự xử lý nợ xấu phát sinh. Hoàn thiện
thể chế, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý
doanh nghiệp nhà nước, yêu cầu tất cả tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải công
bố công khai, minh bạch thông tin như quy định đối với doanh nghiệp niêm yết
trên thị trường chứng khoán. Hoàn thiện mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp.
5. Tiếp tục quan tâm thực hiện các chính sách đảm bảo an sinh xã hội, tạo thêm nhiều việc làm,
tăng thu nhập cho người lao động, thực hiện điều chỉnh lương tối thiểu cho
người lao động theo quy định của pháp luật lao động. Rà soát, sắp xếp lại hệ thống chính sách giảm nghèo hợp lý hơn, tiếp tục
nghiên cứu cơ chế phối hợp liên ngành hoặc giảm đầu mối quản lý để tránh chồng
chéo, lồng ghép chính sách hiệu quả hơn, đảm bảo mục
tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo một cách thực chất và bền vững.
6.
Nâng cao hiệu quả, chất lượng phục vụ của bộ máy chính quyền các cấp; đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, giải quyết các vấn đề bức xúc xã hội, khiếu nại, tố
cáo của công dân, nhất là các vụ khiếu nại, tố cáo liên quan đến vấn đề đất
đai, tạo sự đồng thuận của nhân dân với những chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước.
7. Tăng cường công tác
phân tích, dự báo tình hình để có chủ trương, đối sách phù hợp, đặc biệt là các
vấn đề biên giới, biển đảo, thực hiện các đề án, giải pháp đảm bảo an ninh,
trật tự tại các vùng chiến lược. Có chính sách hỗ trợ đối với ngư dân đánh bắt
cá xa bờ ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của nước ta.
Tham gia tích cực, hiệu quả tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, góp phần ứng phó
với các thách thức toàn cầu; đưa quan hệ giữa Việt Nam và các đối tác phát
triển sâu rộng, hiệu quả hơn. Tăng cường công tác đảm bảo an ninh kinh tế, an
ninh văn hóa, thông tin và đấu tranh phòng chống tội phạm; đẩy mạnh công tác
quản lý trật tự, an toàn giao thông, công tác kiểm tra an toàn về phòng chống
cháy nổ tại các địa bàn trọng điểm và khu vực đông dân, công tác phòng, chống
dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm.
Trên đây là Báo cáo thẩm
tra đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm 2012, tình hình triển khai thực hiện Kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm 2013.
Xin kính trình Quốc hội xem xét,
cho ý kiến./.
Nơi nhận:
- Các đại
biểu Quốc hội;
- Lưu: HC,
KT;
- E-pas:
34746
|
TM. ỦY BAN KINH TẾ
CHỦ NHIỆM
(đã
ký)
Nguyễn Văn Giàu
|
[1]
Các bộ, ngành, các cơ quan
hữu quan gồm: KHĐT; Tài chính; NNPTNT; Công thương; GTVT; Xây dựng; Lao động,
thương binh và xã hội; Y tế; Văn hóa, thể thao và du lịch; Thông và truyền
thông; NHNNVN; Ban KTTW; VPTW Đảng; VP Chủ tịch nước; VPCP; VPQH; KTNN; Viện
Hàn lâm KHXH Việt Nam.
[2] So với số
báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 thì có
7 chỉ tiêu vượt (tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ nhập siêu so với
tổng kim ngạch xuất khẩu, chỉ số giá tiêu dùng, tạo việc làm, tỷ lệ thất nghiệp
của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị, tỷ lệ hộ nghèo giảm, tỷ lệ cơ sở
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý), 5 chỉ tiêu không thay đổi (tỷ
lệ bội chi ngân sách nhà nước, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, số giường bệnh
trên 1 vạn dân, tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống
xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường, tỷ lệ che phủ rừng), 3 chỉ
tiêu giảm (Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP, tỷ lệ tổng vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội so với GDP và tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng). Chỉ tiêu
tỷ lệ giảm nghèo báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 là 1,76%, số thực hiện cả
năm là 2,16%.
[3]
Nhập siêu năm 2007 là 14,2 tỷ USD, năm 2008 là 18 tỷ USD, năm 2009 là 12,8 tỷ
USD, năm 2010 là 12,6 tỷ USD và năm 2011 là 9,8 tỷ USD.
[4] Tỷ
giá VND/USD liên ngân hàng hầu hết các tháng trong năm 2012 đều thấp hơn mức
trần niêm yết.
[5] Lãi
suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu và lãi suất huy động giảm từ 15%, 13%
và 14% đầu năm 2012 xuống còn 9%, 7% và 8% cuối năm 2012.
[6] Quý I tăng 4,64%; quý II tăng 4,08%; quý III tăng 5,05%; quý IV tăng
5,44%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP bình quân giai đoạn 2008-2012 chỉ đạt
5,84%, giảm mạnh so với mức tăng GDP bình quân 8,95% của giai đoạn 2003-2007.
[7] Năm
2011 tăng 5,7%.
[8] Năm
2007 chiếm 40,4% GDP tăng 15% so với năm 2006; 2008 chiếm 43,5% GDP tăng 22,2%;
năm 2011 chiếm 34,6% tăng 5,7%.
[9] Tồn
kho chế biến, chế tạo tại thời điểm tháng 12/2012 tăng 20,1% so với cùng kỳ năm
2011, đã giảm so với mức tăng tồn kho giữa năm, có thời điểm lên đến 27-28%.
[10] Nợ xấu năm 2012 tăng 64% so với
năm 2011. Bên cạnh đó, số liệu nợ xấu do các tổ chức tín dụng báo cáo và số do
Cơ quan thanh tra, giám sát NHNNVN đưa ra còn có sự khác biệt lớn.
[11] Theo báo cáo khảo sát của Viện
Phát triển doanh nghiệp thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(điều tra tại 600 doanh nghiệp), lý
do chính khiến doanh nghiệp phải ngừng hoạt động là: không tìm được thị
trường đầu ra (28,6%); không vay được vốn ngân hàng (21,4%); giá nguyên
vật liệu cao (17,9%). Theo Cơ quan thanh tra, giám sát NHNN,
năm 2012 nền kinh tế trả lãi ngân hàng 420 nghìn tỷ đồng.
[12] Tỷ lệ thua lỗ các
doanh nghiệp trong năm 2012 tiếp tục tăng mạnh. Trong ba loại hình doanh
nghiệp, khu vực doanh nghiệp FDI có tỷ lệ doanh nghiệp thua lỗ cao nhất trong
khi các doanh nghiệp này tiếp tục đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh tại
Việt Nam. Ngành xây dựng có tỷ lệ kinh doanh thua lỗ cao trong năm 2012. Với
tổng số 55.870 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó số doanh nghiệp thua lỗ là
17.000 doanh nghiệp, chiếm 30,4%. Sự suy giảm hoạt động kinh doanh của ngành
xây dựng đã khiến hoạt động của một số ngành cung cấp nguyên vật liệu xây dựng
giảm sút, theo đó, năm 2012, có đến 1/3 số lượng doanh nghiệp xi măng hoạt động
thua lỗ.
[13] Đối
tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) từ 7,9 triệu người (năm 2011) tăng
lên 8,3 triệu người (năm 2012, tăng 4,2% so với năm 2011). Số người được hưởng
trợ cấp BHTN trong 3 năm 2010 - 2012 tăng từ 145 nghìn (năm 2010) lên 410 nghìn
(năm 2011) và 461 nghìn (năm 2012).
[14] Giá
trị nhập siêu lên đến 16,7 tỷ USD từ Trung Quốc phần lớn tập trung vào các mặt
hàng nguyên phụ liệu, linh kiện lắp ráp, gia công và các máy móc thiết bị phục
vụ xuất khẩu.
[15]
Bình quân giá xuất khẩu gạo giảm 10,9% so với 2011.
[17] Thu
nội địa giảm so với số đã báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 là 9.570 tỷ đồng; thu từ hoạt động xuất,
nhập khẩu giảm 18.172 tỷ đồng.
[18] Lạm phát tháng 9/2012 bất ngờ tăng mạnh, bằng cả 7 tháng trước đó cộng lại. CPI
năm 2012 tăng 6,81% chủ yếu do tăng giá những nhóm hàng Nhà nước quản lý giá. Nếu loại trừ 2 nhóm hàng y tế và giáo dục thì CPI năm
2012 chỉ tăng 3,3%.
[19] Ngày
16/4/2013, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã hạ mức dự báo tăng trưởng kinh tế toàn
cầu trong năm 2013 xuống còn 3,3%, thấp hơn 0,2% so với dự báo đưa ra hồi tháng
1. Các nền kinh tế
thành viên như Pháp, Italy và Tây Ban Nha đều có tăng trưởng âm. Nền kinh tế
lớn nhất châu Âu là Đức được dự báo tăng trưởng dưới 1% trong năm 2013.
[20] Đề
án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế được trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp
thứ 3 (tháng 5/2012), đến tháng 2/2013 mới được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
là chậm so với Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 2011 – 2015: ngay từ năm 2012
chuẩn bị các điều kiện tái cơ cấu để từ năm 2013 đến năm 2015 tạo được chuyển
biến mạnh mẽ, cơ bản có hiệu quả rõ rệt.
[21] Quý
I/2010 là 5,65%; quý I/2011 là 6,66% và quý I/2012 là 5,15%.
[23] Chỉ số giá tiêu dùng bình quân
quý I/2013 tăng 6,91% so với bình quân cùng kỳ năm 2012.
[24] Nhóm 100 %
vốn nhà nước; nhóm có trên 51% vốn thuộc sở hữu nhà nước; nhóm
nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối...
[25]
Trong tháng 3 tai nạn giao thông giảm cả về số vụ và số người chết; tuy nhiên 3
tháng đầu năm cả nước xảy ra 2,8 nghìn vụ tai nạn, tăng 2,8%; số người chết
khoảng 2,6 nghìn người, tăng 6,3%.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét